Affichage des articles dont le libellé est Năm Mùi vui chuyện Dê trong kinh thánh. Afficher tous les articles
Affichage des articles dont le libellé est Năm Mùi vui chuyện Dê trong kinh thánh. Afficher tous les articles

dimanche 22 février 2015

Năm Mùi vui chuyện Dê trong kinh thánh


Hoàng Đức Trinh 2/11/2015

Giống như mục tử phân ra,
Chiên bên tay phải, dê qua trái người. (x. Mt 25, 33).

NĂM MÙI VUI CHUYỆN DÊ VỀ KINH THÁNH

Tôi còn nhớ mãi hình ảnh con dê trong cuốn sách giáo lý mà thời tôi còn bé, bố tôi thường mở ra chỉ dạy cho tôi. Cuốn sách có khổ lớn, mở ra to bằng trang nhật báo, cứ một trang in chữ, một trang in hình. Tôi không còn nhớ tên cuốn sách, nhưng nhớ mãi những trang hình, đặc biệt là cảnh hoả ngục.

Hoả ngục được vẽ trong tranh ấy có bẩy cửa, tượng trưng bẩy mối tội đầu. Mỗi cửa có vẽ một con vật làm biểu tượng cho một tội. Con heo cho tội mê ăn uống, con rùa cho tội làm biếng, con dê canh cửa thứ ba “giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục”.

Năm Mùi, nhớ lại con dê trong cảnh hoả ngục, tôi liền mở Kinh Thánh tìm xem Sách thánh nói đến con dê như thế nào?

Ngay cuốn sách đầu tiên là Sáng thế ký đã nhắc đến con dê, và rải rác các sách khác cũng có nói về dê, kể cả trong Tân Ước. Tuy dê không được Kinh Thánh coi trọng bằng bò tơ, cừu đực, nhưng cũng nói đến nhiều. Chúng tôi bắt đầu chuyện dê đầu tiên trong Sáng thế ký.

Thịt dê thế thịt rừng

Ông Ixaac và bà Rêbêca có hai người con trai là Exau và Giacop, ông thích thịt rừng nên ưa cậu cả Exau, bà lại thương con út Giacop hơn. Một hôm bà nghe được ông sai Exau đi săn lấy thú rừng về nấu cho ông món thịt rừng ông vẫn ưa thích, rồi ông chúc lành cho trước khi ông nhắm mắt về với tổ tiên. Bà liền vội vàng sai Giacop ra chuồng gia súc bắt hai con dê non mập mạp đem cho bà. Hai con dê bị bà lóc da, xẻ thịt, nấu món ăn theo đúng sở thích của ông Ixaac. Khi đã xong, bà cho Giacop đóng vai Exau bưng cỗ lên mời bố để nhận lãnh lời chúc phúc, trong khi Exau còn đang mải săn thú rừng. Giacop đắn đo: “Mẹ à, anh Exau người rậm lông, nhỡ ba con cầm tay con, biết là con xí gạt thì phúc chả thấy, thấy tội”… Bà Rebeca lấy da dê non bọc tay và cổ cho Giacop, bà còn dùng áo của Exau mặc cho Giacop… Ông Ixaac tuy loà không thấy, lại nghe giọng nói khác Exau, ông cũng bán tín bán nghi… Nhưng khi sờ thấy tay bọc da dê đầy lông, ông nghĩ đúng là Exau, nên đã chúc phúc cho Giacop!

Chính vì mâm cỗ lấy thịt dê thế thịt rừng ấy mà anh em hiềm thù nhau. Giacop phải trốn đi ở chăn dê cho cậu, ở mãi tận Khaban. (xem St 27, 1- 46).

Dê, của lễ đền tội

Dê được dùng làm tế phẩm dâng tiến Yavê, nhưng chỉ được dùng để làm của lễ đền tội, không như các con bò tơ hay chiên béo được dùng làm lễ vật tôn kính Chúa. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt người ta có thể dùng con dê cái non để giết ăn mừng lễ. (x.Đnl 15,22).

