Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời
Ở tuổi 93, nhạc sĩ Phạm Duy ra đi, để lại di sản sáng tác đồ sộ cùng tình yêu trọn đời dành cho âm nhạc.
14h30 chiều 27/1, nhạc sĩ Phạm Duy mất tại bệnh viện 115, TP HCM sau 3
ngày nhập viện cấp cứu. Hiện người nhà ông đang làm thủ tục để chuyển
thi hài người nhạc sĩ tài hoa về nhà lo an táng. Chăm sóc ông những ngày cuối đời có con trai Duy Cường luôn túc trực cùng với một vài người thân. Phút lâm chung, ông cũng ra đi trong vòng tay người thân, gia đình và bạn bè.
Từ Pháp liên lạc
về, Đức Tuấn khóc: "Tôi coi Phạm Duy như một người ông. Ông ra đi mà tôi
không có bên cạnh. Thật buồn". Anh cũng chia sẻ cảm xúc trên facebook: "Nghìn trùng xa cách, Ông đã đi rồi..... Con xa quá không gặp được Ông lần cuối. Xin
kính chúc nhạc sĩ Phạm Duy yên giấc. Một cuộc phiêu lưu mới Ông đang
bắt đầu. Con sẽ hát mãi những bài hát của Ông cho một thế hệ mới".
Nhạc sĩ Phạm Duy tại cuộc giao lưu mừng sinh nhật ông với chủ đề "Tạ ơn đời" diễn ra từ ngày 5 đến ngày 18/10. Chặng cuối cùng của "Tạ ơn đời" khép lại vào ngày 18/10/2012 tại Phòng trà Da Vàng, TP HCM với ca sĩ: Cẩm Vân, Đức Tuấn, Quang Linh, Thanh Thúy, Xuân Phú... Tâm sự trong đêm này, Phạm Duy cho biết, ông rất hạnh phúc khi ở tuổi 93 vẫn cảm thấy trẻ trung và những nhạc phẩm mình sáng tác sống được theo thời gian, được các ca sĩ trẻ chọn hát. Ảnh: Lý Võ Phú Hưng. |
Nhạc sĩ nổi danh qua đời chỉ hơn một tháng sau khi con trai cả Duy Quang của ông mất ở tuổi 62.
Trước đó người nhà giấu tin Duy Quang mất vì sợ Phạm Duy buồn và ảnh
hưởng đến sức khỏe vốn đã rất yếu của ông. Nhưng khi biết tin, Phạm Duy
không quá đau buồn. Ông tâm sự với nữ danh ca Ánh Tuyết, ông biết con
trai bệnh và sẽ không qua khỏi nên đã chuẩn bị sẵn tâm thế để đón nhận.
Nhạc sĩ Phạm Duy cảm thấy được an ủi hơn khi con trai mất trong tình cảm
yêu thương của khán giả, bạn bè và người thân.
Tuổi cao sức yếu, thời gian qua Phạm Duy vài lần vào viện cấp cứu rồi
lại ra viện khi sức khỏe có dấu hiệu phục hồi. Khoảng 2 tuần trước khi
qua đời, ông còn có thể đi dạo được. Những người gần gũi ông giai đoạn
cuối đời đều nhận xét, ông luôn thể hiện sự lạc quan, yêu đời, yêu
người, yêu cuộc sống như chính âm nhạc của mình. Khoảng một tuần trước
khi mất, ông còn trao đổi thư từ qua email với ca sĩ Ánh Tuyết để góp ý
cho chị về việc thực hiện những album nhạc của ông mà nữ danh ca đã ấp ủ
kế hoạch từ lâu.
Cuối tháng 12/2012, nữ ca sĩ Ánh Tuyết thực hiện đêm nhạc Phạm Duy để quyên tiền ủng hộ người nhạc sĩ tài hoa mà chị yêu quý khi ông đang nằm cấp cứu. Sau đêm diễn, Ánh Tuyết mang số tiền nhỏ đến biếu ông. |
Sau 14 ca khúc được cấp phép biểu diễn vào tháng 4/2012 như: Mùa thu chết, Giọt mưa trên lá, Tạ ơn đời, Tiễn em, Đi đâu cho thiếp theo cùng… gần đây nhất, một loạt ca khúc khác của Phạm Duy tiếp tục được cấp phép trở lại, gồm có: Mẹ
ta, Mẹ xinh đẹp, Mẹ chờ mong, Lúa mẹ, Nước mắt rơi, Những gì sẽ đem
theo về cõi chết, Phố buồn, Tiếng hát trên sông Lô, Viễn du, Xuân nồng,
Biển khúc, Em hát, Khúc ru tình, Nỗi nhớ vô thường, Tình qua tin nhắn...
Phạm Duy sinh ngày 5/10/1921 tại Hà Nội, tên thật là Phạm Duy Cẩn.
Ông là nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc của Việt Nam. Ông được coi là
một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc với số lượng sáng tác đồ
sộ, đa dạng về thể loại, trong đó có những bài đã trở nên rất quen thuộc
với người Việt. Ngoài sáng tác, Phạm Duy còn có nhiều công trình khảo
cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông cũng từng giữ chức giáo sư nhạc
ngữ tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn.
Từ sau năm 1975, ông
sang Mỹ sống và định cư. Năm 2005, ông về Việt Nam sống an hưởng tuổi
già. Tang lễ nhạc sĩ Phạm Duy được tổ chức tại tư gia ở Lê Đại Hành,
phường 3, Quận 11, TP HCM. Lễ nhập quan diễn ra lúc 9h ngày 28/1, lễ
động quan lúc 6h ngày 3/2. Nhạc sĩ Phạm Duy sẽ yên nghỉ tại Hoa viên
Nghĩa trang Bình Dương.
Thoại Hà - Hoàng Dung
CON NGƯỜI THẬT CỦA PHẠM DUY
- Category: Bạn đọc viết
Bác sĩ Nguyễn
Văn Bảo
Lời nói
đầu
Nghĩa tử là
nghĩa tận. Trước một “nhân vật của quần chúng” (a person of the
public) vừa nằm xuống, giữ im lặng là thái độ nghiêm chỉnh nhất.
Nhưng sự ra đi của Phạm Duy là một ngoại lệ. Nhiều người khen qúa
độ. Nhiều người chê qúa lời. Nhiều người muốn khen, chê đúng mức mà
không lên tiếng vì e ngại phản ứng của cả đôi bên. Đài BBC cũng
tường thuật rất tỉ mỉ về đám tang của
ông.
Hãy thử tìm con
người đích thực của PD qua tác phẩm, hành động và lời nói của ông để
biêt nguyên do của cái dư luận ồn ào sau tin ông qua
đời.
A / NHỮNG LÝ DO KHIẾN PD ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI
NHẮC TỚI
1/ Ông là một nhạc
sĩ được ngưỡng mộ bởi hàng triệu người Việt từ thế hệ trẻ tới thế hệ
gìa, từ giới bình dân tới giới trí thức, từ thời chiến tới thời
bình, từ chủ nghĩa Cộng Sản tới chủ nghĩa Tự Do, từ chính quyền độc
tài tới chính quyền dân chủ, từ trong nước tới hải ngoại.
2/ Cảm tình của
quần chúng đối với ông rất phức tạp. Nhiều người khen. Nhiều người
chê. Nhiều người vừa khen vừa chê. Nhiều người trước khen nay chê.
Nhiều người trước chê nay khen.
Phe Việt Cộng, sau
nửa thế kỷ căm thù ông, nay mua chuộc ông để làm mồi cho chiêu bài
“Hòa Giải Dân Tộc”.
Phe Tự Do, qua nửa
thế kỷ qúy mến ông, nay ruồng bỏ ông vì nghĩ rằng ông bị kẻ thù mua
chuộc.