Theo sách Dân số, ông Môisen đã được Đức Yavê truyền dạy về những con vật được giết làm của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa như sau:

Trong các dịp lễ: lễ bánh không men, lễ các tuần, lễ lều, ngày sóc, ngày hò la, ngày xá tội…ngoài các tế phẩm như bò tơ, chiên con, cừu đực… còn phải có một con dê đực làm lễ đền tội (x. Ds 18). Một lễ đền tội điển hình được mô tả như sau: Vua Êxach tế lễ Chúa có dùng bẩy con dê đực làm lễ đền tội cho quốc gia. Bẩy con dê đực được dẫn đến trước mặt vua, rồi dân chúng đặt tay trên những con dê đó. Sau đó giết các con sinh tế ấy, lấy huyết rảy trên bàn thờ. (x.2Sk 29,20-24). Thông thường người ta dùng một con là đủ. Nhưng lễ đền tội cho một tập thể lớn, mới cần đến nhiều con dê đực, như trong lễ chuộc sau:

Ngày mồng ba tháng Ađa, năm thứ sáu triều vua Đariô (mồng 1 tháng 4 năm 515 trước công nguyên). Dân Itraen, các tư tế, các Thầy Lêvi và các dân lưu đày trở về, đã tổ chức lễ khánh thành Nhà Thiên Chúa, được xây trên nền cũ, tại Giêrusalem, sau kỳ lưu đày tại Babylon về. Họ đã dâng 100 con bò, 200 con cừu đực, 400 con chiên. Để làm lễ chuộc tội cho toàn thể dân Ítraen trong dịp này, họ bắt 12 con dê đực làm con sinh tế, đền thay cho số 12 chi tộc Ítraen. (x. Er 6, 15-17).

Đàn dê của ông Giacóp

Sau nhiều năm ở rể tại nhà ông Laban, Giacóp xin trở về quê hương cũ. Ông Laban nói với Giacóp: “Tôi biết, Đức Yavê đã vì anh mà chúc phúc cho tôi, tôi biết lấy gì mà trả công cho anh đây?”

Giacóp thưa lại: “Cậu đừng trả gì cho cháu cả, cháu chỉ xin cậu những con dê khoang lốm dốm thôi. Nếu mai này cháu xa cậu mà trong đàn dê của cháu có những con không khoang lốm đốm là không thuộc về cháu.”

Ngay hôm ấy, ông Laban cho lựa hết những con dê khoang lốm đốm dành cho Giacóp, lùa riêng đi cách xa đàn dê của ông tới ba ngày đường, giao cho các con ông chăm sóc, còn Giacóp vẫn phải chăn dê cho bố vợ như cũ. Giacóp muốn lợi dụng cơ hội này làm tăng thêm cho đàn dê khoang của mình. Ông chặt những cành cây bạch dương, cành hạnh đào, cành tiêu huyền còn tươi, bóc đi một phần vỏ cho lộ ra những sọc trắng. Ông cắm những cành cây đó cạnh máng nước, trước mặt những con dê đang uống nước, dê đực và dê cái khoẻ mạnh truyền giống bên máng nước ấy, sinh ra những con dê con mạnh khoẻ. Bằng cách ấy, Giacóp đã tạo cho mình thêm rất nhiều dê khoang đốm, đến nỗi Sứ thần Chúa cũng phải thốt lên: “Hãy ngước mắt lên mà coi, tất cả những dê đực dê cái phối giống bên máng nước đều sinh ra dê có khoang rằn ri lốm đốm… Bây giờ hãy chỗi dậy, ra khỏi đất này mà về bản quán của mình”. Lúc lên đường về quê, Giacóp đã giầu có lắm, với vô số cừu dê, tớ trai hầu gái đông đúc và từng bầy lạc đà, lừa vận tải…(xem. St 31, 24-43).

Dê, lễ vật ra mắt

Đọc Kinh Thánh, chúng ta đã biết Esau và Giacóp là anh em sinh đôi, Esau ra trước làm anh, nhưng vì đi săn về đói mệt đã bán chức trưởng nam cho Giacóp để lấy một bát cháo ăn đỡ lòng. Giacóp lại được mẹ hướng dẫn để dành được lời chúc phúc của cha. Chính vì thế, Esau tức giận đòi lấy mạng Giacóp, khiến bà mẹ phải để cho Giacóp trốn đi xa cưới vợ. Trở lại quê hương lần này, Giacóp vẫn sợ anh mình còn giận, nên đã bố trí cho cuộc anh em hội ngộ rất cẩn thận. Ông cho người ăn kẻ làm lùa những đàn vật đi trước để làm lễ vật ra mắt anh. Trong số những đàn vật ấy có một đàn dê đông đúc gồm hai trăm dê cái và hai mươi dê đực. Giacóp nghĩ thầm rằng, ta cho mang tặng phẩm này ra mắt anh trước để anh nguôi giận, sau ta mới đến giáp mặt anh ấy và may ra anh ấy sẽ nể ta.