Những biểu lộ ấy
(khen-chê, yêu-ghét, mua chuộc-ruồng bỏ) rất thường tình. Thiên hạ
không ngẫu nhiên ( mà có lý do thầm kín) gán ghép cho
ông. Ông cũng không cố ý gây ra. Lối phát ngôn vụng về và nếp sống
buông thả của ông đóng một vai trò quan trọng trong sự phán xét của
họ.
3/ Những tác phẩm
của ông, từ dân ca, tình ca, quân ca, đạo ca, nhi ca v. v.. đều có
gía trị độc đáo: mang âm giai ngủ cung hài hòa của dân tộc và lời ca
truyền cảm của ca dao.
2
4/ Nhạc phổ thơ
của ông là một tuyệt kỹ. Giới truyền thông đã liệt ông vào hàng “phù
thủy” của loại nhạc này. Dù phổ nguyên văn bài thơ (như Ngậm Ngùi
của Huy Cận..) hoặc chỉ lấy ý thơ (như Tiếng Sáo Thiên Thai của Thế
Lữ..) ông cũng làm cho thơ tăng thêm gía
trị.
5/ Đời tư của ông
có một vài tì vết. Ông sống buông thả theo thú vui xác thịt, bất
chấp hậu qủa (vụ Khánh Ngọc và Julie Quang) khiến những người đạo
đức khinh bỉ và những người đối lập khai thác.
6/ Lòng yêu dân,
yêu quê, yêu nước trong những tác phẩm của ông rất hiển hiện. Một
người có tình yêu gỉa tạo không thể nào làm được những bài Tình Ca,
Tình Hoài Hương, Quê nghèo, Về Miền Trung, Bà Mẹ Gio Linh, Nhớ Người
Thương Binh, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Ngày Trờ Về, Con Đường Cái
Quan, Mẹ Việt Nam, v.v…
B/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG
LỜI KHEN
Hầu hết những
người khen đều công nhận rằng ông là một “đại thụ” của nền tân nhạc
Việt và là một nhạc sĩ có thiên tài, có lòng yêu dân, yêu quê, yêu
nước chân thành. Có người đã tặng ông những đức tính mà thực sự ông
không có (như khiêm nhượng, cao siêu). Thậm chí, có người còn vinh
danh ông là chiến sĩ chống Cộng hoặc nhà tư tưởng
thâm thúy. Những nhận xét như vậy chỉ đúng nửa
vời:
1/ Qủa thực ông là
một đại thụ của nền tân nhạc Việt. Nhưng đại thụ ấy có tỳ
vết: ông đã 2 lần vi phạm luân ký Việt ( vụ Khánh Ngọc và Julie
Quang).
2/ Ông không
khiêm nhượng mà còn háo danh. Một thí dụ: Trong cuốn
video Paris By Night 19, ông trả lời ký gỉa Lê Văn của đài BBC: “
Tôi muốn hậu thế nhắc đến tôi như một người Việt Nam”. Khiêm nhượng
thay câu trả lời! Nhưng cũng trong cuốn video ấy ông nói: “ Tôi sẽ
làm trường ca Hàn Mặc Tử bởi vì tôi đã có 10 bài Đạo Ca cho Phật
giáo thì tôi cũng phải có một bài cho Công giáo mới công bằng”. Thế
ra ông là người ban phát ân huệ cho 2 tôn giáo này! Nét háo danh đã
lộ liễu trong lời nói vụng về ấy.
3/ Ông không phải
là một chiến sĩ chống Cộng mà chỉ là một nhạc sĩ muốn được
sinh hoạt văn nghệ mà không bị chỉ đạo bởi chính quyền. Ông bỏ Kháng
Chiến về Thành không phải vì muốn xả thân cho lý tưởng chống Cộng mà
vì muốn gia đình
3
được sống thoải
mái trong chính thể Dân Chủ và bản thân được tự do sắng tác theo
tiếng nói của con tim.
Ông đã hưởng trọn
vẹn ân huệ của những người đã hy sinh để bảo vệ chế độ dân chủ tự do
cho gia đình ông sống yên vui. Bù lại, ông đã đền đáp công ơn của họ
bằng vài trăm bài ca bất hủ xưng tụng những thứ cao đẹp mà họ trân
qúy. Tuy ông không hy sinh xương máu cho chính nghĩa tự do nhưng ông
đã góp phần không ít vào việc tô điểm nó. Tuy ông có nhiều điểm đáng
khen nhưng không nên tặng ông cái vinh dự mà ông không xứng (chiến
sĩ chống Cộng).
4/ Ông không phải
là một nhân vật thâm thúy. Suốt đời, ông chưa nói được một câu nào
xứng đáng cho danh hiệu ấy. Một bài nhạc của ông có câu: “Đừng
cho không gian đụng thời gian”. Ông mượn ý đó trong thuyết Tương
Đối của Albert Einstein (Einstein cho rằng chỉ có không gian, không
có thời gian vì thời gian chỉ là phương tiện để đo lường không gian;
thí dụ: hai thiên hà cách
xa nhau một tỷ năm ánh sáng). Có người đã xin ông giải thích
câu đó nhưng ông chỉ trả lời loanh quanh, vô nghĩa, chứng tỏ ông đã
không hiểu ông muốn nói gì.
Thật là khôi hài
khi một anh chàng văn sĩ VC nói câu này trong đám tang của ông: “
Nhạc PD còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn ”.
Hắn nhái câu thậm xưng của Phạm Quỳnh trong thập niên 1930: “ Chuyện
Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”.
(Cũng nên mở một
dấu ngoặc ở đây để nói rằng đừng vì một câu của một lãnh tụ CS ca
ngợi ông mà chụp cái mũ “thân Cộng” cho
ông).
C/ KIỂM ĐIỂM NHỮNG
LỜI CHÊ
Những lời chê ông
nở rộ trong 2 thời kỳ:
1/ Thời kỳ thứ nhất từ năm 1950 tới
2005:
Khi ông bỏ Kháng
Chiến về Thành, VC đã chê ông là phản động.
Ông đã không
phản động mà chỉ phản Cộng.
Phản Cộng vì Cộng
không thể cung cấp những nhu cầu căn bản (cơm ăn, áo mặc) cho gia
đình ông và không cho phép ông phục vụ văn nghệ theo sở trường mà
còn buộc ông phải khai tử một bài hát vô tội (innocent): bài Bên Cầu
Biên Giới. Giản dị thế
thôi.
4
2/ Thời kỳ thứ hai từ 2005 cho tới
nay:
Khi ông quyết định
trở về VN để sống nốt tuổi gìa, một số nạn nhân bị CS đày đọa đã chê
ông là phản bội những anh hùng chống Cộng.
Công bằng mà xét
thì ông không phản bội ai cả. Lý do ông trở về quê bây giờ cũng giản
dị như lý do ông về Thành thuở xưa.
Ở Hoa Kỳ, các con
của ông không có nghề ngỗng gì ngoài nghề ca hát mà nghề này thì
không cung ứng đủ những nhu cầu vật chất cho chúng. Cộng đồng người
Mỹ gốc Việt không bao bọc nổi vài trăm ca nhạc sĩ Việt. Những người
lớn tuổi, đã về hưu, gắng gượng mới có tiền dự những buổi đại nhạc
hội được tổ chức xuân thu nhị kỳ vì. Giới trẻ trung thì thích nhạc
Mỹ vì nó phong phú hơn, sống động hơn, giật gân hơn, hợp nhĩ hơn.
Bản quyền sáng tác nhạc không được tôn trọng. Đĩa nhạc được sao chép
và bán rẻ rúng công khai trong mọi tiệm nhạc. Sống nhờ trợ cấp xã
hội thì không cam lòng. Chìa tay nhận 2000$ để phổ nhạc vài bài thơ
“con cóc” của “vô thượng thiền sư” Thanh Hải thì tủi thân cho một
nhạc sĩ tài danh như ông.