Ông Esau được tin em về, cũng mang bốn trăm gia nhân đi đón Giacóp. Gặp nhau anh em ôm cổ nhau mà hôn, cả hai cùng đẫm ướt lệ mừng. Giacóp phải nài nỉ anh mãi, Esau mới nhận những món quà lòng thành Giacóp hiến tặng, trong đó có đàn dê là lễ vật cầu phúc. (x. St 32 và 33).

Con dê của bà Tôbit

Ông bà Tôbit là người kính sợ Chúa, ông thực hành đức bác ái bằng việc chôn xác những đồng hương bị giết rồi ném ra ngoài thành, dù ông bị ngăn cấm. Ông bà có một con trai tên là Tôbia.

Một hôm ông Tobit nằm ngủ ngoài hiên nhà, ông bị phân chim rơi trúng mặt, khiến hai mắt ông không còn thấy đường. Từ ngày ông bị mù, bà Anna vợ ông phải lo quán xuyến hết mọi việc nhà, lo bươn chải từ việc nặng nhọc đến những việc nhẹ, để bảo đảm cuộc sống gia đình. Tuy vậy, bà cũng không sao lãng bổn phận của phụ nữ: “Gái thì giữ việc trong nhà, Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa.”

Canh cửi không quá nặng nhọc, nhưng tốn nhiều thời gian, phải thức khuya dậy sớm làm việc thì mới dệt được nhiều vải. Bà cứ dệt, cứ dệt… được kha khá lại cắt vải đem đi giao hàng. Hôm ấy, nếu tính theo lịch Makêđônia là ngày mồng bảy tháng Đystro, tương đương với tháng Ađar của lịch Do thái, tức khoảng tháng hai tháng ba theo lịch ngày nay, bà xén vải đem đi giao. Họ đã trả đủ tiền vải cho bà, rồi còn tặng bà một con dê con, để bà có thể làm một bữa ăn thịnh soạn đãi cả nhà.

Con dê đã được cột một sợi dây vào cổ để bà có thể dắt nó đi dễ dàng. Khi bà dắt dê về đến nhà, con dê không chịu vào, bà lôi mạnh, con dê kêu lên be be… Ông Tôbit nghe tiếng dê kêu, liền hỏi bà:

- Ở đâu mà bà có được con dê đấy? Hay là bà bắt được của ai, hãy mau đem trả cho chủ nó! Vì ta không được phép dùng những của không phải là của mình.

Bà Anna vui vẻ, hãnh diện khoe với chồng:

- Con dê này là quà người ta tặng cho tôi, sau khi họ đã trả đầy đủ tiền vải.

Ông Tôbit vẫn không tin, có ai lại tốt bụng quá vậy. Ông cứ nằng nặc đòi bà phải đem dê đi trả, vì ông cảm thấy xấu hổ khi có bà vợ đi bắt dê của người ta về...

Thế là ông bất bình vì không đồng ý kiến, nhưng với tài thuyết phục và sự ngay thẳng của bà Anna, thế nào ông Tôbit cũng hiểu. (x. Tb 2,19-23).

Dê cừu song đấu

Đọc sách tiên tri Đanien, ta thấy ngôn sứ này được thấy nhiều thị kiến. Bằng giọng văn khải huyền, ông đã thuật lại những thị khiến ấy để tuyên sấm về những việc sẽ xảy ra, hầu cảnh cáo người đương thời. Một trong những thị kiến ấy là cuộc song đấu giữa một con cừu đực và một con dê đực.

Năm thứ ba triều vua Bantasa, vua nước Babylon, lần thứ hai Đanien được thị kiến. Khung cảnh của thị kiến được xảy ra ở thành Susa, trong địa hạt Êlam, đế đô của triều đại Akêđêmit, trên bờ sông Ulai. Khi ngôn sứ ngước mắt lên nhìn thì thấy một con cừu đực đứng đối diện với bờ sông. Bằng một sức mạnh kinh hồn, con cừu húc tới phía Tây, lao lên phía Bắc, rồi nhào xuống phía Nam mà không ai có thể cản nổi nó.

Ngay lúc ấy, xuất hiện một con dê đực từ hướng mặt trời lặn xông tới, nó rảo khắp thiên hạ mà chân không chạm đất. Dê xồm ấy có một cái sừng lồ lộ ngay giữa hai con mắt. Nó hùng hổ xông tới chỗ con cừu đực, con dê nổi giận đùng đùng, lấy đầu phang cho con cừu một phát, làm gẫy luôn cặp sừng của con cừu. Cừu đực lảo đảo, không còn sức chống cự. Được đà, con dê tông thêm một phát nữa làm con cừu lăn chiêng xuống đất. Rồi cứ thế, con dê dùng chân đạp túi bụi vào con cừu… Dê tưởng mình còn sung sức, không ngờ cũng choáng váng, vì cái sừng duy nhất đã bị gẫy sau khi triệt hạ đối phương. Nhưng ngay sau đó bốn sừng khác mọc lên, theo bốn hướng gió trời, thay thế cho cái sừng dê bị gẫy đó.

Thị kiến trên của ngôn sứ Đanien là một lời sấm tiên báo những việc xảy ra sau đó giữa các vua trong các xứ Mêđi, Ba tư và Hy lạp. Ai muốn biết rõ hơn về thị kiến trên, xin mở sách Đanien đọc tiếp. (x. Đn 8, 1-27).

Dê trong thi ca Kinh Thánh

Các tổ phụ dân Do thái xưa đều thuộc dân du mục, công việc chăn nuôi vì thế đã đi vào Kinh Thánh, nên sách Thánh đã ghi lại những kinh nghiệm trong cuộc sống, giống như ca dao, tục ngữ nước ta, nhờ đó hậu sinh nương đà mà phát triển:

Khi cỏ khô đã cắt và cỏ non lại mọc,

cỏ xanh trên đồi núi cũng được gom về,

thì con có tiền tậu ruộng nhờ dê,

sữa dê con uống thỏa thuê,

cả nhà no đủ, nữ tì cũng vui.(Cn 27, 25-27).

Dê giúp phát triển kinh tế, tăng nhanh tài sản như thế, nên không những được các chàng trai chăn dắt mà các thiếu nữ cũng góp phần. Cô thiếu nữ Gialiêm xưa khi đi chăn dê, muốn biết người tình đang nghỉ ở đâu, nàng đã được hướng dẫn:

Này hỡi trang tuyệt thế giai nhân,

nếu quả nàng không biết,

thì hãy ra đi theo vết chân đàn cừu,

mà dẫn dê con của nàng đi ăn

quanh các lều mục tử… (Dc 1,8)

Khi đã đến lều người yêu, nàng ngủ một giấc đầy mộng mơ, khiến chàng không dám cho ai làm nàng dở dang giấc điệp:

Nhân danh dê cái nhân vì linh dương,

Chớ làm kinh động cô nương.(Dc 2, 7).

Nàng đã say sưa ngủ, một giấc ngủ đầy mộng mơ. Mơ nàng xinh mái tóc, mơ chàng bảnh trai cường tráng:

Tóc nàng gợn sóng như đàn sơn dương từ trên ngàn Galat tủa xuống. (Dc 4, 1) và nàng muốn nói cùng chàng:

Hãy làm linh dương, làm nai nhỏ của lòng em. (Dc 8, 14).

Nhưng có lúc dê núi cũng gặp tai ách:

Sẽ như linh dương hoảng chạy, như cừu dê không người thâu họp. (Is 13, 14).

Không có người chăn quy tụ, bầy chiên dê biến mất khỏi ràn, (Kb 3, 17). Quả thật, cả chiên dê nhỏ nhất cũng bị lôi đi. (Gr 49, 20). Đúng như lời nguyền rủa: Chớ gì lều và chiên dê của chúng bị người ta lấy đi. (Gr 49, 29).

Để dựng lại cơ nghiệp, phải nhớ lời khuyên: Hãy trốn khỏi Babylon, ra khỏi đất Canđê và nên như những con dê đầu đàn,(Gr 50, 8) đợi khi chúng sẽ dẫn chiên dê đến đó. (Xp 2, 7).

Được kỳ bình an, người ta lo tìm của lễ tạ ơn:

Phải chăng Đức Chúa thích từng ngàn dê đực, hàng vạn suối dầu ? (Mk 6,7). Chúa không ưa của lễ dê bò, của lễ mà Chúa yêu thích chính là thực thi công bình, quý yêu nhân nghĩa và khiêm cung trước Chúa.

Vua Đavit tuy là người chăn dê, nhưng biết thực hành các đức tính ấy. Ông đã lãnh nhận sức mạnh từ nơi Đức Chúa, dùng trành ném đá hạ sát Goliat, Đavit được ca tụng như giết được mười ngàn tên giặc, cho nên:

Ông chơi với sư tử như giỡn với dê tơ,

Đùa với gấu như vờn vờ chiên nhỏ. (Hc 47, 3).

Dê còn được dùng trong nghi lễ tế tự, xông lên Giavê Thiên Chúa hương thơm, xin ơn xá tội:

Con tiến dâng Ngài bò chiên dê béo tốt,

Làm lễ toàn thiêu nghi ngút bay lên. (Tv 66, 15).

Dê trong ngày chung thẩm

Trong mắt các ngôn sứ, dê thường đại diện cho những kẻ phản nghịch với Thiên Chúa, mang ý nghĩa trái ngược với con chiên. Vì thế các tiên tri thường mô tả dê trú ngụ tại những nơi nhơ nhớp, gai góc rậm rạp…Isaia đã chúc dữ cho thành Babylon, một thành biểu tượng cho nơi điếm đàng:

Tại đó dã thú đến nằm nghỉ,

Cú vọ ở đầy nhà, đà điểu tới trú ngụ,

Và bầy dê ma quái nhảy nhót tung tăng,(Is 13, 21).

Quả thật, những nơi Đức Chúa chúc dữ thì chỉ còn các thú hoang hung ác ẩn nấp, ở đó chúng tha hồ quẩng dỡn, kết bầy phá phách:

Mèo hoang lại gặp chó rừng,

Loài dê ma quái hú mừng gọi nhau.(Is 35, 14).

Dê bị chúc dữ thì sống chui lủi, có khi còn phải tán loạn lìa đàn, bấy giờ như sơn dương bị săn đuổi (Is 13,14). Con người ta thì trái lại, sống trên trần thế không thiếu chi những cảnh người lương thiện thường gặp tai ách đủ điều, còn kẻ gian manh lại thấy lắm sang giầu quyền thế. Tuy nhiên, niềm tin vào Chân lý cho chúng ta biết sẽ có ngày chung thẩm, dù chiên, dù dê cũng đều tập trung: mọi chiên dê của Kêda sẽ được tập trung tại nơi ngươi, (Is 58, 14) lúc ấy mọi người đều được xét xử công minh: Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với dê. (Ed 34, 17).

Cuộc thẩm xét cuối cùng được Thánh sử Matthêu mô tả:

Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái…(Mt 25, 31-33).

Ngày chung thẩm sẽ không còn phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ có quyền thế hay người vô danh tiểu tốt mà chỉ còn công hay tội, thiện và ác. Đừng tưởng làm lớn là không bị kết án, ngôn sứ Dacaria đã khẳng định:

Trên các mục tử, cơn giận của Ta bừng bừng,

Ta sẽ hỏi tội các dê đầu đàn.(Dcr 10, 3).

Tiên tri Giêrêmia đã cho biết sau khi xét xử, kẻ gian ác sẽ bị đưa đến chỗ trừng phạt đời đời kiếp kiếp:

Ta sẽ đẩy chúng xuống lò sát sinh như chiên con, như cừu và dê đực. (Gr 51, 40).

Cũng theo Giêrêmia, những người lành thánh được đem đến cõi trường sinh no đầy ơn phúc:

Chúng sẽ đến reo vui trên đỉnh đồi Sion,

Chúng sẽ cuộn chảy về với phúc lành Giavê

với lúa miến, rượu mới, dầu tươi, với dê cừu, bò bê.

Sinh mạng chúng sẽ như thửa vườn nước nhuận

và chúng sẽ không còn phải ủ ê tiêu điều. (Gr 31, 12).

Quý vị nào muốn đọc thêm những câu Kinh Thánh nói đến dê, xin tiếp tục mở thêm vì còn rải rác rất nhiều. Nhân ngày Đầu năm Mùi, kính chúc quý vị Năm Mới đầy tràn Thánh Đức, hầu ngày cánh chung được chọn sang đứng phía bên phải Con Người, để khỏi trở thành những con dê lặng lẽ lầm lũi cúi đầu bước đi sang phía bên trái Chúa.[]