Giữa lúc nghèo
túng thì cơ hội chợt tới: một khế ước trị gía 400 ngàn đô-la trong 4
năm để sưu tầm, hòa âm, trình diễn tất cả những bài ca do ông sáng
tác tại VN từ 1945 tới 1975. Khế ước đó không buộc ông phải hòa âm
những bản nhạc của VC hoặc sáng tác những bài ca mới cho VC. Thính
gỉa của ông sẽ chỉ là những người thích nghe nhạc Phạm Duy
bất kể chính kiến. Có thể ông đã biết một cái bẫy vô hình ẩn sau khế
ước đó: sách lược“Hòa Giải Dân Tộc” của VC đang ở cao điểm trong
thời gian này. Một người có “khí tiết” ắt không chấp thuận.
Nhưng Phạm Duy không phải hạng người có khí tiết. Ông không thích
sống “gương mẫu” mà thích sống thoải mái, buông thả, sung túc như
thường tình.
Thế là ông đưa gia
đình về quê hương sống ung dung trong 8 năm cho tới khi ông từ trần.
Ông rất thích câu của ai đó nói rằng: “ Về đi thôi! Kiếp sau biết có
hay không?”. Tính tình của ông khác đời ở chỗ: rất thích thú khi
được khen và rất ít phiền hà khi bị chửi.
Trong 8 năm ấy ông
đã gặp đủ hạng người, trong mọi lứa tuổi: ca nhạc sĩ đã quen hoặc
chưa quen, thính gỉa yêu nhạc của ông dù đã biết hoặc chưa hề biết
tên ông, lãnh tụ CS kể cả những người đã từng cấm hát nhạc của ông
như Võ Văn Kiệt, Tố Hữu và Trần Bạch Đằng, người đã tuyên bố một câu
vô liêm sỉ năm 1989: “ PD
5
hãy tự sát đi,
chúng tôi sẽ cho phổ biến nhạc của ông ta”. Dĩ nhiên ông không thể từ chối gặp mặt
những lãnh tụ CS đã mở đường cho ông trở về. Cũng không đáng phàn
nàn nếu ông muốn gặp một vài lãnh tụ CS đã chơi thân với ông trong
thời kháng chiến chống Pháp. Ông rất dễ tính và vô tư trong việc gặp
bạn cũ, chuyện làm qùa chỉ là chuyện tếu hoặc kỷ niệm xưa, không bàn
về chính trị. Chả có gì đáng trách cho những cuộc gặp gỡ lấy lệ hoặc
xã giao như vậy.
Có một điểm son đáng ghi
nhận: ông không hề
bợ đỡ một lãnh tụ CS nào và cũng không hề nói súc phạm tới bất cứ ai
của chính thể VNCH trong suốt thời gian 8 năm ấy (cựu phó tổng thống
Nguyễn Cao Kỳ đã phạm lỗi này).
Tôi muốn tóm tắt
thái độ của Phạm Duy trong một câu sơ sài: Khi sáng tác thì tận
tình, khi vui chơi thì tận hưởng, khi nói năng thì thì tận tục.
Duyên Anh đã thuật lại rằng PD, trong lúc đùa rỡn với bạn bè, đã nói
trong hơi men: “ Ai ngu mới thích nghe nhạc của tôi. Chúng đã
được làm trong cầu tiêu”. Có lẽ ông đã làm những bài Tục Ca
trong cầu tiêu.
D/ KẾT LUẬN:
Nhạc sĩ tài danh
Phạm Duy là một người đáng thương hại nhiều hơn là đáng trách cứ.
Cuộc đời của ông trôi nổi qua nhiều vinh nhục, thăng trầm. Ông thích
sống buông thả và chỉ có một tham vọng tích cực (productive):
sáng tác những bản nhạc có gía trị.
Lối phát ngôn của
ông thuộc loại Tú Xương (“Một thày, một cô một chó cái” hoặc
“Cao lâu thường ăn quịt, gái đĩ lại chơi lường”). Từ 50 năm
nay, chả có ai coi ông như một “qúy nhân”. Họ mến ông vì ông đã cống
hiến cho họ nhiều bài ca bất hủ, và đi chung với họ trên một đoạn
đường dài nhất của cuôc đời để cùng nhau “khóc cười theo mệnh nước
nổi trôi”.
Ông chưa bao giờ
là công cụ của CS. Trong 5 năm theo Kháng Chiến chống Pháp, ông chưa
hề làm một khúc ca xưng tụng một lãnh tụ CS nào mà chỉ xưng tụng
những anh hùng, liệt sĩ chống ngoại xâm. Tới khi cáo hồ ló đuôi thì
ông bỏ chúng về Thành.
Ông cũng chưa bao
giờ là công cụ của chính quyền độc tài. Trong 25 năm sống trong
chính thể Quốc gia, ông chưa hề làm một ca khúc suy tôn lãnh tụ nào.
Những
6
bài hát “xây dựng
nông thôn” là những bài làm ra bởi một tác gỉa công chức hơn là bởi
một nhạc sĩ chuyên nghiệp; chúng đã không thọ
lâu.
Khoảng 100 bài ca
bất hủ của ông đã đi sâu vào mọi làng xóm của thôn quê, mọi ngõ
ngách của thành thị rồi “di tản” ra ngoại quốc để ve vuốt nỗi cô đơn
của vài triệu người sống lưu vong.
Cuộc “trở về quê”
của ông chỉ tổn thương cho thanh danh của cá nhân ông, không có ảnh
hưởng đáng kể tới tinh thần chống cộng của quần chúng. Chả có ai
“hòa giải dân tộc” với VC chỉ vì Phạm Duy đã hồi hương. Sự hòa giải
ấy sẽ không bao giờ xảy ra. Nói cách khác, chỉ có hòa giải khi nào
chính thể CS bị giải thể hoàn toàn. Còn nữa, chỉ có lực lượng của
quần chúng ở trong nước mới có khả năng giải thể chúng. Vậy thì chả
nên qúa quan tâm tới cái sách lược “Hòa Giải Dân Tộc” của chúng. Nó
đã chết ngay sau khi vừa sinh ra. Chả nên chia sớt bớt nỗi căm thù
VC rồi xối vào những ca nhạc sĩ như Phạm Duy, Từ Công Phụng, Khánh
ly, Lệ Thu, Chế Linh v.v... Có một cái gì “bất đắc dĩ” trong viêc
trở về của họ (như đã nói ở trên). Vả lại, họ không đem đô-la về
nước để góp thêm ngoại tệ cho VC (như một số thương gia và những kẻ
ham du hí) mà còn tiêu bớt ngoại tệ của chúng (lãnh thù lao bằng
đô-la). Hãy thông cảm cho họ (thông cảm không có nghĩa là cổ võ cho
người khác trở về) miễn là họ chỉ thân thiện với dân, chỉ hát cho
dân nghe những bài ca mà chúng ta chấp nhận và không nói lảm nhảm,
súc phạm tới tinh thần chống Cộng.
Riêng đối với Phạm
Duy, hãy để cho ông yên nghỉ, gọi là đáp lễ những bài ca bất hủ mà
ông đã cống hiến trong suốt cuộc đời ông. Nghĩa tử là nghĩa tận. Có
cả ngàn người (phần lớn là thường dân) đã tiễn đưa ông tới nơi an
nghỉ cuối cùng. Vài nhóm trong số người này vừa khóc vừa đồng ca
trước mồ ông một số bài chọn lọc, trong đó có bài Tình Ca và một bài
chưa được chính quyền VC cho phép (Những Gì Sẽ Đem Theo Vè Cõi
Chết). Từ vạn dặm, chúng ta hãy gửi tới ông một chút thương cảm, một
chút ngậm ngùi, một chút vị tha. Người yêu chuộng tự do lúc nào cũng
tôn trọng tự do ngôn luận (trong đó có tự do chọn lựa lối sống) hơn
bất cứ điều gì trên đời.
Ngày
6-2-2013
Con Cò
Mời bạn nghe Giáo sư Trần Văn Khê nói về nhạc sĩ Phạm Duy trong chương trình "Thơ phổ nhạc" rất hay và thật dí dỏm
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire