Cô gái Úc gốc Việt thay đổi cả thế giới bằng công nghệ
Chỉ mới 16 tuổi, Tan Le đã được nhận vào Đại học Monash rồi tốt nghiệp loại ưu chỉ trong vòng 3 năm ở cả hai ngành Luật và Thương mại.
Năm 1998, lần đầu tiên tại Úc, một nữ sinh viên gốc Việt 18 tuổi đã đạt danh hiệu “The Young Australian of the Year”, giải thưởng thường niên dành cho một cá nhân ưu tú dưới 30 tuổi có ảnh hưởng nhất trong xã hội.
Cô gái ấy tên là Lê Thị Thái Tần (Tan Le), vị Chủ tịch trẻ nhất của Trung tâm Dịch vụ Nhân lực Việt - Úc. Ở tuổi 15, Tần đã lãnh đạo nhiều nhóm thiện nguyện giúp đỡ hàng trăm dân nhập cư tìm việc và ổn định cuộc sống trên đất Úc.
Dù bận rộn với cộng đồng nhưng cô vẫn hoàn thành xuất sắc chương trình trung học ngay từ tuổi 16, vào thẳng Đại học Monash, giành học bổng toàn phần của KPMG để học 2 ngành Luật và Thương mại.
Đến tuổi đôi mươi, sự nghiệp của Tần đã vững vàng khi cô là một luật sư của hãng luật hàng đầu thế giới FreeHills, vừa đảm nhận nhiều chức vụ trong Chính phủ Úc và liên tục được mời làm đại sứ của nhiều chuyến đi ngoại giao.
Song kỳ lạ là 12 năm sau, cả thế giới lại dồn sự chú ý cả vào Tần như ngôi sao khởi nghiệp sáng nhất tại Thung lũng Sillicon, Mỹ.
Từ năm 2003, cô đồng sáng lập Emotiv System cùng Ðỗ Hoài Nam với ý tưởng dùng ý nghĩ và cảm xúc để điều khiển thiết bị điện tử. Đến năm 2010, ý tưởng đó thành hiện thực với chiếc mũ đọc sóng não EPOC của Emotiv System gây sốt toàn cầu, thu về hơn 10 triệu USD.
EPOC hiện được ứng dụng rộng khắp các lĩnh vực như trò chơi điện tử, nghiên cứu khoa học và điều trị bệnh liên quan đến não bộ.
Khát khao được công nhận
Rời Việt Nam từ khi 4 tuổi, Tần cùng gia đình đến Úc bắt đầu cuộc sống mới hệt như nhiều dân nhập cư khác: nghèo khổ và túng thiếu. “Chúng tôi thường mang hai đôi tất. Chủ yếu là chiếc này để bịt lỗ thủng của chiếc kia,” Tần hồi tưởng nhưng đói khổ không ám ảnh cô bằng sự ghẻ lạnh của bạn bè cùng lớp. Tần từng chờ đợi giờ học trôi qua nhanh để trốn vào thư viện một mình. “Con bé gầy rộc đi vì nỗi sợ đó”, mẹ Tần nhớ lại.
Hoàn cảnh đó lại nảy sinh trong Tần hai phản ứng thú vị. Một mặt, cô tự nhủ “ta sẽ vượt qua tất cả các người” bằng cách ép mình học. Kết quả là cô học xuất sắc đến mức kết thúc sớm chương trình học hơn so bạn đồng lứa. Chỉ mới 16 tuổi, cô đã được nhận vào Đại học Monash rồi tốt nghiệp loại ưu chỉ trong vòng 3 năm ở cả hai ngành Luật và Thương mại.
Mặt khác, “Tần quan tâm đặc biệt về tác động của cộng đồng lên mỗi cá nhân”, thầy giáo tiếng Anh Ruth Willis nhận xét. Chính môi trường cô lập ấy đã vô tình nung nấu trong Tần khát vọng kết nối cộng đồng. Cô hạ quyết tâm “thay đổi nước Úc thành một nơi tốt đẹp hơn để sống và làm việc”.
Kể từ lớp 9 (15 tuổi), Tần không còn trốn trong thư viện nữa mà nhiệt tình bước ra giúp đỡ cộng đồng nhập cư tại vùng Footscray (phía tây Melbourne). Trong vòng 4 năm sau đó, Tần đã được bầu làm Chủ tịch Cộng đồng người Việt tại vùng Footscray và Trung tâm Dịch vụ Nhân lực Việt - Úc, chuyên hỗ trợ dân nhập cư tìm việc và ổn định cuộc sống trên đất khách.
Sau 15 năm, xứ người mà Tần tìm mọi cách hòa nhập ấy cuối cùng đã đón nhận cô. Chính người dân Úc đã bầu cô là gương mặt trẻ tiêu biểu nhất của quốc gia họ vào năm 1987. Cuộc đời và cống hiến của cô gái Việt trở thành phim tư liệu lưu ở Bảo tàng Úc cho thế hệ trẻ noi theo. Riêng cô đã nhận ra rằng “à một kẻ không được thừa nhận vẫn ổn. Thậm chí tôi xem đó là một món quà. Là kẻ được thừa nhận, bạn dễ dàng chấp nhận thành kiến bao quanh. Riêng tôi lại bị đẩy ra nhưng đối mặt với chúng không chút sợ hãi”.
“Đứa con” Emotiv System
Qua những chuyến công tác xã hội và hoạt động ngoại giao ở nhiều nước, Tần gặp gỡ nhiều người sống theo đam mê hơn vì mưu sinh. Nghề luật sư không còn là mảnh ghép khớp với lựa chọn của cô gái đa tài này nữa.
Năm 2003, cô táo bạo rời Úc đến Thung lũng Silicon, Mỹ cùng 3 người bạn mở ra công ty Emotiv System. Tần tin công nghệ là cách nhanh nhất để thay đổi cả thế giới. Emotiv System ấp ủ ý định cho ra đời những thiết bị điều khiển mọi thứ bằng suy nghĩ và cảm xúc của con người.
Đội ngũ Emotiv System mất 7 năm trời nghiên cứu sản phẩm đầu tiên là Emotiv EPOC, nâng cấp từ công nghệ đo điện não (EGG).
Năm 2010 đánh dấu bước ngoặt lớn cho cả Emotiv System và cả nền công nghệ thế giới. Emotiv EPOC ra đời như một chiếc mũ EGG nhỏ gọn kèm với 16 nút điện cực ghi lại mọi hoạt động trong não và cử chỉ gương mặt.
Giả sử bạn muốn kéo rèm cửa, suy nghĩ này sẽ truyền tín hiệu trong não được ghi vào EPOC. Lần tới, khi ý định kéo rèm xuất hiện trong đầu, đường truyền lần trước ngay lập tức thông qua EPOC ra lệnh cho máy tính kéo rèm từ xa thay vì kéo tay hay bấm nút.
Ngoài ra, mấu chốt khiến Emotiv EPOC trở nên thông dụng vì nó chỉ tốn khoảng 300 USD, rẻ gấp nhiều lần so với một chiếc máy EGG hàng chục triệu USD ở phòng thí nghiệm. Emotiv EPOC bắt đầu được ứng dụng rộng rãi trong y học (cho phép bệnh nhân điều khiển xe lăn bằng suy nghĩ hoặc giao tiếp dễ dàng hơn với người thân) hay nguồn cảm hứng mới cho trò chơi điện tử.
Trong khi Emotiv EPOC đang thành tâm điểm trên thế giới, Tần vẫn chưa dừng lại.
Năm 2013, sản phẩm thứ hai Emotiv Insight đã gọi vốn thành công hơn 1,6 triệu USD trên Kickstarter, dự kiến ra thị trường vào cuối 2015. Đi kèm tính năng đã có với Emotiv EPOC, Emotiv Insight nghiêng về ứng dụng y học.
Thiết bị này có thể thu thập và phân tích hoạt động trong não từng ngày để phát hiện sớm nhất các dấu hiệu bệnh lý hay chấn thương. Ngoài ra, dữ liệu thu thập từ người dùng trên khắp thế giới sẽ thành nguồn nghiên cứu não bộ lớn nhất từ trước đến nay.
Với Tần, mảnh ghép Emotiv Insight liệu có là miếng ghép cuối cùng? Tần nhìn nhận ứng dụng đã mở ra chân trời mới trong công nghệ: “Những gì chúng tôi làm chỉ mới chạm vào phần nổi của vô vàn ứng dụng khác mà thôi!”.
Gia đình chúng tôi đi chơi từ Montréal đến Sherbrooke, đường đi khoảng 2 giờ lái xe, đi ngang qua Lac Memphré de Magog, nơi nổi tiếng đẹp với cảnh thiên nhiên, hùng vĩ với núi-đồi và thơ mộng với sông-nước, dừng chân chụp hình và cho các con vui chơi nơi parc gần Plage de Magog, rồi lại lên đường tiến thẳng đến Université de Sherbrooke.
Cỡ 6:30pm đến nơi, đậu xe bên kia đường, trước faculté de Génie, nơi mà anh Ngọc ra trường và tôi học 1 năm tại đây trước khi về lại Montréal vô trường Nha Khoa trước đây đúng 20 năm.
Trở lại chốn cũ với bao kỷ niệm đẹp của thời sinh viên. Anh Ngọc và gia đình đi bộ qua bên kia đường để chụp hình, các con tôi theo sau. Tôi thì vừa cúp phone với chồng để báo tin chúng tôi đã đến nơi bình an, loay hoay đang gỡ seat belt cho cô bé út 2 tuổi, thì nghe một tiếng BOUM thật thật thật mạnh, Mẹ tôi hét thất thanh: "thôi chết rồi"...như một phản xạ tự nhiên, chưa kịp mở seat belt cho con bé thứ 5, tôi lao ra đường, thì đúng lúc đó, con bé gái thứ 4 của tôi, 7 tuổi, đang đi qua đường thì bị xe auto đụng mạnh thẳng vào người, văng ra phía tôi. Tôi ôm con trong vòng tay với tư thế i chang như Đức Mẹ ôm Chúa Giêsu trong tay, gần 2000 năm trước, dưới chân Cây Thánh Giá. Con bé ngồi xõng xoài đôi chân, giày văng mãi ra thật xa, khóc to và luôn miệng "mama, mama", kêu thảm thiết. Tôi, bình tĩnh khác thường, ôm con, một tay ôm sau đầu, bàn tay đẫm máu chảy từ đầu xuống và tay kia tôi không ngừng làm dấu Thánh Giá cho con từ đầu xuống tới chân, để dâng đứa con yêu quý của mình cho Chúa Mẹ gìn giữ...
Anh chàng sinh viên lái xe tông con tôi quá sợ hãi đã thành thật tả lại cảnh và nhận là anh ta lỗi 100%, vì anh chàng đã lo nhìn về phía gia đình Anh tôi đang chụp hình, thay vì nhìn trước mặt, vì vậy đã không thấy và tông thẳng vô con tôi khi con bé đang vô tư đi qua đường trên những vạch kẻ sẵn, đừơng dành riêng cho người đi bộ...
Con gái cả của tôi, 11 tuổi, thì nhìn cảnh tượng em mình bị một tai nạn quá lớn như vậy, đã không ngừng khóc trong run rẩy sợ hãi.
Mẹ tôi, chị dâu tôi thì miệng không ngừng đọc từ kinh này đến kinh kia, làm chuỗi Lòng Thương Xót Chúa.
Anh tôi lo trả lời cảnh sát và cùng Bố tôi để mắt coi chừng nhiều những đứa cháu khác...
Ở tỉnh nhỏ, xa thành phố lớn, nên gọi xe cứu thương cũng khá lâu, cỡ 15 phút sau họ mới tới. Nhưng trong thời gian đó, có một chị y tá qua đường, thấy vậy, chị dừng xe và xuống giúp tôi khám tay chân cho con tôi. Và tôi mừng thầm vì tay-chân con bé coi bộ vẫn nhúc nhích được... bình thường. Chúng tôi, bây giờ lo ngại nhất là cái đầu, cổ, và xương sống. Nơi đầu thì máu vẫn còn rỉ.
Làm các thủ tục cần thiết và tôi cùng con lên xe cứu thương chở đến bệnh viện nơi có département de traumatologie gần nhất: CHUS Fleurimont. Trên xe, tôi nghẹn ngào phone nói chuyện với Bố bé cho biết tin và để đến với bé ngay, vì hôm nay Bố bé đi làm, nên không cùng đi với chúng tôi. Cùng lúc, liên lạc với Cha quản nhiệm, nhờ Ngài hiệp ý cầu nguyện cho cháu và xin Ơn chữa lành. Hung tin con tôi bị tai nạn cũng được nhanh chóng lan ra cho toàn thể đại gia đình chúng tôi. Và mọi người đã cùng chúng tôi khẩn khoản nguyện xin Bình An cho đứa con thân yêu.
Tôi vẫn nói chuyện thường xuyên với bé để biết bé vẫn tỉnh táo và hiểu biết mọi chuyện xảy ra chung quanh bé. Thời gian trôi qua, dần dần bé đỡ sợ hơn, đỡ khóc hơn, nói chuyện rõ ràng hơn, hỏi thì bé trả lời là còn đau ở đầu và đau ở bụng.
Khi xe cứu thương đến được bệnh viện thì équipe de traumatologie đã chờ bé sẵn, họ làm một loạt các tests, chụp hình, examens...
Bé nằm yên, không được cử động trên giường bệnh, nhưng bắt đầu vui vẻ, nói cười như một bé Bảo-Châu dễ thương của Bố Mẹ hằng ngày. Cùng Mẹ đọc kinh Lạy Cha để cảm tạ Thiên Chúa. Bé hát bài Ave Maria, bài hát mà bé sẽ dâng hoa vào ngày 16/8, Lễ Đức Mẹ Lavang tại giáo xứ.
Trong khi chờ đợi kết quả, Mẹ hỏi chuyện bé nhớ gì lúc tai nạn xảy ra? Bé nói, bé chắc chắn có nhìn đường không có xe, trước khi bước qua bên kia đường. Và vô tư hồn nhiên như một thiên thần bé nhỏ, bé kể chuyện là lúc đó có Đức Mẹ ôm bé vào người. Đức Mẹ thật đẹp và Đức Mẹ mặc áo màu hồng. Một trùng hợp kỳ diệu: tên Thánh của bé là Marie-Rose!
Bé bắt đầu được ngồi lên, đi-lại và cử động bình thường. Mọi kết quả thử nghiệm đã có. Bác Sĩ báo cho gia đình là mọi khám xét bình thường. Sau 4 tiếng giữ lại tại nhà thương, bây giờ bé có thể ra về. Bé cùng gia đình hân hoan ra về, dù trên người có vài chỗ trày trụa ngoài da không đáng kể và một vết rách nhỏ trên đầu đã được dán lại và máu đã hoàn toàn hết chảy.
Đại gia đình chúng tôi tin đây thật là một phép lạ của Đức Mẹ, hơn thế nữa, đây là một Đại Phép Lạ, Chúa-Mẹ đã làm cho gia đình của tôi và cho đại gia đình của chúng tôi. Để nói lên Tình Yêu vô biên, vô điều kiện và liên lỉ của Ngài.
Chúng tôi Tôn Vinh Danh Thiên Chúa,
Chúng tôi Ngợi Ca Thiên Chúa,
Chúng tôi Cảm Tạ Thiên Chúa.
Và chúng tôi xác tín là Đức Mẹ đã cầu bầu trước mặt Thiên Chúa, để con chúng tôi được cứu.
Chúng con dâng lời Cảm Tạ Mẹ.
Ghi khi đang trên xe trở về lại Montréal, 12:49 AM, 29-07-2015.
Lê Đình Mai Trinh. **Gởi đến các anh chị và thân hữu một điều lạ mới xảy ra ngay trong sân đại học Sherbrooke hôm thứ ba 28-07 vừa qua. Mẹ của cháu bé bị tai nạn là Mai Trinh tác giả bài viết mà KĐ cũng đã biết khi cô học ở Sherbrooke cách đây 20 năm.
Quả chery có rất nhiều tác dụng mà không phải ai cũng biết rõ. Hãy cùng điểm danh những công dụng của loại quả đắt đỏ này.
Quả chery rất tốt cho sức khỏe.
Cherry (còn gọi là quả anh đào) có giá khá đắt ở Việt Nam, là lựa chọn hàng đầu của nhiều người khi đem đi biếu tặng. Tuy vậy, công dụng của loại trái cây này không phải ai cũng biết rõ. Hãy cùng điểm danh những công dụng của loại quả đắt đỏ này. Khi bạn ăn quả cherry kết hợp với chế độ ăn kiêng hợp lý sẽ giúp bạn giảm được lượng mỡ thừa tích tụ trong cơ thể, vóc dáng sẽ chuẩn hơn. Quả cherry rất tốt cho những người bị cao huyết áp. Đây cũng là một trong những loại quả giúp bạn loại bỏ được mức độ cholesterol xấu trong cơ thể. Nếu bạn ăn cherry thường xuyên, tình trạng mất ngủ của bạn sẽ được cải thiện. Cherry chứa melatonin làm cho giấc ngủ sâu và ngon hơn. Do đó, thay vì uống thuốc an thần, bạn hãy ăn vài quả anh đào mỗi ngày để cải thiện giấc ngủ chất lượng hơn. Cherry là thực phẩm tốt cho não bộ, tăng trí nhớ bởi chúng chứa các chất chống ôxy hóa anthocyanin. Vì vậy, nếu bạn đang cảm thấy thỉnh thoảng mình hay quên vặt, quả anh đào có thể giúp khắc phục giảm khả năng mất trí nhớ. Bên cạnh đó, cherry rất tốt cho mắt. Hàm lượng vitamin A có trong cherry nhiều hơn khoảng 20 lần so với dâu tây hay việt quất. Cherry chứa nhiều vitamin A và một phần của vitamin này là beta carotene giúp thúc đẩy tầm nhìn tốt và giữ cho đôi mắt của bạn khỏe mạnh. Ăn cherry thường xuyên có thể phòng ngừa ung thư bởi chúng chứa chất chống ôxy hóa có tác dụng ngăn chặn các gốc tự do gây tổn thương tế bào và mô, làm giảm nguy cơ ung thư và chậm quá trình lão hóa. Bên cạnh đó, loại quả này được chứng minh làm giảm nguy cơ bệnh tim và rất tốt cho sức khỏe tổng thể. Một tác dụng lớn của cherry đó là có thể giúp giảm đau, sưng đối với các bệnh mạn tính, bao gồm cả gút và viêm khớp. Nếu bạn bị đau khớp, hãy cố gắng ăn một ít cherry mỗi ngày thay vì uống thuốc. Loại trái này cũng được chứng minh giúp bạn giảm đau bụng khi có kinh nguyệt. Với những người bị tiểu đường, quả cherry rất hữu dụng. Trái cây này giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường bởi chất anthocyanin làm tăng khả năng sản sinh insulin. Bệnh nhân có thể chọn quả anh đào như một bữa ăn nhẹ. Cuối cùng, tác dụng quan trọng không thể nhắc đến đó là, cherry có khả năng kháng viêm mạnh mẽ. Những bệnh nhân bị viêm khớp hay các vận động viên nếu uống nước trái cây cherry pha loãng 3 lần/ngày, tình trạng sức khỏe sẽ được cải thiện.
Cỏ bên kia đồi bao giờ cũng xanh hơn bên này đồi, tâm lý chung ai cũng vậy, vẫn hay chỉ nhìn tới những thứ mình không có. Khi đem so sánh giữa hai lối sống gia đình và độc thân cũng thế, khó mà có được cái nhìn khách quan và chính xác. Mỗi lối sống đều có cái hay cái dở, tùy trường hợp của mỗi cá nhân. Người đã có gia đình thường tự hỏi cuộc sống của mình sẽ ra sao, có vui hơn không nếu bỗng dưng được sống cuộc đời độc thân trở lại, trong khi người độc thân thì lại bỏ ra không biết bao nhiêu thì giờ và công sức chỉ để cố tìm cho mình một ý trung nhân để chia sẻ nốt đoạn đời còn lại. Vậy thì, lối sống nào tốt hơn đây?
Hãy bắt đầu với người đã có gia đình. Phải nói thật, hôn nhân có nhiều điểm lợi của nó. Lập gia đình rồi người ta không còn phải mất công tìm người để hẹn hò nữa. Bây giờ là lúc người ta dành thì giờ để xây dựng hạnh phúc với một người đầu ấp tay gối với mình. Bây giờ là lúc người ta dành nhiều thì giờ ở nhà hơn là ra bên ngoài và bắt đầu khép mình vào cuộc sống có nề nếp, biết được ngày hôm đó sẽ phải làm những gì, chuyện gì sẽ xảy ra, sẽ gặp những ai v.v…
Hết rồi những ngày cứ phải làm bộ làm tịch thích những gì mình không thích hay phải đóng kịch làm nhân vật không thật sự là mình vì không còn cần thiết nữa, mà nếu có làm thì người bạn đời sẽ biết ngay thôi. Vậy, tốt nhất là cứ sống thật với chính mình.
Những cái hay khác của cuộc sống gia đình là lúc này có được cả hai nguồn thu nhập, và vì vậy, mua cái gì hay muốn có được cái gì thì cũng dễ hơn trước. Sáng dậy lúc nào cũng có một người bên cạnh mình, và nếu may mắn thì được pha cho ly cà phê, nhận được nụ cười thật tươi với lời chào buổi sáng. Đến ngày sinh nhật, ngày kỷ niệm hay ngày lễ sẽ có người mở miệng chúc mình một câu hạnh phúc. Và may mắn hơn nữa thì thường lúc nào cũng có người sẵn sàng chờ mình trở về nhà sau một ngày dài, và nếu đó là một ngày không vui thì cũng người đó đang đứng trước mặt để mình trút cơn giận dữ. Nhưng sau khi đã nguôi ngoai đôi chút, chợt nghĩ lại và thấy mình quá lỗ mãng, thì nên thành tâm nói câu xin lỗi và sẽ luôn luôn nhận được một nụ cười bao dung cùng câu nói: “Sao, hết giận rồi hả?” Cuộc sống có gia đình là như thế đấy!
Tuy nhiên, người độc thân có một thứ rất quý mà người có gia đình rồi không có, đó là sự tự do. Người độc thân được tự do đi và về tùy ý mà không phải phân trần hay xin phép ai khác. Người độc thân được tự do hẹn hò, đi chơi với bạn bè mà không kể giờ giấc, được say sưa chè chén nếu muốn mà không phải lo lắng khi về nhà đã có người chờ sẵn ở bậc cửa với khuôn mặt hầm hầm, chỉ nhìn từ xa thôi cũng biết là đang giận dữ lắm. Người độc thân được tự do muốn mua gì thì mua mà không phải lo có người lúc nào cũng ở bên cạnh nhắc nhở rằng không được vì tháng này chi tiêu đã quá giới hạn. Được tự do muốn sống gọn gàng hay bề bộn trong căn nhà của mình tùy thích mà không sợ làm phiền tới người khác hay phải nghe những lời cằn nhằn nhiều khi rất đúng. Được tự do ngủ riêng một giường, muốn lăn qua lăn lại thế nào cũng được mà không sợ bị ai đó trong đêm tối bất ngờ húc cùi chỏ, và nhất là không sợ tiếng ngáy của mình ban đêm sẽ làm phiền lỗ tai của người bên cạnh, hay thậm chí làm người đó mất ngủ.
Người độc thân còn hơn người đã lập gia đình ở chỗ được tự do bay nhảy chứ không phải nằm gí một chỗ. Nếu người độc thân đó vừa tìm được một công việc mới, dù là ở một nơi xa ngàn dặm, nhưng nếu thích là có thể nhảy lên xe đi ngay chứ không phải đắn đo hỏi ý kiến gia đình hay ai khác xem họ nghĩ thế nào. Mà thường câu trả lời là không đi đâu hết, ở đây gần gia đình chứ tới đó biết quen ai.
Người độc thân có được cuộc sống tự do như thế đấy!
Không biết có phải vì dạo này người ta ham cuộc sống tự do mà càng ngày càng có nhiều người chọn sống độc thân.
Trong một cuộc thăm dò dân số năm ngoái, lần đầu tiên, số người trưởng thành ở Mỹ không hoặc chưa lập gia đình nhiều hơn số người đang có gia đình. Và cứ 7 người thì có 1 sống đúng nghĩa là độc thân, tức sống một mình – khoảng 31 triệu so với 4 triệu vào năm 1950 – và nhiều người trong số này là sống ở những đô thị.
Nhưng ngay cả ở những khu vực ngoài thành thị, số người sống độc thân cũng tăng đáng kể. Gần một nửa số trẻ em được sinh vào năm ngoái là của những bà mẹ độc thân. Số cha mẹ sống chung nhưng không cưới hỏi tăng gấp ba. Và số người Mỹ trưởng thành nhưng chưa từng bao giờ lập gia đình cũng đạt con số kỷ lục, chiếm khoảng 20%.
Trong khi ấy, theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, chỉ có 30% số người trẻ nói rằng thành công trong hôn nhân là “một trong những điều quan trọng nhất” trong cuộc đời, thậm chí thấp hơn con số khá khiêm nhường trước đó là 47% của những người thuộc Thế hệ X (sinh trong khoảng những thập niên 1960-80) cũng nói như thế trong một cuộc thăm dò năm 1997. Bốn trong 10 người Mỹ còn đi xa hơn nữa, nói rằng hôn nhân ngày nay đang trở thành lỗi thời.
Nói ngắn gọn, các nhà nghiên cứu cho rằng xã hội Mỹ đang ở giữa thời điểm có một cuộc thay đổi tận gốc rễ cơ cấu xã hội. Có người, như nhà xã hội học Eric Klinenberg thuộc Đại học New York còn cho đây là “cuộc thay đổi xã hội sâu rộng nhất trong vòng 60 năm qua”. Cuộc thay đổi xã hội này, cũng theo Klinenberg, còn vượt xa hơn cái tính chất năng động trong các mối quan hệ giữa người với người, ảnh hưởng tới mọi khía cạnh sinh hoạt của cuộc sống, từ nhà ở, chăm sóc y tế đến nuôi dạy con cái và tôn giáo.
Một hiện tượng mà nhiều nhà nghiên cứu đều đồng ý là số người Mỹ trưởng thành không muốn lập gia đình hiện nay nhiều hơn so với một hai thế hệ trước. Năm 1950, những cặp vợ chồng chiếm 78% số hộ gia đình ở Mỹ. Năm 2011, theo báo cáo của Cục Kiểm tra Dân số, tỉ lệ đó giảm xuống chỉ còn 48%. Năm 2011, Cục Thống kê Lao động cho biết có 124,6 triệu người Mỹ tuổi từ 16 trở lên là độc thân, hoặc tương đương với 50,2% dân số Hoa Kỳ, so với 37,4% dân số độc thân vào năm 1976.
Nhưng bên dưới những con số nêu trên còn ẩn chứa một số điều ít người biết tới.
Một trong những điều cần phải nói tới là càng ngày người Mỹ càng lập gia đình trễ. Trong nhiều năm qua, tuổi trung bình của cả đàn ông lẫn đàn bà lần đầu lập gia đình cứ tăng đều đặn, và đến nay, đối với phụ nữ là 27 tuổi và đàn ông là 29 tuổi. Thập niên 1960, tuổi trung bình của phụ nữ lần đầu lập gia đình là 20 tuổi và đàn ông là 22. Nói cách khác, có thể vào một lúc nào đó số người độc thân chưa từng bao giờ lập gia đình có thể nhiều hơn trước, nhưng như vậy không có nghĩa là những người độc thân đó cứ ở vậy mãi.
Và số người học đại học cũng càng ngày càng đông. Nhóm người này thường không muốn lập gia đình sớm trước khi họ hoàn tất việc học. Có người học xong còn chờ cho có công việc ổn định đã rồi mới lập gia đình. Thành thử ra, lớp người này cũng đã góp phần làm cho tỉ lệ người độc thân ở Mỹ càng ngày càng nhiều là vậy.
Nhưng rốt cuộc thì đa số những người độc thân đến một lúc nào đó họ cũng sẽ lập gia đình và xây dựng một tổ ấm cho riêng mình giống như nhiều người khác.
Vậy, câu hỏi được đặt ra: Tại sao người ta vẫn cứ phải lấy vợ lấy chồng để làm gì? Nếu sống độc thân càng ngày càng trở nên bình thường và được xã hội chấp nhận rộng rãi, và nếu sống độc thân cũng đạt được sự mãn nguyện như những người đang có gia đình, vậy thì tại sao phần đông người ta vẫn cứ mong được có một gia đình riêng?
Câu trả lời ở đây, theo các nhà nghiên cứu, có nhiều lý do: từ ảnh hưởng tôn giáo đến truyền thống văn hóa, thậm chí còn có cả những cái lợi thực tiễn nữa. Những người ủng hộ cho lối sống thiên về gia đình chỉ ra cho thấy, những người có gia đình thường được hưởng nhiều quyền lợi hơn, từ quyền lợi về an sinh xã hội đến quyền lợi trong luật thừa hưởng gia tài. Và xã hội ngày nay mặc dù đã có nhiều cởi mở nhưng vẫn coi trọng những người có gia đình hơn vì được cho là nhóm người đã thật sự trưởng thành và có một đời sống tương đối ổn định hơn.
Một số nhà nghiên cứu còn cho biết lý do sâu xa vì sao xã hội ngày nay vẫn còn thiên vị lối sống gia đình hơn. Theo kết quả nhiều cuộc nghiên cứu, hôn nhân giúp người ta có sức khỏe tốt hơn, sống thọ hơn, có một cuộc sống ý nghĩa và sung túc hơn. Những người được mô tả là có một cuộc hôn nhân ổn định thì thường sống hạnh phúc hơn những người khác. Riêng ở Mỹ, các cặp vợ chồng sống chung vẫn được cho là nhóm mang đến một cơ cấu gia đình bền vững nhất cho trẻ nhỏ.
Với những người thiên về tôn giáo tin rằng hôn nhân là điều tất yếu và là một tặng vật. Thậm chí với xã hội thế tục, hôn nhân là một định chế từ lâu được xem như biểu tượng của sự ổn định xã hội.
Những cái hay và dở của cả hai lối sống độc thân và gia đình là còn tùy ở từng mỗi người. Nếu một người phải sống trong một hôn nhân không có hạnh phúc thì lẽ đương nhiên cuộc sống độc thân sẽ là một mơ ước. Cũng thế, nếu một người không tìm được một người bạn đời để cùng chia sẻ cuộc đời thì nhiều khi cũng cảm thấy rất cô đơn và cho dù là một người thành công đến mấy thì cuộc đời cũng mất đi nhiều ý nghĩa. Thế nên, điều quan trọng nhất ở đây là hãy vui với cuộc sống mà mình đang có và hãy thật sự sống với chính con người thật của mình.
Nhờ vào sự sáng tạo của con đã tạo ra rất nhiều loại rau quả mang lại giá trị dinh dưỡng cao với những màu sắc, hình dạng độc đáo. Đồng nghĩa với nó là việc tìm kiếm để mua và thưởng thức của con người tăng lên.
Tuy nhiên, không phải loại nào cũng có thể dễ dàng mua được, thậm chí có tiền chưa chắc bạn đã được thưởng thức.
Nhãn tím
Cùi và hạt nhãn giống như nhãn thường nhưng lại có lớp vỏ ngoài màu tím vô cùng đẹp mắt. Nhãn tím được ông Trần Văn Huy (Sóc Trăng) phát hiện và lai giống cách đây đã 10 năm. Tuy nhiên, nó chưa được tung ra thị trường mà chỉ có ở vườn nhà của ông Huy. Do đó, muốn ăn bạn phải đến tận nhà vào đúng mùa may ra mới được thưởng thức.
Dưa hấu tí hon
Dưa hấu tí hơn có hình dạng bên ngoài như quả dưa hấu bình thường nhưng kích thước chỉ bằng ngón tay, ruột màu xanh nhạt, ăn giòn và rất mát. Đây là một giống quả đang trở thành cơn sốt trong trào lưu ăn salad, rau trộn của chị em vì rất ngon miệng lại giúp làm đẹp da. Tuy nhiên giá cả của nó lại vô cùng đắt đỏ, không phải ai cũng dám bỏ tiền ra để ăn chúng.
Súp lơ nhiều màu
Ngoài 2 màu cơ bản là trắng thì súp lơ còn được nhân tạo thành các màu xanh, tím và vàng có giá trị dinh dưỡng rất cao. Việc thụ phấn làm biến đổi màu sắc và thành phần dinh dưỡng của súp lơ tím và vàng được tạo ra bởi một người dân mang tên Andrew Burgess tại thành phố Peterboroug ở Anh thực hiện. Được biết súp lơ vàng có tác dụng rất tốt cho làn da mịn màng khỏe đẹp. Súp lơ tím có chứa chất chống oxy hóa cao. Súp lơ xanh có giá trị dinh dưỡng cao gấp nhiều lần các loại súp lơ khác cộng lại mặc dù mùi vị của nó không khác gì các loại súp lơ khác.
Táo tình yêu đỏ (Redlove)
Điều đặc biệt của giống táo này là từ vỏ đến ruột của nó đều có 1 màu đỏ tươi rất đẹp mắt. Thậm chí ngay cả khi nấu chín hay ép lấy nước màu của ruột táo cũng không bị thay đổi, giảm màu. Giá bán khoảng 400.000đ/cây.
Chuối đỏ (chuối Dacca)
Đây là loại chuối giống Úc. Toàn bộ vỏ bên ngoài của giống chuối này có màu đỏ ngay cả khi chúng còn non. Nhưng khi chín ruột của nó lại có màu vàng như các loại chuối bình thường khác. Chuối đỏ có vỏ dày hơn và quả cũng nhỏ hơn so với các giống chuối thông thường.
Củ cải ruột hồng (củ cải dưa hấu)
Loại củ cải này xuất phát từ Trung Quốc. Đặc điểm là vỏ bên ngoài vẫn màu trắng duy có ruột là màu hồng, vị ngọt dịu, giòn tan và ăn rất mát. Vì vậy, nó rất được ưu chuộng. Tuy nhiên, thời gian trồng và thu hoạch của nó là rất ngắn (60 ngày). Vì vậy, không dễ mà bạn có thể thưởng thức được chúng nếu không nhanh tay.
Dâu tây trắng
Loại dâu tây trắng này có hương vị thơm ngon và chua như dứa nhưng lại có hình dạng như dâu tây nguyên bản. Loại dâu tây trắng này đang rất được ưu chuộng và thịnh hành tại Anh với giá bán cực đắt đỏ, khoảng 128.000đ/125mg.
Thanh long vỏ vàng ruột trắng
Trái thanh long này có kích thước nhỏ hơn bình thường, ăn rất ngọt và mát. Ban đầu vỏ của nó là màu xanh nhưng chín chúng bắt đầu chuyển sang màu vàng ruột trắng. Được trồng ở một số quốc gia Đông Nam Á, tuy nhiên chưa có ở Việt Nam.
Su hào tím
Toàn bộ các bộ phận từ gân, cọng lá đến vỏ đều màu tím nhưng trong ruột của nó vẫn là màu trắng như su hào bình thường. Nhưng lá lại rất ít và ngắn chỉ khoảng 15-20cm. Hạt giống của nó được bán với giá khác cao khoảng 25-30.000đ/gói 2gr.
Cà rốt 7 sắc cầu vồng
Giá bản khoảng 85.000đ/ gói khoảng 350 hạt giống cà rốt có đủ các màu trắng, vàng, cam, tím,…Loại cà rốt này được đánh giá cao hơn so với loại cà rốt thông thường.
Cà chua đen
Là con lai của cà chua đỏ và cà chua tím. Giống cà chua đen này có vị ngọt đậm đà, vỏ màu đen, ruột màu tím đỏ. Chứa chất anthocyanin – chất chống oxy hóa cao có khả năng chống lại bệnh tiểu đường, ung thư và béo phì,…
Ngô 7 sắc cầu vồng
Giống ngô được lai tạo hỗn hợp từ nhiều giống khác nhau tạo thành những màu sắc khác nhau trên cùng 1 bắp ngô. Những hạt ngô rất căng, tròn và sáng bóng. Giá bán của giống ngô này khoảng 170.000đ/gói 50 hạt.
Ớt trắng ( ớt Habanero)
Đây là giống ớt vô cùng quý hiếm, có màu trắng và vì vô cùng cay. Loại ớt này được trồng nhiều ở Mexico và vùng Caribe, thường được dùng để làm nước sốt và gia vị tẩm ướp. Tuy nhiên, nó vẫn chưa có mặt ở nước ta.
Ổi tím
Loại ổi đặc biệt này không có hạt khi chín cả vỏ và ruột đều có màu tím. Ăn rất ngọt và mềm, cây nhỏ có thể trồng làm cây cảnh chơi.
Đậu cô ve đỏ, tím
Hai giống đậu này khá đặc biệt vì nó có màu tím và đỏ nhưng khi được nấu chín nó lại chuyển thành màu xanh như bình thường, giá trị dinh dưỡng cao hơn đậu cô ve xanh. Tại Mỹ giá giống hạt đậu cô ve này ở khoảng 85-110.000đ/ túi.
Khoai tây xanh
Được nhân giống từ các loại khoai hoang, có lượng tinh bột tương đương với các giống khoai tây thường nhưng gấp 3 lần vitamin C và 4 lần chất chống oxy hóa. Nó có màu tím xanh, tim đậm, tím nhạt khác nhau kể cả khi còn sống hay được nấu chín vẫn giữ nguyên được màu và mang mùi hạt dẻ.
Xoài tím
Xuất xứ ở Đài Loan và được nhân giống thành công ở Trung tâm Chuyển giao công nghệ nông nghiệp Thái Lan. Khi còn xanh vỏ của xoài có màu xanh như bình thường sau đó sẽ chuyển dần sang màu tím khi xoài bắt đầu chín. Ruột có màu vàng sậm, ngọt và thơm vô cùng.
Dưa hấu ruột trắng
Giống dưa hấu rất lạ mắt vì có ruột màu trắng, vị dưa leo; cân nặng trung bình từ 2-5kg/quả; vỏ màu xanh, mỏng, rất dễ bị nứt trong quá trình vận chuyển. Do đó rất khó để mua được loại dưa này vì vậy giống của nó khoảng 20.000đ/hạt. Đây được xác định là giống dưa bắt nguồn từ Nhật Bản.Sầu riêng Tím..
Voltaire (philosophe francais) người đã khai phá và làm phát triển vùng Ferney của Pháp
được đến thăm thành phố Ferney-Voltaire vào tháng 6 nhân dịp lễ kỷ niệm nhà triết gia Voltaire (1604-1778)
Voltaire sống hai mươi năm cuối đời ở Ferney và mất ở Paris. Những lời nói cuối cùng của ông là: "Vì Thiên Chúa, xin để cho tôi chết trong bình yên.". Nay Ferney được đặt theo tên ông là Ferney-Voltaire. Lâu đài ông ở giờ là bảo tàng L'Auberge de l'Europe còn toàn bộ thư viện của ông vẫn được giữ nguyên tại bảo tàng quốc gia Nga tại Sankt-Peterburg. Đại thi hào người Đức là Johann Wolfgang von Goethe đã gọi ông là "nhà văn xuất sắc nhất mọi thời đại". Không những thế, ông cũng được đánh giá là một trong những thiên tài sử học lỗi lạc nhất.
Voltaire vừa là triết gia, nhà văn, nhà soạn kịch......
những câu nói bất hủ của nhà văn hào được giăng khắp nơi nhân ngày lễ 27-06 của Voltaire
hình tượng của Voltaire được thấy nhiều nơi trong thành phố
đang chuần bị đi viếng Château của nhà văn hào, triết gia Voltaire
nụ cười tươi của cô serveuse làm phó nhòm vui lây
đến viếng Château de Voltaire (philosophe francais) ở Ferney
This article may be expanded with text translated from the corresponding article in French. (July 2013) Click [show] for important translation instructions. [show]
Ferney was first noted in 14th-century Burgundian registers as "Fernex." Four centuries later, however, Voltairechanged the "x" to a "y" due to the excessive number of towns in the region with names ending in "x," such asMaconnex, Saconnex, Gex, Versonnex, Ornex.[citation needed]
During Voltaire's reign over Ferney in the second part of the 18th century, the town saw rapid expansion. Today Ferney is a peaceful town with a Saturday market and a large international community, due to the proximity ofCERN and the United Nations Office at Geneva. Ferney is growing very quickly. It is also home to the Lycée International. Voltaire still presides over Ferney with his statue in the center of town.
From 1759 to 1778 Ferney was home to French writer and philosopherVoltaire, sometimes referred to as "the patriarch of Ferney."[1] His influence on the town was profound. He built the local church and founded cottage industries that produced some of the finest potters and watchmakers of modern France. After the French Revolution, the town was renamed "Ferney-Voltaire" in his honor.
In 1759, after having lived in Geneva less than two years, Voltaire had purchased the estate of Ferney in France, near the Swiss border. A prime reason for his leaving Geneva was that theatre was forbidden in thatCalvinist city, so he had decided to become the enlightened "patriarch" of the little village of Ferney, setting up potteries, a watchmaking industry and, of course, theaters, attracting rich people from Geneva to watch his plays.
During Voltaire's residence, the population of Ferney increased to more than 1,000. Voltaire lived there for the last 20 years of his life before returning to Paris, where he died in 1778.
Around 1940 a primary school, the École de Ferney-Voltaire, was established. About 1970 it was renamed École Florian, after the French poet and fabulistJean-Pierre Claris de Florian, whose uncle and guardian, the Marquis de Florian, had married a niece of Voltaire.
The school is notable for having had a large number of pupils who were children of physicists at CERN, which is located in the vicinity.
Ferney's main attraction is Voltaire's house (château), built 1758–66, now owned and administered by the Centre des monuments nationaux (an arm of the French Ministry of Culture). It is open to visitors between May and September.
The chateau includes the main building, with a reconstruction of Voltaire's room (moved from its original location by later private owners), a garden with a fine view of the Alps, and a church dedicated, contrary to custom, directly to God. In the church's inscription, "Deo erexit VOLTAIRE" ("Erected to God by VOLTAIRE"), Voltaire's name is written in the largest characters.
A few dozen meters from the chateau is another impressive house, built in 1900 byMonsieur Lambert (the sculptor of the statue of Voltaire; his family owned the chateau before it was purchased by the French government). The house, now privately owned, had been used to store provisions and wine for the chateau, and to accommodate the household staff.
The village features 18th-century houses and artisans' workshops; a life-size statue of Voltaire; a smaller bust of him, surmounting a fountain; many restaurants, French and foreign; and proximity to the nearby cosmopolitan city of Geneva, Switzerland.
Every Saturday, a market is held in the main street of Ferney.
The old road at the centre of the village is a remnant of the time when Voltaire resided at the chateau in Ferney-Voltaire.
The pedestal of the Voltaire statue, erected in 1890, dedicates that memorial to the town's "benefactor," noting that he built over a hundred houses for the inhabitants, as well as a school and church, gave the town interest-free loans, and fed its inhabitants in time of need.
Voltaire hay nói bỡn nhưng rất nhạy bén khi phê bình hay tranh luận. Ông luôn phấn đấu phát huy quyền làm người, bảo vệ quyền tự do cá nhân, tự do tôn giáo và quyền được phán xử công minh. Ông thường công khai phát biểu đòi cải cách những bất công trong xã hội mặc dầu lúc bấy giờ triều đình Pháp rất khe khắt với những người chống đối. Qua những bài bình luận có tính châm biếm, Voltaire thường chỉ trích Giáo hội và Nhà nước Pháp thời đó. Phần lớn cuộc đời ông sống trong cảnh đày ải.[2]
Ông được xem như một nhân vật có tiếng và quan trọng lúc sinh thời. Cả thế giới đều biết đến tình bạn giữa ông và nhà vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ - một vị Đại Danh tướng thời đó.[3][4] Nhà vua Friedrich II Đại Đế là một học trò Hoàng gia của ông.[5]
Voltaire sinh năm 1694 tại thủ đô Paris ra trong một gia đình cha là một quan chức thuế và mẹ là quý tộc dòng dõi. Ông được giáo dục bởi các giáo sĩ dòng Tên, được học tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh. Sau này ông còn thành thạo các tiếng Anh, Ý và Tây Ban Nha[6]. Ông ban đầu làm thư ký rồi sau chuyển hẳn sang nghiệp viết. Ông chủ yếu viết văn thơ chỉ trích xã hội đương thời và do vậy bị đày sang Anh Quốc, nơi ông chịu nhiều ảnh hưởng và sau ba năm đi đày ông đã viết Lettres philosophiques (Những lá thư triết học về nước Anh).
Bữa ăn của Voltaire, vua Phổ Friedrich II và những thành viên viện Hàn lâm Khoa học Berlin.
Về Pháp ông ở tại lâu đài Château de Cirey tại mạn biên giới giữa vùng Champagne và Lorraine. Chính nơi đây ông bắt đầu quan hệ với Émile của Châtelet, vợ của người chủ lâu đài. Voltaire cùng bà nữ hầu tước này đã sưu tập nhiều sách vở tài liệu và cùng nhau nghiên cứu chúng lại cùng nhau làm thí nghiệm "khoa học tự nhiên" ngay tại lâu đài. Bên cạnh say mê khoa học tự nhiên và là tín đồ của Newton ông cũng nghiên cứu sử học và viết Essay upon the Civil Wars in France (Luận văn về Nội chiến ở Pháp) bằng tiếng Anh. Ông cũng viết về vua Louis XIV, miêu tả về sự lớn mạnh của nền quân sự nước Pháp thời ấy.[7]Với tiểu sử vua Thụy Điển là Karl XII ông bắt đầu quan điểm phản đối tôn giáo của mình. Tuyệt tác này bị Chính phủ Pháp căm ghét, do ông tỏ ra khiếm nhã khi miêu tả về kẻ thù của vua Karl XII là August II, Tuyển hầu tước xứ Sachsen kiêm vua Ba Lan (một trong những đứa con riêng của vua August II là danh tướng Pháp Maurice de Saxe). Ông rất ngưỡng mộ Quốc vương Karl XII, và ấn tượng sâu sắc trong chiến thắng lừng lẫy của ông vua này trước Nga hoàngPyotr Đại Đế trong trận Narva tại Estonia (1700).[8] Ông cùng bà nữ hầu tước còn cùng nhau nghiên cứu triết học, nhất là siêu hình học. Ông cùng nghiên cứu Kinh thánh và cho rằng cần phân tách nhà thờ ra khỏi nhà nước. Lúc này, vua Friedrich Wilhelm I trị vì nước Phổ, và Hoàng thái tử nước ấy là Friedrich đã làm quen với thiên tài văn học Voltaire.[9] Thái tử Friedrich cũng mê say đọc các tác phẩm của ông.[10] Hai người lần đầu tiên trao đổi thư từ vào năm 1736,[11] Voltaire đã viết thư ca ngợi Thái tử Friedrich sẽ là một vị Quân vương triết học sáng suốt.[12]
Vào năm 1740, khi mới 28 tuổi, Hoàng thái tử Friedrich lên nối ngôi, tức là vua Friedrich II Đại Đế của Vương quốc Phổ. Voltaire có viết thơ ca ngợi cuộc đăng quang của vị tân vương sáng suốt.[13] Tuy vị vua - triết gia tiến hành những cải cách tiến bộ đầu tiên, những bạn hữu của nhà vua như Voltaire đều sớm nhận ra rằng nhà vua còn có mối quan tâm khác ngoài triết học. Nhà vua nhanh chóng xua quân tinh nhuệ đánh chiếm tỉnh Silesia giàu mạnh của Đế quốc Áo láng giềng, và giành thắng lợi.[4] Từ năm 1741 cho đến năm 1745 có hai cuộc chiến tranh Silesia đầu tiên, và nhà vua vẫn trao đổi thư từ với Voltaire.[14]
Sau khi Nữ Hầu tước Émile của Châtelet mất, Voltaire sang Phổ chung sống với nhà vua Friedrich II Đại đế[15] - còn gọi là Friedrich Độc đáo.[16] Nay, trong thư gửi cho bạn hữu của ông tại kinh đô Paris, Voltaire miêu tả thành phố Potsdam là miền cực lạc của triết học, và ca tụng vị vua vĩ đại.[17] Ở Hoàng cung khi ấy có một "căn phòng Voltaire".[18] Mặc dù cuộc sống vương giả nhưng ông vẫn giữ thói chỉ trích của mình và với tác phẩm Diatribe du docteur Akakia (Chỉ trích Tiến sĩ Akkakia; tên đầy đủ Histoire du Docteur Akakia et du Natif de St Malo) mà ông phê phán vị Viện trưởng Viện Hàn lâm Berlin là Maupertius, Voltaire đã khiến vua Friedrich II Đại Đế nổi giận. Ông quay về Pháp nhưng vua Louis XV của Pháp cấm ông trở về thủ đô Paris nên ông quay sang Genève. Tuy ban đầu được đón chào nhưng ông lại viết luận văn chỉ trích triết học của Gottfried Leibniz qua tác phẩm Candide, ou l'Optimisme (Ngay thẳng, hay lạc quan; 1759) và ông lại rời thành phố.
Sau bất hòa vào năm 1753, nhà vua Friedrich II Đại Đế do ngưỡng mộ thiên tài của ông nên đã trao đổi thư từ với ông, lập lại tình bạn.[1] Vào năm 1756, cuộc Chiến tranh Bảy năm bùng nổ, quân Phổ bị quân Áo đập tan tác trong trận Kolín (1757). Nhưng nhà vua nước Phổ sẵn sàng thà chết còn hơn nhượng tỉnh Silesia cho giặc, và Voltaire cho rằng, năm xưa, một tiên vương của Vương triều Brandenburg - Phổ từng bị mất đất đai chiếm được, nhưng vẫn giữ mãi vinh dự lớn lao, và nay, nhà vua vẫn luôn luôn có thể "đóng một vai trò lớn lao ở châu Âu". Nhà vua rất thích lời khuyên này của ông.[19] Vào năm 1758, ông cũng trao đổi thư từ với nhà vua, để tìm hiểu những đức tính cao đẹp của nhà vua.[20] Tương tự vào năm 1760, nhà vua nước Phổ gửi thư cho ông.[21] Đến năm 1762, cuối cùng thì nhà vua đã đại phá quân Áo trong trận đánh tại Freiberg và ký kết Hiệp định Hubertusburg vào năm 1763, giữ vững được toàn bộ đất nước Phổ.[18][22] Dù có vài vụ chia rẽ đầy tai tiếng, tình bạn giữa hai vĩ nhân này vẫn được giữ vững cho đến khi Voltaire qua đời vào năm 1778.[21] Mở đầu từ thập niên 1730, tình bạn thân thiết của họ, với một loạt thư từ được trao đổi giữa hai bên, kéo dài đến hơn 40 năm trời.[23] Đây là một tình bạn nổi tiếng giữa vị vua nước Phổ và một trong những ngôi sao sáng chói nhất của trào lưu Khai sáng trong nhiều năm.[24]
Sinh thời, Voltaire không những có tình bạn với Quốc vương Friedrich II Đại Đế nước Phổ,[25] mà cũng trao đổi thư từ với Nữ hoàng nước Nga là Ekaterina II Đại Đế. Nữ hoàng thán phục thiên tài văn học và tầm nhìn xa trông rộng của ông, và ông cũng gọi Nữ hoàng là "Nữ vương Semiramis của phương Bắc" (Semiramis là một vị Nữ vương huyền thoại của xứ Assyria xưa). Tuy nhiên, ông không hề nói thế trong những lá thư gửi cho Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế, vì ông có viết vở bi kịch "Sémiramis" kể về một vị Nữ vương giết chồng cướp ngôi.[26] Trong khi Nữ hoàng nước Nga đã soán ngôi của chồng của Nga hoàng Pyotr III vào năm 1762. Ông còn ủng hộ Nữ hoàng đánh đuổi người Thổ Nhĩ Kỳ hung bạo ra khỏi châu Âu và chia cắt Ba Lan vào thập niên 1770.[27] Có lần ông còn gọi Nữ hoàng là Tomyris, theo tên một vị Nữ vương xứ Scythia đã đánh tan tác đại quân Ba Tư của Hoàng đế Cyrus Đại Đế.[28] Ông cũng trao đổi thư từ với nhà ngoại giao người Anh là William Hamilton vào năm 1773.[29]
"Jamais vingt volumes in-folio ne feront de révolution; ce sont les petits livres portatifs à trente sous qui sont à craindre. Si l'Évangile avait coûté douze cents sesterces, jamais la religion chrétienne ne se serait établie." (Lettre à d'Alembert, 5 tháng 4 năm 1766)
"Hai mươi tập sách khổ lớn không bao giờ làm nổi một cuộc cách mạng; chính những quyển sách nhỏ giá ba mươi xu mới thực sự đáng sợ. Nếu Sách Phúc Âm có giá là một ngàn hai trăm sestertius (tiền La Mã) thì Kitô giáo có lẽ sẽ không bao giờ phát triển như ngày nay."
"La nôtre [religion] est sans contredit la plus ridicule, la plus absurde, et la plus sanguinaire qui ait jamais infecté le monde."[30] (Thư gửi Friedrich II của Phổ, ngày 5 tháng 1 năm 1767)
"[Ki-Tô giáo] là tôn giáo lố bịch nhất, vô lý nhất và đẫm máu nhất làm nhiễm độc thế giới."
"Dans les commencements de la fondation des Quinze-Vingts......aux sourds de juger de la musique." (Petite digression)
"Khi mới thành lập bệnh viện Quinze-Vingts......những kẻ điếc bình phẩm về âm nhạc."
"Il vaut mieux hasarder de sauver un coupable plutôt que de condamner un innocent." (Zadig)
"Thà mạo hiểm cứu vớt một kẻ phạm tội còn hơn lên án một người vô tội."
"Que répondre à un homme qui vous dit qu'il aime mieux obéir à Dieu qu'aux hommes et qui, en conséquence, est sûr de mériter le ciel en vous égorgeant?"(Dictionnaire philosophique, mục từ "Fanatisme")
"Trả lời thế nào đối với một người nói với bạn rằng anh ta tuân phục Chúa hơn là với người khác và cho rằng anh ta chắc chắn sẽ được lên thiên đàng khi cắt cổ bạn?"
"Je commence mon nom, vous finissez le vôtre." (Voltaire s'adressant au chevalier de Rohan)
"Tôi bắt đầu bằng tên của tôi, ngài kết thúc bằng tên của ngài."
"Le fanatique aveugle, et le chrétien sincère Ont porté trop souvent le même caractère; Ils ont même courage, ils ont mêmes désirs. Le crime a ses héros, l'erreur a ses martyrs. Du vrai zèle et du faux vains juges que nous sommes! Souvent les scélérats ressemblent aux grands hommes." (La Henriade, chương 5, trang 169-202)
"Kẻ cuồng tín mù quáng, cùng tín đồ Cơ Đốc thành thật
Đều mang cùng tính cách;
Họ đều can đảm, đều có cùng ham muốn.
Tội ác có anh hùng của nó, sai lầm có tử sĩ của nó.
Lòng nhiệt thành và vô vọng là những gì chúng ta có!
Thường những kẻ côn đồ giống các vĩ nhân."
"Nous laisserons ce monde-ci aussi sot et aussi méchant que nous l'avons trouvé en y arrivant." (được trích bởi Schopenhauer)
"Chúng ta sẽ để lại một thế giới điên rồ và tàn ác như khi chúng ta được biết khi bước vào trước đó."
"Quelques arpents de neige": ainsi Voltaire désigna-t-il les terres françaises du Canada donnant des arguments à ceux qui préféraient que la France les cède à l'Angleterre. Rappelons qu'à l'époque toute la Louisiane - bien plus grande que l'actuel État de Louisiane - était française et dotée d'un climat bien plus clément.
"Một vài mẫu đất phủ băng tuyết": đó là cách mà Voltaire gọi những vùng đất Canada thuộc Pháp khi ông đưa ra lập luận đối với những người muốn nước Pháp nhượng lại cho Đế quốc Anh. Lưu ý là vào thời điểm đó, toàn bộ vùng đất Louisiana - rộng hơn bang Louisiana hiện tại - là còn thuộc Pháp và có khí hậu ôn hoà hơn.
"Les beaux esprits se rencontrent."
"Những tư tưởng lớn thường gặp nhau."
"Un dictionnaire sans citations est un squelette."
"Một từ điển không có các câu trích dẫn chỉ là một khung xương."
"L'écriture est la peinture de la voix."
"Viết lách chính là hội hoạ của phát ngôn."
"On peut juger du caractère des hommes par leurs entreprises."
"Có thể đánh giá tính cách của đàn ông thông qua sự mạo hiểm dấn thân của họ."
"Plus les hommes seront éclairés, et plus ils seront libres."
"Càng hiểu biết, con người càng tự do."
"Si Dieu n'existait pas, il faudrait l'inventer."
"Nếu Chúa không tồn tại thì cần phải phát minh ra ông ta."
"Soyez des immeubles effondrés de mensonges."
"Hãy đập tan toà nhà của sự dối trá."
"Providence has given us hope and sleep as a compensation for many cares of life."
"Thượng đế ban cho chúng ta hy vọng và giấc ngủ để đền bù cho những nỗi lo lắng của cuộc đời.
"He who thinks himself wise; Oh Heavens! Is a great fool."
"Kẻ nào nghĩ mình là khôn ngoan thì, trời hỡi! Hắn là một tên đại ngốc."
Voltaire để lại một di sản các tác phẩm đồ sộ bao gồm tiểu thuyết, kịch, thơ, luận văn và các công trình nghiên cứu khoa học và sử học. Ông còn viết nhiều sách, rất nhiều tờ rơi và trên 20000 thư từ trao đổi. Trong bản anh hùng ca "Henriade" của ông, Voltaire ca ngợi những đức độ của một vị Quân vương sáng suốt, như sống giản dị, chăm lo phát triển kinh tế hay bảo trợ khoa học và nghệ thuật. Vua Phổ Friedrich II Đại Đế đã hăng hái noi theo những lời dạy này.[31] Trong bản anh hùng ca này, ông ca tụng công đức của vua Henri IV năm xưa.[32]
Qua các tác phẩm Voltaire thể hiện quan điểm rằng không cần đức tin để tin vào Chúa. Ông tin vào Chúa nhưng là niềm tin lý tính. Ông cũng phản đối đạo Ki-tô quyết liệt nhưng không nhất quán. Một mặt ông cho rằng Giê-su không tồn tại và các sách Phúc âm là nguỵ tạo nên chứa đầy mâu thuẫn nhưng mặt khác ông lại cho rằng cũng chính công đồng đó đã gìn giữ nguyên bản mà không thay đổi gì để giải thích cho những mâu thuẫn trong các sách Phúc âm. Ông cũng gọi người da đen là động vật (trong Essai sur les mœurs) và thấp kém so với con người cả về mặt thể chất và tinh thần. Ông cũng viét nhiều về các chủng thổ dân khác nhau và có quan điểm bài Do thái.
Tác phẩm lớn nhất của ông để lại là Dictionnaire philosophique (Từ điển Triết học) tập hợp nhiều bài viết riêng của ông và các bài ông viết trong Encyclopédie (Bách khoa thư) của Diderot. Trong đó ông phản bác thể chế chính trị đương thời của Pháp, nhà thờ Công giáo, Kinh Thánh và thể hiện văn phong, tính cách riêng của mình, Voltaire. Qua đó ông nhấn mạnh vai trò của tôn giáo lý tưởng là giáo dục đạo đức chứ không phải giáo điều.
Nhà văn Voltaire xem giai cấp tư sản Pháp quá nhỏ bế và yếu ớt, giai cấp quý tộc thì tham nhũng và ăn bám, còn người dân thường thì dốt nát và mê tín, và nhà thờ thì giúp thêm cho các nhà cách mạng bằng thuếthập phân. Do ông xem phần lớn con người là những kẻ đểu giả và ngu dốt, ông bỉ bác nguồn gốc của con người, khác với nhà vănRousseau mong muốn đưa con người trở về với tự nhiên.[33]
Voltaire cũng không tin tưởng ở chế độ dân chủ mà ông xem là chỉ tuyên truyền những tôn sùng của quần chúng. Theo ông chỉ tin những vị vua theo chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế với sự hỗ trợ của các nhà triết học như ông mới có thể dẫn tới sự thay đổi vì chỉ với những tính toán lợi ích hợp lý của nhà vua mới mang lại quyền lợi và thịnh vượng cho vương quốc và thần dân. Trong thư gửi Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế nước Nga và vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ ông nhấn mạnh đến vai trò của quân đội và sử dụng vũ lực để "mang lại trật tự" như ông viết ủng hộ việc chia tách Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva. Không những thế, ông cũng kêu gọi vua Friedrich II Đại Đế phát binh đánh người Thổ Nhĩ Kỳ bạo ngược, nhưng vua từ chối. Số là vua đã phải hứng chịu cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn khốc, nay chiến tranh kết thúc, vua gửi thư cho Voltaire:[34]
“
Hãy để cho chúng ta được sống, và làm ơn để người khác được sống.
”
—Friedrich II Đại Đế
Và khi Voltaire ca ngợi vua Karl XII "lên đến mây xanh" dù ông "chẳng biết tí tẹo gì" về quân sự, vua Friedrich II Đại Đế cũng thể hiện trải nghiệm của mình sau chiến tranh qua việc không ngưỡng mộ vua Karl XII cho lắm.[35] Nhưng Voltaire cũng phản đối việc sử dụng vũ lực để giải quyết các vấn đề tranh chấp như trongDictionnaire philosophique ông xem chiến tranh là "cỗ máy địa ngục" và người sử dụng chúng là "những kẻ giết người ngu ngốc". Voltaire còn được nhớ đến như một người tranh đấu cho quyền tự docá nhân, tự do tôn giáo trong đó có quyền được xét xử công bằng và vạch rõ sự giả dối và không công bằng của chế độ ba đẳng cấp.
Voltaire sống hai mươi năm cuối đời ở Ferney và mất ở Paris. Những lời nói cuối cùng của ông là: "Vì Thiên Chúa, xin để cho tôi chết trong bình yên."[36] Nay Ferney được đặt theo tên ông là Ferney-Voltaire. Lâu đài ông ở giờ là bảo tàng L'Auberge de l'Europe còn toàn bộ thư viện của ông vẫn được giữ nguyên tại bảo tàng quốc gia Nga tại Sankt-Peterburg. Đại thi hào người Đức là Johann Wolfgang von Goethe đã gọi ông là "nhà văn xuất sắc nhất mọi thời đại".[37] Không những thế, ông cũng được đánh giá là một trong những thiên tài sử học lỗi lạc nhất.[2]
Letters concerning the English nation (London, 1733) (French version entitled Lettres philosophiques sur les Anglais, Rouen, 1734), revised as Letters on the English (circa 1778)
Figure emblématique de la philosophie des Lumières, chef de file du parti philosophique, son nom reste attaché à son combat contre le fanatisme religieux, qu’il nomme « l’Infâme », pour la tolérance et la liberté de pensée. Anticlérical et déiste
en dehors des religions constituées, son objectif politique est celui
d’une monarchie modérée et libérale, éclairée par les « philosophes ».
Intellectuel engagé au service de la vérité et de la justice, il prend,
sur le tard, seul et en se servant de son immense notoriété, la défense
de victimes de l’intolérance religieuse et de l’arbitraire dans des
affaires qu’il a rendues célèbres : Jean Calas, Pierre-Paul Sirven, chevalier de La Barre, comte de Lally.
Son œuvre littéraire est variée : son théâtre, ses poésies épiques,
ses œuvres historiques, firent de lui l’un des écrivains français les
plus célèbres au XVIIIe siècle mais elle comprend également des contes et romans, les Lettres philosophiques, le Dictionnaire philosophique et une importante correspondance, plus de 21 000 lettres retrouvées.
Tout au long de sa vie, Voltaire fréquente les Grands et
courtise les monarques, sans dissimuler son dédain pour le peuple, mais
il est aussi en butte aux interventions du pouvoir, qui l’embastille et le contraint à l’exil en Angleterre ou à l’écart de Paris. En 1749, après la mort d’Émilie du Châtelet, avec laquelle il a entretenu une liaison houleuse pendant quinze ans, il part pour la cour de Prusse mais, déçu dans ses espoirs de jouer un grand rôle auprès de Frédéric II à Berlin, se brouille avec lui après trois ans et quitte Berlin en 1753. Il se réfugie un peu plus tard aux Délices, près de Genève, avant d’acquérir en 1759 un domaine à Ferney,
sur la frontière franco-genevoise, à l’abri des puissants. Il ne
reviendra à Paris qu’en 1778, ovationné par le peuple après une absence
de près de vingt-huit ans. Il y meurt à 83 ans.
Voltaire aime le confort, les plaisirs de la table et de la
conversation qu’il considère, avec le théâtre, comme l’une des formes
les plus abouties de la vie en société. Soucieux de son aisance
matérielle, qui garantit sa liberté et son indépendance, il acquiert une
fortune considérable dans des opérations spéculatives qui préfigurent
les grandes spéculations boursières sous Louis XVI
et dans la vente de ses ouvrages, ce qui lui permet de s’installer en
1759 au château de Ferney et d'y vivre sur un grand pied, tenant table
et porte ouvertes. Le pèlerinage à Ferney fait partie en 1770-1775 du
périple de formation de l’élite européenne éclairée. Investissant ses
capitaux, il fait du village misérable de Ferney une petite ville
prospère. Généreux, d'humeur gaie, il est néanmoins chicanier et parfois
féroce et mesquin avec ses adversaires comme Jean-Jacques Rousseau ou Crébillon1.
Considéré par la Révolution française — avec Jean-Jacques Rousseau, son frère ennemi — comme un précurseur, il entre au Panthéon en 1791, le deuxième après Mirabeau. À cette même période, sur l'initiative du marquis de Villette qui l'hébergeait, le « quai des Théatins » où l'écrivain habitait à Paris au moment de sa mort sera baptisé « quai Voltaire ». Célébré par la IIIe République (dès 1870, à Paris, un boulevard et une place portent son nom), il a nourri, au XIXe siècle,
les passions antagonistes des adversaires et des défenseurs de la
laïcité de l’État et de l’école publique, et, au-delà, de l’esprit des
Lumières.
François-Marie Arouet est né officiellement le à Paris et a été baptisé le lendemain à l'église de Saint-André-des-Arcs. Cependant, il a plusieurs fois affirmé qu'il était né en réalité le 20 février 1694 à Châtenay-Malabry. Il a contesté aussi sa paternité, persuadé que son vrai père était un certain Roquebrunen 1,2 : « Je crois aussi certain que d’Alembert est le fils de Fontenelle, comme il est sûr que je le suis de Roquebrune ».
Voltaire prétendit que l’honneur de sa mère consistait à avoir préféré
un homme d’esprit comme était Roquebrune, « mousquetaire, officier,
auteur et homme d'esprit », à son père, le notaire Arouetn 2
dont Roquebrune était le client, car Arouet était, selon Voltaire, un
homme très commun. Le baptême à Paris aurait été retardé du fait de la
naissance illégitime et du peu d’espoir de survie de l’enfant. Aucune
certitude n’existe sinon que l’idée d’une naissance illégitime et d’un
lien de sang avec la noblesse d’épée ne déplaisait pas à Voltaire.
Du côté paternel (officiellement), les Arouet sont originaires d’un petit village du nord du Poitou, Saint-Loup, près d'Airvault, où ils exercent au XVe siècle et XVIe siècle une activité de tanneurs, les Arouet sont un exemple de l’ascension sociale de la bourgeoisie au XVIIe siècle.
Le premier Arouet à quitter sa province s’installe à Paris en 1625 où
il ouvre une boutique de marchand de draps et de soie. Il épouse la
fille d’un riche marchand drapier et s’enrichit suffisamment pour
acheter pour son fils, François, le père de Voltaire, une charge de
notaire au Châtelet en 1675, assurant à son titulaire l’accès à la petite noblesse de robe. Ce dernier, travailleur austère et probe aux relations importantes, arrondit encore la fortune familiale, épouse le la fille d’un greffier criminel au Parlement. Arouet père veut donner à son cadet une formation intellectuelle qui soit à la hauteur des dons que celui-ci manifeste.
Avec Marguerite d’Aumard, Arouet père élève cinq enfants (dont trois
atteignent l'âge adulte), et revend son étude en 1696 pour acquérir une
charge de conseiller du roi, receveur des épices à la Chambre des comptes.
Voltaire perd sa mère à l’âge de sept ans. Il a notamment eu un frère
aîné, Armand, avocat au Parlement, catholique rigoriste (janséniste),
et une sœur, Marie, seule personne de sa famille qui lui ait inspiré de
l’affection. Cette dernière épousera Pierre François Mignot, correcteur
à la Chambre des comptes, et elle sera la mère de l’abbé Mignot, qui
jouera un rôle à la mort de Voltaire, et de Marie-Louise, la future « Madame Denis », qui partagera une partie de la vie de l'écrivain.
Études chez les Jésuites (1704-1711)
À la différence de son frère aîné chez les jansénistes,
François-Marie entre à dix ans comme interne (400 puis 500 livres par
an) au collège Louis-le-Grand chez les Jésuites. Le plus cher de la capitale[réf. nécessaire]n 3, ce serait aussi l’établissement le mieux fréquentén 4 et François-Marie y reste durant sept ans. Les jésuites enseignent le latin et la rhétorique, mais veulent avant tout former des hommes du monde et initient leurs élèves aux arts de société : joutes oratoires, plaidoyers, concours de versification,
et théâtre. Un spectacle, le plus souvent en latin et d'où sont par
principe exclues les scènes d'amour, et où les rôles de femmes sont
joués par des hommes, est donné chaque fin d'année lors la distribution
des prix.
Arouet est un élève brillant, vite célèbre par sa facilité à versifier : sa toute première publication est son Ode à sainte Geneviève. Imprimée par les Pères, cette ode
est répandue hors les murs de Louis-le-Grand (au grand dam
ultérieurement de Voltaire adulte). Il apprend au collège Louis-le-Grand
à s'adresser d’égal à égal aux fils de puissants personnages, le tout
jeune Arouet tisse de précieux liens d’amitié, très utiles toute sa
vie : entre bien d'autres, les frères d’Argenson, René-Louis et Marc-Pierre, futurs ministres de Louis XV et le futur duc de Richelieu.
Bien que très critique en ce qui concerne la religion en général et les
ecclésiastiques en particulier, il garde toute sa vie une grande
vénération pour son professeur jésuite Charles Porée. Voltaire écrit en 1746 : « Rien
n’effacera dans mon cœur la mémoire du père Porée, qui est également
cher à tous ceux qui ont étudié sous lui. Jamais homme ne rendit l’étude
et la vertu plus aimables. Les heures de ses leçons étaient pour nous
des heures délicieuses ; et j’aurais voulu qu’il eût été établi dans
Paris, comme dans Athènes, qu’on pût assister à de telles leçons ; je
serais revenu souvent les entendre. »
Débuts comme homme de lettres et premières provocations (1711-1718)
Le Temple,
détail du plan de Turgot, 1739. Le palais du grand prieur (à droite de
la porte d’entrée) réunit une société libertine que fréquente assidument
Arouet à la sortie du collège.
Arouet quitte le collège en 1711 à dix-sept ans et annonce à son père
qu’il veut être homme de lettres, et non avocat ou titulaire d’une
charge de conseiller au Parlement,
investissement pourtant considérable que ce dernier est prêt à faire
pour lui. Devant l’opposition paternelle, il s’inscrit à l’école de
droit et fréquente la société du Temple, qui réunit dans l’hôtel de Philippe de Vendôme, des membres de la haute noblesse et des poètes (dont Chaulieu), épicuriens lettrés connus pour leur esprit, leur libertinage et leur scepticisme. L’abbé de Châteauneuf,
son parrain, qui y avait ses habitudes, l’avait présenté dès 1708. En
leur compagnie, il se persuade qu’il est né grand seigneur libertin et
n’a rien à voir avec les Arouet et les gens du commun. C'est aussi pour
lui une école de poésie ; il va ainsi y apprendre à faire des vers « légers,
rapides, piquants, nourris de référence antiques, libres de ton jusqu’à
la grivoiserie, plaisantant sans retenue sur la religion et la
monarchie3 ».
Son père l’éloigne un moment de ce milieu en l’envoyant à Caen, puis en le confiant au frère de son parrain, le marquis de Châteauneuf, qui vient d’être nommé ambassadeur à La Haye
et accepte d’en faire son secrétaire privé. Mais son éloignement ne
dure pas. À Noël 1713, il est de retour, chassé de son poste et des
Pays-Bas pour cause de relations tapageuses avec une demoiselle.
Furieux, son père veut l’envoyer en Amérique mais finit par le placer
dans l’étude d’un magistrat parisien. Il est sauvé par un ancien client
d’Arouet, lettré et fort riche, M. de Caumartin,
marquis de Saint-Ange, qui le convainc de lui confier son fils pour
tester le talent poétique du jeune rebelle. Arouet fils passe ainsi des
vacances au château de Saint-Ange près de Fontainebleau à lire, à écrire et à écouter les récits de son hôten 5 qui lui serviront pour La Henriade et Le Siècle de Louis XIV.
Le château de Sceaux. La duchesse du Maine y tient une cour royale et exige de ses hôtes des vers sur tout et sur rien. À ces jeux, Arouet est de toute première force.
En 1715, alors que débute la Régence, Arouet a 21 ans. Il est si brillant et si amusant que la haute société se dispute sa présence. Il aurait pu devenir l’ami du Régent mais se retrouve dans le camp de ses ennemis. Invité au château de Sceaux, centre d’opposition le plus actif au nouveau pouvoirn 6, où la duchesse du Maine, mariée au duc du Maine, bâtard légitimé de Louis XIV,
tient une cour brillante, il ne peut s’empêcher de faire des vers
injurieux sur les relations amoureuses du Régent et de sa fille, la duchesse de Berry, qui vient d'accoucher clandestinement.
Le , il est exilé à Tulle4. Son père use de son influence auprès de ses anciens clients pour fléchir le Régent qui remplace Tulle par Sully-sur-Loire, où Arouet fils s’installe dans le château du jeune duc de Sully,
une connaissance du Temple, qui vit avec son entourage dans une
succession de bals, de festins et de spectacles divers. À l’approche de
l’hiver, il sollicite la grâce du Régent qui la lui accorde. Le jeune
Arouet alors recommence sa vie turbulente à Saint-Angen 7 et à Sceaux,
profitant de l’hospitalité des nantis et du confort de leurs châteaux.
Mais, pris par l’ambiance, quelques semaines plus tard, il récidive.
S'étant lié d'amitié avec un certain Beauregard, en réalité un
indicateur de la police chargé de le faire parler, il lui confie être
l'auteur de nouveaux ouvrages de vers satiriques contre le Régent et sa
fille5. Le 16 mai 1717, il est envoyé à la Bastille par lettre de cachet. Arouet a alors 23 ans et il restera embastillé durant onze mois.
Premiers succès littéraires et retour à la Bastille (1718-1726)
Voltaire devient célèbre à 24 ans grâce au succès de sa tragédie Œdipe (1718).
« Il fit croire, des Enfers, Racine revenu » écrit le prince de Conti.
À sa première sortie de la prison de la Bastille, conscient d’avoir
jusque-là gaspillé son temps et son talent, il veut donner un nouveau
cours à sa vie, et devenir célèbre dans les genres les plus nobles de la
littérature de son époque : la tragédie et la poésie épique.
Pour rompre avec son passé, et notamment avec sa famille, afin d'effacer un patronyme aux consonances vulgaires et équivoquesn 8, il se crée un nom euphonique : Voltaire. On ne sait pas à partir de quels éléments il a élaboré ce pseudonyme.
De nombreuses hypothèses ont été avancées, toutes vraisemblables mais
jamais prouvées : inversion des syllabes de la petite ville d'Airvault (proche du village dont est originaire la famille Arouet), anagramme d’Arouet l.j. (le jeune)n 9 ou encore référence à un personnage de théâtre nommé Voltare[Lequel ?].
Le 18 novembre 1718, sa première pièce écrite sous le pseudonyme de Voltaire, Œdipe, obtient un immense succèsn 10. Le public, qui voit en lui un nouveau Racine, aime ses vers en forme de maximesn 11 et ses allusions impertinentes au roi défunt et à la religionn 12. Ses talents de poète mondain triomphent dans les salons et les châteaux. Il devient l’intime des Villars, qui le reçoivent dans leur château de Vaux, et l’amant de Madame de Bernières, épouse du président à mortier du parlement de Rouen.
Après l’échec d’une deuxième tragédie, il connaît un nouveau succès en 1723 avec La Henriade, poème épique de 4 300 alexandrins se référant aux modèles classiques (Iliade d'Homère, Énéide de Virgile) dont le sujet est le siège de Paris par Henri IV et qui trace le portrait d’un souverain idéal, ennemi de tous les fanatismes : vendu à 4 000 exemplaires
en quelques semaines, ce poème connaîtra soixante éditions successives
du vivant de son auteur. Pour ses contemporains admiratifs, Voltaire va
être longtemps l'auteur de La Henriade, le « Virgile français »,
le premier à avoir écrit une épopée nationale, mais celle-ci n'est pas
passée à la postérité et a été repoussée dans l'oubli par le romantisme au XIXe sièclen 13.
En janvier 1726, il subit une humiliation qui va le marquer toute sa vie8. Le chevalier de Guy-Auguste de Rohan-Chabot, jeune gentilhomme arrogant, appartenant à l'une des plus illustres familles du royaume, l’apostrophe à la Comédie-Française : « Monsieur de Voltaire, Monsieur Arouet, comment vous appelez-vous ? » Voltaire réplique alors : « Voltaire ! Je commence mon nom et vous finissez le vôtre ».
Quelques jours plus tard, on le fait appeler alors qu’il dîne chez son
ami le duc de Sully. Dans la rue, il est frappé à coups de gourdin par
les laquais du chevalier, qui surveille l’opération de son carrosse.
Blessé et humilié, Voltaire veut obtenir réparation, mais aucun de ses
amis aristocrates ne prend son parti. Le duc de Sully refuse ainsi de
l’accompagner chez le commissaire de police pour appuyer sa plainte. Il
n’est pas question d’inquiéter un Rohan pour avoir fait rouer de coups
un écrivain : « Nous serions bien malheureux si les poètes n’avaient pas d’épaules », dit un parent de Caumartin9. Le prince de Conti écrit sur l'incident que les coups de bâtons « ont été bien reçus mais mal donnés ».
Voltaire veut venger son honneur par les armes, mais son ardeur à
vouloir se faire justice lui-même indispose tout le monde. Les Rohan
obtiennent que l’on procède à l’arrestation de Voltaire, qui est conduit
à la Bastille le 17 avril. Il n’est libéré, deux semaines plus tard, qu’à la condition qu’il s’exile.
En Angleterre, « terre de Liberté » (1726-1728)
Écrites en partie en Angleterre, les Lettres philosophiques sont « la première bombe lancée contre l’Ancien Régime » (Gustave Lanson). Elles vont faire à Paris en 1734 un énorme scandale et condamner leur auteur à l’exil.
Voltaire a 32 ans. Cette expérience va le
marquer d’une empreinte indélébile. Il est profondément impressionné
par l'esprit de liberté de la société anglaise (ce qui ne l'empêche pas
d'apercevoir les ombres du tableau, surtout vers la fin de son séjour).
Alors qu’en France règnent les lettres de cachet, la loi d’Habeas corpus de 1679 (nul ne peut demeurer détenu sinon par décision d’un juge) et la Déclaration des droits
de 1689 protègent les citoyens anglais contre le pouvoir du roi.
L'Angleterre, cette « nation de philosophes », rend justice aux vraies
grandeurs qui sont celles de l'esprit. Présent en 1727 aux obsèques
solennelles de Newton à Westminster Abbey, il fait la comparaison : à supposer que Descartes soit mort à Paris, on ne lui aurait certainement pas accordé d'être enseveli à Saint-Denis,
auprès des sépultures royales. La réussite matérielle du peuple
d’Angleterre suscite aussi son admiration. Il fait le lien avec le
retard de la France dans le domaine économique et l’archaïsme de ses
institutions. Il estime que, là où croît l’intensité des échanges
marchands et intellectuels, grandit en proportion l’aspiration des
peuples à plus de liberté et de tolérance.
Il ne lui faut que peu de temps pour acquérir une excellente maitrise de l’anglais. En novembre 1726,
il s’installe à Londres. Il rencontre des écrivains, des philosophes,
des savants (physiciens, mathématiciens, naturalistes) et s’initie à des
domaines de connaissance qu’il ignorait jusqu’ici. Son séjour en
Angleterre lui donne l'occasion de découvrir Newton
dont il n'aura de cesse de faire connaître l'œuvre. Ainsi s’esquisse la
mutation de l’homme de lettres en « philosophe », qui le conduit à
s’investir dans des genres jusqu’alors considérés comme peu
prestigieux : l’histoire, l’essai politique et plus tard le roman. C’est
en Angleterre qu’il commence à rédiger en anglais l’ouvrage où il
expose ses observations sur l’Angleterre, qu’il fera paraître en 1733 à
Londres sous le titre Letters Concerning the English Nation et dont la version française n’est autre que les Lettres philosophiques.
Il se rapproche de la cour de Georges Ier puis de Georges II et prépare une édition de la Henriade en souscription accompagnée de deux essais en anglais qui remporte un grand succès (343 souscripteurs)
et renfloue ses finances. Une souscription analogue ouverte en France
par son ami Thériot n’en rassemble que 80 et fera l’objet de nombreuses
saisies de la police.
Retour d'Angleterre, loterie et mise sur orbite (1728-1733)
À l’automne 1728,
il est autorisé à rentrer en France pourvu qu’il se tienne éloigné de
la capitale. L’affaire Rohan remonte à plus de trois ans. Voltaire
procède précautionneusement, séjournant plusieurs mois à Dieppe où il se fait passer pour un anglais. Il obtient en avril l’autorisation de venir à Paris, mais Versailles lui reste interdit.
Voltaire veut être riche pour être un écrivain indépendant. À son
retour d’Angleterre, il n’a que quelques économies qu’il s’emploie
activement à faire fructifier. Il gagne un capital important (avec
d’autres et sur une idée du mathématicien La Condamine) en participant à une loterie d’État mal conçue10. Puis, il part à Nancy spéculer sur des actions émises par le duc François III de Lorraine, opération dans laquelle il aurait « triplé son or11 ». Il reçoit aussi en mars 1730 sa part de l’héritage paternel. Ces fonds vont être judicieusement placés12
dans le commerce, « les affaires de Barbarie », vente des blés
d’Afrique du Nord vers l’Espagne et l’Italie où elle est plus lucrative
qu’à Marseille et les « transactions de Cadix », échange de produits des colonies françaises contre l’or et l’argent du Pérou et du Mexique. En 1734, il confie ses capitaux aux frères Pâris
dans leur entreprise de fournitures aux armées. Enfin, à partir de
1736, Voltaire va surtout prêter de l’argent à des grands personnages et
des princes européens, prêts transformés en rentes viagères selon une
pratique courante de l'époque (à lui d'actionner ses débiteurs,
désinvoltes mais ayant du répondant, pour obtenir le paiement de ses
rentes). « J’ai vu tant de gens de lettres pauvres et méprisés que j’ai conclu dès longtemps que je ne devais pas en augmenter le nombre. » Programme réalisé à son retour d’Angleterre.
En 1730, un incident, dont il se souviendra à l’heure de sa mort, le bouleverse et le scandalise. Il est auprès d’Adrienne Lecouvreur,
une actrice qui a joué dans ses pièces et avec laquelle il a eu une
liaison, lorsqu’elle meurt. Le prêtre de la paroisse de Saint-Sulpice
refuse la sépulture (la France est alors le seul pays catholique où les
comédiens sont frappés d’excommunication).
Le cadavre doit être placé dans un fiacre jusqu’à un terrain vague à la
limite de la ville où elle est enterrée sans aucun monument pour
marquer sa tombe. Quelques mois plus tard meurt à Londres une
comédienne, Mrs Oldfield, enterrée à Westminster Abbey. Là encore,
Voltaire fait la comparaison.
Voltaire fait sa rentrée littéraire à Paris par le théâtre (mais il
travaille selon son habitude à plusieurs œuvres à la fois). Sans
beaucoup de succès avec Brutus, La mort de César et Eriphyle. Mais Zaïre en 1732 remporte un triomphe comparable à celui d’Œdipe et est joué dans toute l’Europe (la 488e représentation a eu lieu en 1936).
La mise sur orbite avec les Lettres philosophiques ou Lettres
anglaises, publiées en 1734 apparaît le premier grand travail des
Lumières.
Vingt-cinq lettres abordent des sujets assez variés : la religion,
les sciences, les arts, la politique ou la philosophie (de Pascal
notamment).
L'ouvrage est destiné à un peuple plus ou moins cultivé, capable de lire mais nécessitant une éducation certaine.
Ce sont des lettres ouvertes, destinées à être lues par un plus grand nombre grâce à leur parution sous forme d’un livre.
Le quadra (1733-1749) : ma femme Émilie
Émilie du Châtelet (1706-1749) à sa table de travail tenant un compas sur un cahier ouvert (portrait de Quentin de La Tour)
Voltaire à 41 ans.
« Il est maigre, d’un tempérament sec. Il a la bile brulée, le visage
décharné, l’air spirituel et caustique, les yeux étincelants et malins.
Vif jusqu’à l’étourderie, c’est un ardent qui va et vient, qui vous
éblouit et qui pétille13. »
Depuis des mois, sa santé délabrée fait que Voltaire vit sans maîtresse. En 1733, il devient l’amant de Mme du Châtelet. Émilie du Châtelet a 27 ans, 12 de moins que Voltaire. Fille de son ancien protecteur, le baron de Breteuil,
elle décide pendant seize ans de l’orientation de sa vie, dans une
situation quasi conjugale (son mari, un militaire appelé à parcourir
l’Europe à la tête de son régiment, n’exige pas d’elle la fidélité, à
condition que les apparences soient sauves, une règle que Voltaire « ami
de la famille » sait respecter). Ils ont un enthousiasme commun pour
l’étude et sous l’influence de son amie, Voltaire va se passionner pour
les sciences. Il « apprend d’elle à penser14 »
dit-il. Elle joue un rôle essentiel dans la métamorphose de l’homme de
lettres en « philosophe ». Elle lui apprend la diplomatie, freine son
ardeur désordonnée. Ils vont connaître dix années de bonheur et de vie
commune. La passion se refroidit ensuite. Les infidélités sont
réciproques (la nièce de Voltaire, Mme Denis, devient sa maitresse fin 1745, secret bien gardé de son vivant ; Mme du Châtelet s’éprend passionnément de Saint-Lambert
en 1748), mais ils ne se sépareront pas pour autant, l’entente entre
les deux esprits demeurant la plus forte. À sa mort, en 1749, elle ne
sera jamais remplacée. Mme Denis, que Voltaire aimera tendrement, va régner sur son ménage (ce dont ne se souciait pas Mme du Châtelet), mais elle ne sera jamais la confidente et la conseillère de ses travaux.
Émilie est une véritable femme de sciences. L’étendue de ses
connaissances en mathématiques et en physique en fait une exception dans
le siècle. C’est aussi une femme du monde qui mène une vie mondaine
assez frénétique en dehors de ses études. Elle aime l’amour (elle a déjà
eu plusieurs amants, dont le duc de Richelieu ; elle devient en 1734 la maîtresse de son professeur de mathématiques, Maupertuis,
que lui a présenté Voltaire) et le jeu, où elle perd beaucoup d’argent.
Elle cherche un homme à sa mesure pour asseoir sa réussite
intellectuelle : Voltaire est un écrivain de tout premier plan, de
réputation européenne, avide de réussite lui aussi.
1734 est l’année de la publication clandestine des Lettres philosophiques, le « manifeste des Lumières15 », grand reportage intellectuel et polémique sur la modernité anglaise, publié dans toute l’Europe à 20 000 exemplaires, selon l’estimation de René Pomeau16,
chiffre particulièrement élevé à l’époque. L’éloge de la liberté et de
la tolérance anglaise est perçu à Paris comme une attaque contre le
gouvernement et la religion. Le livre est condamné par le Parlement à
majorité janséniste et brulé au bas du grand escalier du Palais. Une lettre de cachet est lancée contre Voltaire qui s’enfuit à Cirey, le château champenois que possèdent les Châtelet. Un an plus tard, après une lettre de désaveu où il « proteste de sa soumission entière à la religion de ses pères », il sera autorisé à revenir à Paris si nécessaire, mais la lettre de cachet ne sera pas révoquée.
Pendant les dix années suivantes passées pour l’essentiel à Cirey,
Voltaire va jouer un double jeu : rassurer ses adversaires pour éviter
la Bastille,
tout en continuant son œuvre philosophique pour gagner les hésitants.
Tous les moyens sont bons : publications clandestines désavouées,
manuscrits dont on fait savoir qu’il s’agit de fantaisies privées non
destinées à la publication et qu’on lit aux amis et visiteurs qui en
répandent les passages les plus féroces (exemple La Pucelle qui ridiculise Jeanne d’Arc).
Son engagement est inséparable d’un combat antireligieux. L’intolérance
religieuse, qu’il rend responsable de retard en matière de
civilisation, est pour lui l’un des archaïsmes dont il voudrait purger
la France.
Voltaire restaure Cirey grâce à son argent. Les journées sont
studieuses : discussions, lectures et travaux en communs, travaux
personnels, portant sur la science et la religion. Voltaire fait des
expériences scientifiques dans le laboratoire d’Émilie pour le concours
de l’Académie des sciences. Aidé par Émilie du Châtelet, il est l'un des premiers à vulgariser en France les idées de Newton sur la gravitation universelle en publiant l'Épitre sur Newton (1736) et les Éléments de la philosophie de Newton (1738). Il commence La Pucelle (pour s’amuser dit-il) et Le Siècle de Louis XIV (pour convaincre son amie qui n’aime pas l’histoire), prépare L’Essai sur les mœurs, histoire générale de l’Occident chrétien où il dénombre les horreurs engendrées par le fanatisme. Toujours du théâtre avec Alzire (qui fait « perdre la respiration » au jeune Rousseau) et Mérope qui est un grand succès. Un poème, où il fait l’apologie du luxe (« Le superflu, chose très nécessaire »), Le Mondain, et évoque la vie d’Adam17, scandalise à Paris les milieux jansénistes. Prévenu, il s’enfuit en Hollande par crainte des représailles. En 1742, sa pièce Mahomet est applaudie à Paris. Mais les mêmes milieux accusent Voltaire de taxer d’imposture, à travers l’Islam, le Christianisme
lui-même. Ils obtiennent du pouvoir royal plutôt réticent
l’interdiction de fait de la pièce, que Voltaire, toujours sous le coup
de la lettre de cachet de 1734, doit retirer après la 3e représentation. Elle ne sera reprise qu’en 1751. Voltaire apparaît de plus en plus comme un adversaire de la religion.
En 1736, Voltaire reçoit la première lettre du futur roi de Prusse. Commence alors une correspondance qui durera jusqu’à la mort de Voltaire (interrompue en 1754, après l’avanie de Francfort, elle reprendra en 1757). « Continuez, Monsieur, à éclairer le monde. Le flambeau de la vérité ne pouvait être confié à de meilleures mains18 », lui écrit Frédéric qui veut l’attacher à sa cour par tous les moyens. Voltaire lui rend plusieurs fois visite, mais refuse de s’installer à Berlin du vivant de Mme du Châtelet qui se méfie du roi-philosophe.
Pour cette raison peut-être, Madame du Châtelet pousse Voltaire à chercher un retour en grâce auprès de Louis XV.
De son côté, Voltaire ne conçoit d’avenir pour ses idées sans l’accord
du roi. En 1744, il est aidé par la conjoncture : le nouveau ministre
des Affaires étrangères est d’Argenson, son ancien condisciple de Louis-le-Grand et surtout il a le soutien de la nouvelle favorite Mme de Pompadour,
qui l’admire. Son amitié avec le roi de Prusse est un atout. Il se rêve
en artisan d’une alliance entre les deux rois et accepte une mission
diplomatique, qui échoue. Grâce à ses appuis, il obtient la place
d’historiographe de France, le titre de « gentilhomme ordinaire de la
chambre du roi » et les entrées de sa chambre. Dans le cadre de ses
fonctions, il compose un poème lyrique, La Bataille de Fontenoy et un opéra, avec Rameau, à la gloire du roi. Mais Louis XV ne l’aime pas et Voltaire ne sera jamais un courtisan.
De même, la conquête de l’Académie française
lui paraît « absolument nécessaire ». Il veut se protéger de ses
adversaires et y faire rentrer ses amis (à sa mort, elle sera
majoritairement voltairienne et aura à sa tête d'Alembert qui lui est tout dévoué). Après deux échecs et beaucoup d’hypocrisies (un éloge des Jésuites et le canular de la bénédiction papale19), il réussit à se faire élire le 2 mai 1746.
La même année, Zadig, un petit livre publié clandestinement à Amsterdam est désavoué par Voltaire : « Je
serais très fâché de passer pour l’auteur de Zadig qu’on ose accuser de
contenir des dogmes téméraires contre notre sainte religion20. » Outre ses aspects philosophiques, Zadig apparaît comme un bilan autocritique qu'établit Voltaire à 50 ans, estime Pierre Lepape21.
La gloire ne s'obtient qu'au prix du ridicule et de la honte du métier
de courtisan, le bonheur est saccagé par les persécutions qu'il faut
subir, l'amour est un échec, la science une manière de se cacher
l'absurdité de la vie. L'histoire de l'humanité est celle d'un
cheminement de la conscience malgré les obstacles : ignorance,
superstition, intolérance, injustice, déraison. Zadig est celui qui
lutte contre cette obscurité de la conscience : « Son principal talent était de démêler la vérité, que tous les hommes cherchent à s'obscurcir22. »
En septembre 1749, Mme du Châtelet, enceinte de Saint-Lambert, officier de la cour du roi Stanislas et poète, meurt dans les jours qui suivent son accouchement.
À la mort de Madame du Châtelet, avec laquelle il avait cru faire sa
vie jusqu’à la fin de ses jours malgré leurs querelles et infidélités
réciproques, Voltaire est désemparé et souffre de dépression (« la seule vraie souffrance de ma vie », dira-t-il). Il a 56 ans. Il ne reste que six mois à Paris. L’hostilité de Louis XV et l’échec de sa tragédie Oreste le poussent à accepter les invitations réitérées de Frédéric II.
La maturité avérée (1749-1768)
Bonjour et au revoir à Berlin (1749-1753)
Frédéric II en 1745.
« Je redouble d’envie de vous revoir, c’est-à-dire de parler de
littérature, et de m’instruire de choses que vous seul pouvez
m’apprendre (Lettre du 20 janvier 1750 à Voltaire) »
Les soupers dans la salle de marbre du château de Sans-Souci (on reconnaît Voltaire parmi les invités).
«Le roi avait de l’esprit et en faisait avoir », dit Voltaire.
Il part en juin 1750 pour la cour de Prusse. Le 27 juillet, il est à Berlin. C’est l’enchantement. Magnifiquement logé dans l’appartement du maréchal de Saxe,
il travaille deux heures par jour avec le roi qu’il aide à mettre au
point ses œuvres. Le soir, des soupers délicieux avec la petite cour
très francisée de Potsdam où il retrouve Maupertuis, président de l’Académie des sciences de Berlin, La Mettrie, d’Argens. Il a sa chambre23 au château de Sans-Souci et un appartement dans la ville au palais de la Résidence. En août, il reçoit la dignité de chambellan, avec l’ordre du Mérite.
Voltaire va passer plus de deux ans et demi en Prusse (il y termine Le Siècle de Louis XIV et écrit Micromégas).
Mais après l’euphorie des débuts, ses relations avec Frédéric se
détériorent, les brouilles se font plus fréquentes, parfois provoquées
par les imprudences de Voltaire (affaire Hirschel24).
Un pamphlet de Voltaire contre Maupertuis (ce dernier avait commis,
en tant que président de l’Académie des sciences, un abus de pouvoir
contre l’ancien précepteur de Mme du Châtelet, König, académicien lui aussi) provoque la rupture. Le pamphlet, La Diatribe du docteur Akakia,
est imprimé par Voltaire sans l’accord du roi et en utilisant une
permission accordée pour un autre ouvrage. Se sentant berné, furieux que
l’on attaque son Académie, Frédéric fait saisir les exemplaires qui
sont brûlés sur la place publique par le bourreau. Voltaire demande son
congé.
Il quitte la Prusse le 26 mars 1753 avec la permission du roi. Il ne
se dirige pas tout de suite vers la France, faisant des arrêts prolongés
à Leipzig, Gotha et Kassel où il est fêté, mais à Francfort, ville libre d’empire,
Frédéric le fait arrêter le 31 mai par son résident le baron von
Freytag, pour récupérer un livre de poésies écrit par lui et donné à
Voltaire, dont il craint que ce dernier ne fasse mauvais usage (Voltaire
en fait dans son récit de l’évènement25 « l’œuvre de poéshie du roi mon maitre »). Pendant plus d’un mois, Voltaire, en compagnie de Mme
Denis venue le rejoindre, est humilié, séquestré, menacé et rançonné
dans une série de scènes absurdes et ubuesques. Enfin libéré, il peut
quitter Francfort le 8 juillet.
Sexagénaire, et recherche d'un gîte à la frontière de la France (1753-1755)
Le Souper des philosophes (Huber). Voltaire lève la main pour imposer le silence. À sa gauche Diderot, puis le père Adam26, Condorcet, d'Alembert, l'abbé Maury et La Harpe. La scène se passe à Ferney en 1772. Elle est fictive, mais seul Diderot ne s'est jamais rendu à Ferney.
Jusqu'à la fin de l’année, il attend à Colmar27
la permission de revenir à Paris, mais le 27 janvier 1754,
l'interdiction d'approcher de la capitale lui est notifiée. Il se dirige
alors, par Lyon, vers Genève.
Il pense trouver un havre de liberté dans cette république calviniste
de notables et de banquiers cultivés parmi lesquels il compte de
nombreux admirateurs et partisans.
Grâce à son ami François Tronchin28, Voltaire achète sous un prête-nom (les catholiques ne peuvent pas être propriétaires à Genève) la belle maison des Délices et en loue une autre dans le canton de Vaud
pour passer la saison d'hiver. Les Délices annoncent Ferney. Voltaire
embellit la maison, y mène grand train, reçoit beaucoup (la visite du
grand homme, au cœur de la propagande voltairienne, devient à la mode),
donne en privé des pièces de théâtre (le théâtre est toujours interdit
dans la ville de Calvin). Très vite, les pasteurs genevois lui « conseillent » de ne rien publier contre la religion tant qu’il habite parmi eux.
Tremblement de terre et lancement d'un livre : Candide (1755-1759)
Il travaille aussi beaucoup : théâtre, préparation de Candide, sept volumes de l’Essai sur les mœurs29 tiré à 7000 exemplaires, Poème sur le désastre de Lisbonne30, révision des dix premiers volumes de ses Œuvres complètes chez Gabriel Cramer son nouvel éditeur31, qui a un réseau de correspondants européens permettant de diffuser les livres interdits32.
Voltaire collabore aussi à l’Encyclopédie de Diderot et d’Alembert (125 auteurs recensés). Ce grand dictionnaire vendu dans toute l’Europe33
(la souscription coûte une fortune) défend aussi la liberté de penser
et d’écrire, la séparation des pouvoirs et attaque la monarchie de droit
divin34. Voltaire rédige une trentaine d’articles35, mais il est en désaccord sur la tactique (« Je
voudrais bien savoir quel mal peut faire un livre qui coûte cent écus.
Jamais vingt volumes in-folio ne feront de révolution ; ce sont les
petits livres portatifs à trente sous qui sont à craindre36 »). Il voudrait imposer sa marque, faire de l’Encyclopédie
l’organe du combat antichrétien, l’imprimer hors de France, mais, s’il
possède en d’Alembert un allié de poids, il ne peut gagner Diderot à ses
vues.
Largement inspiré par Voltaire, l’article « Genève37» de d’Alembert paru dans le volume VII en 1757 fait scandale auprès du clergé genevois.
En France, après l’attentat de Damiens contre Louis XV, une offensive antiphilosophique se déclenche : après le livre d’Helvétius, De l’Esprit, interdit en août 1758, l’Encyclopédie est interdite à son tour le 8 mars 1759, par décret royal.
Pour mieux assurer son indépendance et échapper aux tracasseries des pasteurs de Genève, Voltaire achète le château de Ferney
(et celui de Tourney qui forme avec le précédent un vaste ensemble d’un
seul tenant) et s’y installe en octobre 1758. Ferney est dans le Pays de Gex, en territoire français, mais loin de Versailles et à quatre kilomètres de la république genevoise où il peut trouver refuge et où se situe son éditeur Cramer et bon nombre de ses partisans dans les milieux dirigeants.
Le Vignoble de la vérité (1759-1763)
Le château de Ferney. « Je ne connais d'autre liberté que celle de
ne dépendre de personne ; c'est celle où je suis parvenu après l'avoir
cherchée toute ma vie38 »
Ferney est la période la plus active de la vie de Voltaire. Il va y
résider vingt ans jusqu’à son retour à Paris. C’est à Ferney qu’il va
acquérir une nouvelle stature, celle d’un champion de la justice et de
l’humanité et livrer ses grandes batailles. Il a 64 ans, un âge au XVIIIe siècle où la vie approche de son terme.
Voltaire est devenu riche et en est fier : « Je suis né assez pauvre, j’ai fait toute ma vie un métier de gueux, de barbouilleur de papier, celui de Jean-Jacques Rousseau, et cependant me voilà avec deux châteaux, 70 000 livres de rente et 200 000 livres d’argent comptant39 »,
écrit-il à son banquier en 1761. Sa fortune lui permet de reconstruire
le château, d’en embellir les abords, d’y construire un théâtre, de
faire de son vivant du village misérable de Ferney une petite ville
prospère40
et aussi de tenir table et porte ouvertes, jusqu’à ce que l’afflux de
visiteurs et la fatigue l’obligent à restreindre l’accueil.
C’est la nièce et compagne de Voltaire, Madame Denis,
qui reçoit comme maitresse de maison. Lui ne se montre qu’aux repas, se
réservant d’apparaître à l’improviste si cela lui convient, car il se
ménage de longues heures de travail (« J’ai quelquefois 50 personnes à table. Je les laisse avec Mme Denis qui fait les honneurs, et je m’enferme41. »).
Ses visiteurs, qui l’attendent impatiemment, sont en général frappés
par le charme de sa conversation, la vivacité de son regard, sa
maigreur, son accoutrement (habituellement Voltaire ne « s’habille »
pas). Il aime conduire ses hôtes dans son jardin et leur faire admirer
le paysage. Les grandes heures sont celles du théâtre (« Rien n'anime plus la société, rien ne donne plus de grâce au corps et à l'esprit, rien ne forme plus le goût. », dit-il). Installé à côté du château, il peut contenir 300 personnes. Voltaire et Mme Denis y jouent eux-mêmes leurs rôles préférés.
Lutte contre l'injustice : Calas, Sirven et La Barre (1761-1765)
À partir de l'affaire Calas, le mot d'ordre « Écrasez l'Infâme » apparaît sous sa plume.
Le 22 mars 1761, Voltaire est informé que, par ordre du parlement de Toulouse, un vieux commerçant protestant, nommé Calas,
vient d’être roué, puis étranglé et brulé. Il aurait assassiné son
fils, qui voulait se convertir au catholicisme. Voltaire apprend bientôt
qu’en réalité Calas a été condamné sans preuves. Des témoignages le
persuadent de son innocence. Convaincu qu’il s’agit d’une tragédie de
l’intolérance, que les juges ont été influencés par le fanatisme
ambiant, il entreprend la réhabilitation du supplicié et l’acquittement
des autres Calas qui restent inculpés. Pendant trois ans (1762-1765), il
mène une intense campagne : écrits, lettres, mettent en mouvement tout
ce qui a de l'influence en France et en Europe. C'est à partir de
l'affaire Calas que le mot d'ordre « Écrasez l'Infâme » (chez Voltaire, la superstition, le fanatisme et l'intolérance), abrégé à l'usage en Ecr.linf., apparaît dans sa correspondance à la fin de ses lettres. Il élève le débat par un Traité sur la tolérance (1763). Une sentence d’un parlement n’étant pas susceptible d’appel, le seul recours est le Conseil du royaume,
présidé par le roi. Seul Voltaire a assez de prestige pour saisir une
telle instance. De Ferney, n’ayant que son écritoire et son papier, il
parvient à faire casser l’arrêt du Parlement et à faire indemniser la
famille. « Par lui – par lui seul – le procès
Calas deviendra l’affaire Calas, une de ces affaires qui marquent la
conscience des hommes. », écrit René Pomeau.
Il réussit de même à faire réhabiliter Sirven, un autre protestant condamné par contumace
le 20 mars 1764 à être pendu, avec sa femme, pour le meurtre de leur
fille que l’on savait folle et qu’on trouva noyée dans un puits. On
accusait son père et sa mère de l’avoir assassinée pour l’empêcher de se
convertir. Les deux parents vont solliciter Voltaire qui obtient leur
acquittement après un long procès.
L’affaire La Barre surpasse en horreur celles de Calas et de Sirven. À Abbeville,
le 9 août 1765, on découvre en pleine ville, sur le Pont-Neuf, un
crucifix de bois mutilé. Une enquête est ouverte. Les soupçons se
portent sur un groupe de jeunes gens qui se sont fait remarquer en ne se
découvrant pas devant la procession du Saint-Sacrement, en chantant des chansons obscènes et en affectant de lire le Dictionnaire philosophique
de Voltaire. Deux s’enfuient. Le chevalier de La Barre, âgé de 19 ans,
est condamné à avoir la langue coupée, puis à être décapité et brulé. Le
Parlement de Paris confirme la sentence. L’exécution a lieu le 1er juillet 1766. Le Dictionnaire philosophique
est brulé en même temps que le corps et la tête du condamné. Voltaire
rédige l’exposé détaillé de l’affaire, fait ressortir le scandale,
provoque un revirement de l’opinion. Le juge d’Abbeville est révoqué,
les coïnculpés acquittés. « Ce sang innocent crie, et moi je crierai aussi ; et je crierai jusqu’à ma mort. » écrit Voltaire à d’Argental.
Son engagement pour combattre l'injustice va durer jusqu'à sa mort (réhabilitation posthume de Lally-Tollendal, affaires Morangiés, Monbailli, serfs du Mont-Jura). « Il faut dans cette vie combattre jusqu’au dernier moment42 », déclare-t-il en 1775.
D comme Dictionnaire (portatif…), D comme Danger (1764-1768)
Le lever de Voltaire de Jean Huber (vers 1768-1772)
Voltaire enfile sa culotte en dictant une lettre.
À Ferney, Voltaire va s’affirmer comme le champion de la « philosophie », cette pensée des Lumières
portée par de très nombreux individus – mais dispersés et constamment
engagés entre eux en d’âpres discussions. Sa production imprimée pendant
ces années va être considérable. « J’écris pour agir43 » affirme-t-il. Il veut gagner ses lecteurs à la cause des Lumières. Il choisit pour sa propagande des œuvres « utiles et courtes44 ». Contrairement à L’Encyclopédie
avec ses gros volumes facilement bloqués chez l’éditeur, il privilégie
les brochures de quelques pages qui se dissimulent aisément, échappent
aux perquisitions de la douane et de la police et se vendent pour
quelques sous.
À Paris, il peut compter sur une équipe de fidèles, en premier lieu d’Alembert, futur secrétaire de l'Académie française,
dont les relations mondaines et littéraires lui sont de précieux
atouts, et qui n’hésite pas à le mettre en garde ou à corriger ses
erreurs, mais aussi Grimm, Mme d’Épinay, Helvétius, Marmontel, Mme du Deffand, et aussi sur des appuis politiques comme Richelieu ou Choiseul (qui ne sont ni philosophes, ni libéraux, mais à qui Voltaire plaît).
Quand il s’installe à Ferney, la diffusion clandestine de Candide, son chef-d’œuvre, a commencé. « Jamais Voltaire n’a aussi bien exprimé le monde tel que le voit son humeur : vision désolée et gaie, décapante mais tonique. » écrit René Pomeau, qui calcule qu’il a dû se vendre en 1759 environ 20 000 Candide, chiffre énorme à l’époque où L’Encyclopédie même ne dépasse pas 4 000 exemplaires45.
En France, le pouvoir et les milieux conservateurs ont lancé une campagne contre les idées nouvelles : interdiction de L’Encyclopédie, discours de Le Franc de Pompignan à l’Académie, comédie de Palissot contre les philosophes au Théâtre-Français, attaques de Fréron,
grand journaliste et polémiste redoutable. De Ferney, Voltaire organise
la contre-offensive : articles, brochures, petits vers (l’épigramme
contre Fréron est restée célèbre : L’autre jour au fond d’un vallon, /Un serpent piqua Jean Fréron ;/Que croyez-vous qu’il arriva ?/Ce fut le serpent qui creva.), comédies, pièces, tout est bon pour faire taire les ennemis des philosophes.
En 1764, le Dictionnaire philosophique portatif,
bilan de la réflexion philosophique de Voltaire, en même temps qu’outil
pédagogique destiné au public cultivé, se répand, toujours
clandestinement, en Europe. Considéré comme impie, il est condamné en
France par le Parlement le 19 mars 1765 (Louis XV, après avoir pris connaissance du livre aurait demandé : « Est-ce qu’on ne peut pas faire taire cet homme-là ? »), mais aussi à Genève et à Berne
où il est brûlé. Manifeste des Lumières (Voltaire en donne quatre
nouvelles éditions de 1764 à 1769 chaque fois enrichies d’articles
nouveaux), le Dictionnaire est composé de textes brefs et vifs, rangés dans l’ordre alphabétique. « Ce livre n’exige pas une lecture suivie », écrit Voltaire en tête de volume, « mais, à quelque endroit qu’on l’ouvre, on trouve de quoi réfléchir. »
Derniers feux (1768-1778): du jardin au cimetière
Le déiste toujours en lutte (1768-1769)
« J’ai été pendant 14 ans l’aubergiste de l’Europe46 », écrit-il à Madame du Deffand. Ferney se trouve sur l’axe de communication de l’Europe du Nord vers l’Italie, itinéraire du Grand Tour de l’aristocratie européenne au XVIIIe siècle.
Les visiteurs affluent pour le voir et l’entendre. Les plus nombreux
sont les Anglais qui savent que le philosophe aime l’Angleterre (trois
ou quatre cents affirme Voltaire), mais il y a aussi des Français, des
Allemands, des Italiens, des Russes. Leurs témoignages permettent de
connaître la vie quotidienne à Ferney.
À Ferney, l’artiste genevois Jean Huber,
devenu un familier de la maison, a fait d’innombrables croquis et
aquarelles de Voltaire, à la fois comique et familier, dans l’ordinaire
de sa vie quotidienne. En 1768, l'impératrice Catherine II lui commande un cycle de peintures voltairiennes dont neuf toiles sont conservées au musée de l’Ermitage.
Les capitaux que Voltaire investit tirent Ferney de la misère. Dès
son arrivée, il améliore la production agricole, draine les marécages,
plante des arbres, achète une nouveauté dont il est fier, la charrue à
semoir et donne l’exemple en labourant lui-même chaque année un de ses
champs. Il fait construire des maisons pour accueillir de nouveaux
habitants, développe des activités économiques, soieries, horlogerie
surtout. « Un repaire de 40 sauvages est devenu une petite ville opulente habitée par 1 200 personnes utiles », peut-il écrire en 1777.
À la fin des années 1990, l'État français a acheté le château de
Ferney-Voltaire qui est administré par le Centre des monuments
nationaux. En cours de restauration, il est ouvert aux visiteurs.
Dans l'expectative (1769-1773)
Bien avant la mort de Louis XV, Voltaire souhaite revenir à Paris après une absence de près de 28 ans.
Le combat de la dernière ligne droite (1773-1776)
Depuis le début de février 1773, Voltaire souffre d'un cancer de la
prostate (diagnostic rétrospectif établi de nos jours grâce au rapport
de l’autopsie pratiquée le lendemain de son décès47).
La dysurie est majeure, les clochers fébriles fréquents ainsi que les
pertes de connaissance. Les jambes gonflées font parler d'hydropisie
(affection dont son probable père biologique serait mort en 1719). Le 8
mai, il informe d'Alembert : « Je vois la mort au bout de mon nez ».
Les mictions sont difficiles. L'été 1773, des forces reviennent, mais
la crise de rétention aiguë d'urines de février 1773, le reprend en mars
1774. En mai 1774, il perd sa plus jeune nièce de tuberculose,
Élisabeth, marquise de Florian (ex Mme de Fontaine, née Mignot). Suit, moins triste pour Voltaire, la mort de Louis XV de petite vérole le 10 mai 1774.
Le dernier acte (1776-1778)
Les nouvelles autorités font comprendre à ses amis qu’on fermerait
les yeux s’il se rendait aux répétitions de sa dernière tragédie. Après
beaucoup d’hésitations, il se décide en février 1778 à l’occasion de la
création d'Irène à la Comédie-Française. Il arrive le 10 février et s’installe dans un bel appartement de l’hôtel du marquis de Villette (qui a épousé en 1777 sa fille adoptive, Mlle de Varicourt surnommée « Belle et Bonne ») au coin de la rue de Beaune et du quai des Théatins (aujourd’hui quai Voltaire).
Dès le lendemain de son arrivée, Voltaire a la surprise de voir des
dizaines de visiteurs envahir la demeure du marquis de Villette qui va
devenir pendant tout son séjour le lieu de rendez-vous du Tout-Paris
« philosophe ».
Le 30 mars 1778 est le jour de son triomphe à l’Académie, à la Comédie-Française
et dans les rues de Paris. Sur son parcours, une foule énorme l’entoure
et l’applaudit. L’Académie en corps vient l’accueillir dans la première
salle. Il assiste à la séance, assis à la place du directeur. À la
sortie, la même foule immense l’attend et suit le carrosse. On monte sur
la voiture, on veut le voir, le toucher. À la Comédie-Française,
l’enthousiasme redouble. Le public est venu pour l’auteur, non pour la
pièce. La représentation d’Irène est constamment interrompue par
des cris. À la fin, on lui apporte une couronne de laurier dans sa loge
et son buste est placé sur un piédestal au milieu de la scène. À la
sortie, il est retenu longtemps à la porte par la foule qui réclame des
flambeaux pour mieux le voir. On s’exclame : « Vive le défenseur des
Callas ! ».
Voltaire peut mesurer ce soir-là l’indéniable portée de son action,
même si la cour, le clergé et l’opinion antiphilosophique lui restent
hostiles et se déchaînent contre lui et ses amis philosophes, ennemis de
la religion, des « bonnes » mœurs et de la monarchie.
Comme une chandelle (mars-mai 1778)
« Je meurs en adorant Dieu, en aimant mes amis, en ne haïssant pas mes ennemis, et en détestant la superstition ».
Voltaire a 83 ans. Atteint d’un mal qui progresse insidieusement pour
entrer dans sa phase finale le 10 mai 1778, les mois qui lui restaient à
vivre ont été pour lui, nous l'avons vu, à la fois ceux de l’apothéose
et du martyre. Voltaire maintenant n'a plus que 6 semaines à vivre. Mais
il se comporte comme s'il était indestructible. Il ne se sent pas bien,
même si son état de santé et son humeur changent d’un jour à l’autre.
Il envisage son retour à Ferney pour Pâques,
mais il se sent si bien à Paris qu'il pense sérieusement à s'y fixer.
Madame Denis, ravie, part à la recherche d'une maison. Il veut se
prémunir contre un refus de sépulture48. Dès le 2 mars, il fait venir un obscur prêtre de la paroisse de Saint-Sulpice, l’abbé Gaultier, à qui il remet une confession de foi minimale49(qui sera rendue publique dès le 11 mars) en échange de son absolution.
Le 28 mars, il écrit à son secrétaire Wagnière les deux lignes célèbres : « Je meurs en adorant Dieu, en aimant mes amis, en ne haïssant pas mes ennemis, et en détestant la superstition. »
À partir du 10 mai 1778, malgré l'assistance du docteur Théodore Tronchin,
ses souffrances deviennent intolérables. Pour calmer ses douleurs, il
prend de fortes doses d’opium qui le font sombrer dans une somnolence
entrecoupée de phases de délire. Mais une fois passée l’action de
l’opium, le mal se réveille pire que jamais50.
La conversion de Voltaire, au sommet de sa gloire, aurait constitué
une grande victoire de l’Église sur la « secte philosophique ». Le curé
de Saint-Sulpice et l’archevêque de Paris, désavouant l’abbé Gaultier,
font savoir que le mourant doit signer une rétractation franche s’il
veut obtenir une inhumation en terre chrétienne. Mais Voltaire refuse de
se renier. Des tractations commencent entre la famille et les autorités
soucieuses d’éviter un scandale. Un arrangement est trouvé. Dès la mort
de Voltaire on le transportera « comme malade » à Ferney. S’il décède
pendant le voyage, son corps sera conduit à destination.
Plaque commémorative, sise au 27, quai Voltaire, rappelant la mort de Voltaire en ce lieu.
Voltaire meurt le 30 mai dans l'hôtel de son ami le marquis de Villette, « dans de grandes douleurs, excepté les quatre derniers jours, où il a fini comme une chandelle », écrit Mme
Denis. Le 31 mai, selon sa volonté, M. Try, chirurgien, assisté d’un M.
Burard, procède à l'autopsie. Le corps est ensuite embaumé par M.
Mitouart, l'apothicaire
voisin qui obtient de garder le cerveau, le cœur revenant à Villèle
(voir en Informations complémentaires l'histoire de ces deux organes).
Le neveu de Voltaire, l’abbé Mignot, ne veut pas courir le risque
d’un transport à Ferney. Il a l’idée de l’enterrer provisoirement dans
la petite abbaye de Sellières près de Troyes, dont il est abbé commendataire.
Le 31 mai, le corps de Voltaire embaumé est installé assis, tout
habillé et bien ficelé, avec un serviteur, dans un carrosse qui arrive à
Scellières le lendemain après-midi. Grâce au billet de confession signé
de l’abbé Gaultier, il est inhumé religieusement dans un caveau de
l’église avant que l’évêque de Troyes, averti par l’archevêque de ParisChristophe de Beaumont, n’ait eu le temps d’ordonner au prieur de Scellières de surseoir à l’enterrement.
Le Panthéon
Après la mort de Voltaire, Mme Denis, légataire universelle, vend Ferney à Villette (la bibliothèque, acquise par Catherine II, est convoyée jusqu’à Saint-Pétersbourg par Wagnière).
Villette, s’apercevant que le domaine est lourdement déficitaire, le
revend en 1785. Le transfert de la sépulture à Ferney devient
impossible. L’abbé Mignot veut commander un mausolée pour orner la dalle
anonyme sous laquelle repose Voltaire, mais les autorités s’y opposent.
En 1789, l’Assemblée constituante vote la nationalisation des biens du clergé. L'abbaye de Sellières
va être mise en vente. Il faut trouver une solution. Villette fait
campagne pour le transfert à Paris des restes du grand homme (il a déjà
débaptisé de sa propre autorité le quai des Théatins en y apposant une
plaque : « Quai Voltaire »). C’est lui qui lance le nom de Panthéon et désigne le lieu, la basilique de Sainte-Geneviève.
Le 30 mai 1791, jour anniversaire de sa mort, l’Assemblée, malgré de
fortes oppositions (les membres du clergé constituent le quart des
députés) décide le transfert. Le 4 avril, après la mort de Mirabeau survenue le 2, l’Assemblée décrète que « le nouvel édifice de Sainte-Geneviève sera destiné à recevoir les cendres des grands hommes ».
Mirabeau est le premier « panthéonisé ». Voltaire le suit le 11
juillet. Comme le corps de Mirabeau fut retiré de ce monument des suites
de la découverte de l'armoire de fer, Voltaire est devenu le plus ancien hôte du Panthéon.
Le cortège comprend des formations militaires, puis des délégations d’enfants. Derrière une statue de Voltaire d’après Houdon, portée par des élèves des beaux-arts costumés à l’antique, viennent les académiciens et gens de lettres, accompagnés des 70 volumes de l’édition de Kehl, offerts par Beaumarchais. Sur le sarcophage se lit une inscription : « Il vengea Calas, La Barre, Sirven et Monbailli51. Poète, philosophe, historien, il a fait prendre un grand essor à l’esprit humain, et nous a préparés à être libres. »
Voltaire assis par Houdon.
L'original en marbre orne le foyer de la Comédie-Française. Mme Denis, qui n’avait pas souhaité garder le Voltaire nu de Pigalle,
commanda la statue à Houdon et en fit don à la Comédie-Française.
L'œuvre a été reproduite en terre cuite, en plâtre et bronze dans
différents formats.
La production littéraire de Voltaire est immense. Elle englobe le
théâtre, l’histoire, la philosophie, la poésie, les textes polémiques
publiés à propos de tout et à jet continu, les contes, et une
prodigieuse correspondance. De son vivant, ses Œuvres complètes comptent déjà 40 volumes in-8° (édition de Genève de 1775). Après sa mort, l’édition de Kehl (1783-1790) de Beaumarchais
incluant la correspondance (mais de nombreux détenteurs de lettres ont
refusé de les communiquer) comprend 70 volumes in-8°. L’édition en cours
de publication à Oxford en comptera près de 200.
Exilé à Ferney, Voltaire correspond avec tout ce qui compte en Europe. L’abondance de sa correspondance (de l’ordre de 23 000 lettres retrouvées, 13 tomes dans la bibliothèque de la Pléiade) rend nécessaire la publication de lettres choisies.
Citons, entre autres, la correspondance suivie avec Madame du Deffand, âgée et aveugle, sceptique désabusée et lucide qui réunit dans son salon tout le grand monde parisien (« avec Voltaire, dans la prose, le classique le plus pur de cette époque53 » selon Sainte-Beuve). « Le pessimisme de Mme du Deffand est tellement absolu », écrit Benedetta Craveri54, « qu’il
oblige son correspondant à se prononcer sur le destin de l’homme, avec
une précision qu’on ne retrouve pas dans le reste de son œuvre ». « C’est
dans ses lettres qu’il faut chercher l’expression la plus intime de la
philosophie de Voltaire ; sa manière d’accepter la vie et d’affronter la
mort, ses idées métaphysiques et son scepticisme, ses luttes
passionnées au nom de l’humanité et ses accès de résignation mystiques55. »
Le théâtre de Voltaire, qui a fait sa gloire et passionné ses
contemporains, est aujourd’hui largement oublié. Voltaire a cependant
été le plus grand auteur dramatique du XVIIIe siècle et a régné sur la scène de la Comédie-Française de 1718 à sa mort. Il a écrit une cinquantaine de tragédies qui, selon l’estimation de René Pomeau56, ont été applaudies, rarement sifflées, par environ deux millions de spectateurs.
La versification, pratiquée dès l’enfance, était devenue pour
Voltaire un mode d’écrire naturel. Sa production poétique a été évaluée à
250 000 vers57. Il n’avait pas son pareil pour manier l’alexandrin. Longtemps il sera pour ses contemporains l’auteur de la La Henriade que Beaumarchais place au même niveau que l’Iliade et qui connaitra encore 67 éditions entre 1789 et 1830 avant d’être rejetée dans l’oubli par le Romantisme. Cette œuvre versifiée (La Pucelle d’Orléans, Le Mondain, le Poème sur le désastre de Lisbonne)
est moins lisible pour nous aujourd’hui, mais il existe, en particulier
à travers ses épitres, un Voltaire poète de la gaîté et du sourire, à
la verve inventive, inspiré souvent par l’esprit satirique.
L’œuvre historique
Elle ne survit (Le Siècle de Louis XIV, Histoire de Charles XII, Histoire de l’empire de Russie sous Pierre le Grand),
comme celle de Michelet, que parce qu’elle est l’œuvre d’un écrivain,
même si sa perspective de l’histoire « philosophique » (Essai sur les mœurs et l'esprit des nations), consistant à suivre les efforts des hommes en société pour sortir de l’état primitif, reste valable.
L’œuvre scientifique
Elle est périmée même si Voltaire fut l’un des pionniers du newtonisme avec ses Éléments de la philosophie de Newton (1738).
La morale de Voltaire
Voltaire nu par Pigalle.
En 1770, dans le salon de Mme Necker, une souscription58 est ouverte pour ériger une statue au grand homme. Pigalle
choisit de le représenter en nu héroïque, à l'antique, sans masquer la
vérité anatomique d’un corps marqué par l’âge, en magnifiant par
contraste la tête pleine d’espérance. L’œuvre, défendue par Diderot, va susciter de nombreuses critiques59.
Le libéralisme
Dans la pensée du philosophe anglais John Locke,
Voltaire trouve une doctrine qui s’adapte parfaitement à son idéal
positif et utilitaire. John Locke apparaît comme le défenseur du libéralisme en affirmant que le pacte social ne supprime pas les droits naturels des individus. En outre, c’est l’expérience seule qui nous instruit ; tout ce qui la dépasse n’est qu’hypothèse ;
le champ du certain coïncide avec celui de l’utile et du vérifiable.
Voltaire tire de cette doctrine la ligne directrice de sa morale : la tâche de l’homme est de prendre en main sa destinée, d’améliorer sa condition, d’assurer, d’embellir sa vie par la science, l’industrie, les arts et par une bonne « police » des sociétés. Ainsi, la vie en commun ne serait pas possible sans une convention où chacun trouve son compte. Bien que s’exprimant par des lois particulières à chaque pays, la justice, qui assure cette convention, est universelle. Tous les hommes sont capables d’en concevoir l’idée, d’abord parce que tous sont des êtres plus ou moins raisonnables, ensuite parce qu’ils sont tous capables de comprendre que ce qui est utile à la société est utile à chacun. La vertu, « commerce de bienfaits, leur est dictée à la fois par le sentiment et par l’intérêt.
Le rôle de la morale, selon Voltaire, est de nous enseigner les
principes de cette « police » et de nous accoutumer à les respecter.
Cependant, la conception oligarchique et hiérarchisée de la société
de Voltaire ne nous permet pas de le situer clairement parmi les
philosophes du libéralisme démocratique : il affirme également dans Essai sur les mœurs et l’esprit des Nations
que « L’esprit d’une nation réside toujours dans le petit nombre qui
fait travailler le grand, est nourri par lui, et le gouverne »60.
L’univers m’embarrasse, et je ne puis songer Que cette horloge existe et n’ait point d’horloger.
Ainsi, selon Voltaire, l’ordre de l’univers peut-il nous amener à constater l'existence d'un « éternel géomètre ». C'est pour lui une évidence rationnelle : un effet ne peut exister sans qu'il y ait aussi une cause préalable, de même que la lumière naturelle ne peut exister sans tirer son origine du soleil
– ou qu'une bougie ne peut être allumée sans qu'un « athée » ait
auparavant décidé d'enflammer sa mèche ; ce que Voltaire nomme « Dieu »,
c'est la Cause ultime, absolue qui ordonne éternellement et présentement tous les desseins cosmiques : le soleil est ainsi « fait pour éclairer notre portion d'univers »61.
« Une cause sans effet
est une chimère, une absurdité, aussi bien qu'un effet sans cause. Il y
a donc éternellement, et il y aura toujours des effets de cette cause
universelle. Ces effets ne peuvent venir de rien ; ils sont donc des
émanations éternelles de cette cause éternelle. La matière de l'univers appartient donc à Dieu tout autant que les idées,
et les idées tout autant que la matière. Dire que quelque chose est
hors de lui, ce serait dire qu'il y a quelque chose hors de l'infini.
Dieu étant le principe universel de toutes les choses, toutes existent
en lui et par lui.(...) On ne fait point Dieu l'universalité des
choses : nous disons que l'universalité des choses émane de lui ; et
pour nous servir (...) de l'indigne comparaison du soleil et de ses rayons, nous disons qu'un trait de lumière lancé du globe du soleil, et absorbé dans le plus infect des cloaques, ne peut laisser aucune souillure dans cet astre. Ce cloaque n'empêche pas que le soleil ne vivifie toute la nature dans notre globe.(...) Nous pourrions dire encore qu'un trait de lumière, pénétrant dans la fange,
ne se mêle point avec elle, et qu'elle y conserve son essence
invisible ; mais il vaut mieux avouer que la lumière la plus pure ne
peut représenter Dieu. La lumière émane du soleil, et tout émane de
Dieu. Nous ne savons pas comment ; mais nous pouvons (...) concevoir
Dieu comme l'Être nécessaire de qui tout émane. [Note : « nécessaire » signifie philosophiquement : « qui ne peut pas ne pas être – ni être autrement »]. »
Mais, au-delà, il ne voit qu'incertitudes : « J'ai contemplé le divin ouvrage, et je n'ai point vu l'ouvrier ; j'ai interrogé la nature, elle est demeurée muette62. » Il conclut: « Il m'est impossible de nier l'existence de ce Dieu », ajoutant qu'il est « impossible de le connaître ». Il rejette toute incarnation, « tous ces prétendus fils de Dieu ». Ce sont « « des contes de sorciers ». « Un
Dieu se joindre à la nature humaine ! J'aimerais autant dire que les
éléphants ont fait l'amour à des puces, et en ont eu de la race : ce
serait bien moins impertinent63. »
S’il reste attaché au déisme, qui correspond à un théisme philosophique, il dénonce comme dérisoire le providentialisme (dans Candide par exemple) et repose cette question formulée dès saint Augustin
dont la réponse est inaccessible à la logique humaine parfaitement
limitée : « Pourquoi existe-t-il tant de mal, tout étant formé par un Dieu que tous les théistes se sont accordés à nommer bon ? » Voltaire n'apporte à ce sujet que cette précision :
« La terre
est couverte de crimes (...) ; cela empêche-t-il qu'il y ait une cause
universelle ? (...) Il y a une suite infinie de vérités, et l'Être
infini peut seul comprendre cette suite. (...) Demander pourquoi il y a
du mal sur terre, c'est demander pourquoi nous ne vivons pas autant que
les chênes. (...) Le grand Être est fort ; mais les émanations sont nécessairement faibles. Servons-nous (...) de la comparaison du soleil. Ses rayons réunis fondent les métaux ; mais quand vous réunissez ceux qu'il a dardés sur le disque de la lune, ils n'excitent pas la plus légère chaleur. Nous sommes aussi nécessairement bornés que le grand Être est nécessairement immense. »
— Voltaire, Tout en Dieu, commentaire sur Malebranche.
Enfin, pour Voltaire, la croyance en un Dieu est utile sur le plan moral et social. Il est l'auteur du célèbre alexandrin :
On lui attribue aussi cette phrase : « Nous pouvons, si vous le désirez, parler de l’existence de Dieu,
mais comme je n’ai pas envie d’être volé ni égorgé dans mon sommeil,
souffrez que je donne au préalable congé à mes domestiques. »65.
L'humanisme
Dès La Henriade en 1723, toute l’œuvre de Voltaire est un combat contre le fanatisme et l’intolérance : « On entend aujourd’hui par fanatisme une folie religieuse, sombre et cruelle. C’est une maladie qui se gagne comme la petite vérole. »Dictionnaire philosophique, 1764, article « Fanatisme ».
Il a en tout cas lutté contre le fanatisme, celui de l’Église catholique romaine comme celui du protestantisme, symboles à ses yeux d’intolérance et d’injustice. Tracts, pamphlets, tout fut bon pour mobiliser l’opinion publique européenne. Il a aussi misé sur le rire pour susciter l’indignation : l’humour,
l’ironie deviennent des armes contre la folie meurtrière qui rend les
hommes malheureux. Les ennemis de Voltaire avaient d’ailleurs tout à
craindre de son persiflage, mais parfois les idées nouvelles aussi.
Quand en 1755, il reçoit le Discours sur l’origine et les fondements de l’inégalité parmi les hommes de Jean-Jacques Rousseau, Voltaire, qui désapprouve l’ouvrage, répond en une lettre aussi habile qu’ironique :
« J’ai reçu, monsieur, votre nouveau livre contre le genre humain, je vous en remercie. […] On n’a jamais employé tant d’esprit
à vouloir nous rendre bêtes ; il prend envie de marcher à quatre pattes
quand on lit votre ouvrage. Cependant, comme il y a plus de soixante
ans que j’en ai perdu l’habitude, je sens malheureusement qu’il m’est
impossible de la reprendre et je laisse cette allure naturelle à ceux
qui en sont plus dignes que vous et moi. […] » (Lettre à Rousseau, )
Le « patriarche de Ferney » représente éminemment l’humanisme militant du XVIIIe siècle. Selon Sainte-Beuve, « […] tant qu’un souffle de vie l’anima, il eut en lui ce que j’appelle le bon démon : l’indignation et l’ardeur. Apôtre de la raison jusqu’au bout, on peut dire que Voltaire est mort en combattant. »
Sa correspondance compte plus de 23 000 lettres connues ainsi qu'un gigantesque Dictionnaire philosophique qui reprend les axes principaux de son œuvre, une trentaine de contes philosophiques et des articles publiés dans l’Encyclopédie de Diderot et d’Alembert. Cependant, son théâtre, qui l’avait propulsé au premier rang de la scène littéraire (Mérope, Zaïre et d’autres), ainsi que sa poésie (La Henriade, considérée comme la seule épopée française au XVIIIe siècle) sont oubliés.
Voltaire à 83 ans. Houdon
a su capter l’âge et la souffrance, la malice et la vitalité de
l’écrivain dans ce buste réalisé quelques semaines avant sa mort.
L’attachement de Voltaire à la liberté d’expression serait illustré par la très célèbre citation qu’on lui attribue :
« Je ne suis pas d’accord avec ce que vous dites, mais je me battrai jusqu’à la mort pour que vous ayez le droit de le dire. »
Certains commentateurs (Norbert Guterman, A Book of French Quotations,
1963), prétendent que cette citation est extraite d’une lettre du 6
février 1770 à un abbé Le Riche où Voltaire écrirait : « Monsieur
l’abbé, je déteste ce que vous écrivez, mais je donnerai ma vie pour que
vous puissiez continuer à écrire. » En fait, cette lettre existe, mais
la phrase n’y figure pas, ni même l’idée. (Voir le texte complet de
cette lettre à l’article Tolérance.) Le Traité de la tolérance auquel est parfois rattachée la citation ne la contient pas non plus.
De fait, la citation est absolument apocryphe
(elle n’apparaît nulle part dans son œuvre publiée) et trouve sa source
en 1906, non dans une citation erronée, mais dans un commentaire de
l’auteure britannique Evelyn Hall, dans son ouvrage The Friends of Voltaire66,
où, pensant résumer la posture de Voltaire à propos de l’auteur d’un
ouvrage publié en 1758 condamné par les autorités religieuses et
civiles, elle écrivait « “I disapprove of what you say, but I will defend to the death your right to say it” was his attitude now » (« “Je
ne suis pas d’accord avec ce que vous dites, mais je défendrai jusqu’à
la mort votre droit de le dire” était désormais son attitude »).
Les guillemets maladroitement utilisé par Evelyn Hall ont été
interprétés comme permettant d’attribuer la déclaration à Voltaire. En
1935, elle déclara « I
did not intend to imply that Voltaire used these words verbatim, and
should be much surprised if they are found in any of his works » (« Je
n’ai pas eu l’intention de suggérer que Voltaire avait utilisé
exactement ces mots, et serais extrêmement surprise s'ils se trouvaient
dans ses œuvres »)67,68.
L’affaire à propos de laquelle Evelyn Hall écrivait concernait la publication par Helvétius en 1758 de De l’Esprit, livre condamné par les autorités civiles et religieuses et brulé. Voici ce que Voltaire écrivait dans l’article « Homme » des Questions sur l’Encyclopédie :
« J’aimais l’auteur du livre De l’Esprit.
Cet homme valait mieux que tous ses ennemis ensemble ; mais je n’ai
jamais approuvé ni les erreurs de son livre, ni les vérités triviales
qu’il débite avec emphase. J’ai pris son parti hautement, quand des
hommes absurdes l’ont condamné pour ces vérités mêmes. »
Autre passage pertinent : « En général, il est
de droit naturel de se servir de sa plume comme de sa langue, à ses
périls, risques et fortune. Je connais beaucoup de livres qui ont
ennuyé, je n’en connais point qui aient fait de mal réel. […] Mais
paraît-il parmi vous quelque livre nouveau dont les idées choquent un
peu les vôtres (supposé que vous ayez des idées), ou dont l’auteur soit
d’un parti contraire à votre faction, ou, qui pis est, dont l’auteur ne
soit d’aucun parti : alors vous criez au feu ; c’est un bruit, un
scandale, un vacarme universel dans votre petit coin de terre. Voilà un
homme abominable, qui a imprimé que si nous n’avions point de mains,
nous ne pourrions faire des bas ni des souliers [Helvétius, De l’Esprit, I,
1] : quel blasphème ! Les dévotes crient, les docteurs fourrés
s’assemblent, les alarmes se multiplient de collège en collège, de
maison en maison ; des corps entiers sont en mouvement et pourquoi ?
Pour cinq ou six pages dont il n’est plus question au bout de trois
mois. Un livre vous déplaît-il, réfutez-le ; vous ennuie-t-il, ne le
lisez pas. » Voltaire, Questions sur l’Encyclopédie, article « Liberté d’imprimer ».
La laïcité
Voltaire, à l'âge de 70 ans.
Même s'il n'utilise pas le mot « laïcité »
en tant que tel, Voltaire est, néanmoins, non seulement par ses écrits
mais aussi par ses démarches visant à rétablir une justice impartiale
dénuée d'intérêt communautaire, un des instigateurs d'un civisme équidistant envers toutes les attitudes religieuses et opinions métaphysiques (athéisme compris), civisme qui allait de pair avec son combat pour la liberté d'expression.
A l'époque de Voltaire, en France,
critiquer la religion, spécialement le christianisme, reste encore un
exercice risqué, car la séparation entre l'Eglise et de l'Etat n'existe
pas – et que l'Église demeure très puissante. Face à l'idéalisme aveugle et fanatique, Voltaire oppose la figure de l'homme laïc, nommé « Citoyen »,
vu comme l'ami de tous et du bien public, policé et ne manquant jamais
d'humour pour faire valoir le droit commun à s'entre-tolérer au sein
d'un État qui défend la culture philosophique et poétique – tout en refusant de promouvoir telle ou telle profession de foi :
« Je suis citoyen et par conséquent l'ami de tous ces messieurs [de
différentes confessions]. Je ne disputerai avec aucun d'eux ; je
souhaite seulement qu'ils soient tous unis dans le dessein de s'aider
mutuellement, de s'aimer et de se rendre heureux les uns les autres,
autant que des hommes d'opinions si diverses peuvent s'aimer, et autant
qu'ils peuvent contribuer à leur bonheur ; ce qui est aussi difficile
que nécessaire. Pour cet effet, je leur conseille d'abord de jeter dans
le feu (...) la Gazette ecclésiastique, et tous autres libelles qui ne sont que l'aliment de la guerre civile des sots. Ensuite chacun de nos frères, soit théiste, soit turc, soit païen, soit chrétien grec, ou chrétien latin, ou anglican, ou scandinave, soit juif, soit athée, lira attentivement quelques pages des Offices de Cicéron, ou de Montaigne, et quelques fables de La Fontaine. Cette lecture dispose insensiblement les hommes à la concorde (...). On ne vendra ni circoncision, ni baptême, ni sépulture, ni la permission de courir dans le kaaba autour de la pierre noire, ni l'agrément de s'endurcir les genoux devant la Notre-Dame de Lorette, qui est plus noire encore. Dans toutes les disputes qui surviendront, il est interdit de se traiter de chien, quelque colère qu'on soit ; à moins qu'on ne traite d'hommes les chiens, quand ils nous emporteront notre dîner et qu'ils nous morderont, etc., etc., etc. »
— Voltaire, Il faut prendre un parti, XXV Discours d'un Citoyen.
Voltaire est par conséquent convaincu que les hommes (non parce que
formant un groupe homogène, mais parce que liés entre eux par le civisme)
peuvent s'allier un minimum pour œuvrer ensemble à la constitution
d'une société équilibrée et équitable, même s'ils sont différents, de
tous les bords culturels ; Voltaire conçoit donc une morale « civique »
ou éthique « citoyenne », universelle et respectant la Liberté.
Au doute de Blaise Pascal considérant, dans ses Pensées, qu'il est impossible que les hommes puissent se respecter entre eux hors de la sphère du christianisme (« Le port règle ceux qui sont dans un vaisseau ; mais où trouverons-nous ce point dans la morale ? »), Voltaire répond très simplement : « Dans cette seule maxime reçue de toutes les nations : « Ne faites pas à autrui ce que vous ne voudriez pas qu’on vous fît. » » (Vingt-cinquième lettre sur les Pensées de M. Pascal, XLII)
Théiste, Voltaire n'en condamne pas moins fermement – toujours dans le cadre de sa philosophie
laïque – les idéalismes dogmatiques dévalorisant (pour le profit d'une
quelconque abstraction ou « Dieu » illusoire) les existences, la vie, la nature et les relations sociales et familiales :
« Pensées de Blaise Pascal :
« S’il y a un Dieu, il ne faut aimer que lui, et non les créatures. »
[Réponse de Voltaire :] Il faut aimer, et très tendrement, les
créatures ; il faut aimer sa patrie, sa femme, son père, ses enfants ; et il faut si bien les aimer que Dieu nous les fait aimer malgré nous. Les principes contraires ne sont propres qu’à faire de barbares raisonneurs. »
— Voltaire, Vingt-cinquième lettre sur les Pensées de M. Pascal, X.
Le végétarisme
Peinture de Jean Huber : Voltaire narrant une fable.
Voltaire refusait de voir les êtres humains comme supérieurs, de par leur essence, aux autres espèces animales ; cela correspond à son rejet des religions abrahamiques (où l'animal est le plus souvent considéré comme inférieur à l'homme) et de la doctrine des « animaux-machines » du Discours de la méthode de René Descartes – qu'il déteste, et considère comme étant la « vaine excuse de la barbarie69 » permettant de dédouaner l'homme de tout sentiment de compassion face à la détresse animale70.
Voltaire commence à s'intéresser avec constance au végétarisme, et à sa défense, vers 1761-1762 environ70 ; diverses lectures sont en lien avec cette affirmation « pythagoricienne » de la part du philosophe (le terme de « végétarisme » n'existait pas à l'époque) : le testament de Jean Meslier, l’Émile de Jean-Jacques Rousseau, le Traité de Porphyre, touchant l'abstinence de la chair des animaux71, ainsi que de nombreux ouvrages sur l'hindouisme (œuvres brahmaniques qui commencent à être traduites en français et étudiées dans les milieux intellectuels européens)70.
Dans ses lettres72,
Voltaire déclare qu'il « ne mange plus de viande » « ni poisson », se
définissant encore plus « pythagoricien » que Philippe de
Sainte-Aldegonde, un végétarien qu'il reçut à Ferney, à côté de Genève.
Chez Voltaire, le végétarisme n'est jamais justifié selon une logique liée à la santé,
mais toujours pour des raisons éthiques : le végétarisme est une
« doctrine humaine » et une « admirable loi par laquelle il est défendu
de manger les animaux nos semblables »73. Prenant comme exemple Isaac Newton,
la compassion pour les animaux se révèle pour lui une solide base pour
une « vraie charité » envers les hommes, et Voltaire affirme qu'on ne
mérite « guère le nom de philosophe » si on ne possède point cette « humanité, vertu qui comprend toutes les vertus »74.
Dans Le Dialogue du chapon et de la poularde, Voltaire fait
dire aux animaux que les hommes qui les mangent sont des « monstres »,
« monstres » humains qui, d'ailleurs, s'entretuent cruellement, aussi ;
le chapon y fait l'éloge de l'Inde où « les hommes ont une loi sainte qui depuis des milliers de siècles leur défend de nous manger » ainsi que des philosophes antiques européens :
« Les plus grands philosophes de l'Antiquité
ne nous mettaient jamais à la broche. Ils tâchaient d'apprendre notre
langage, et de découvrir nos propriétés si supérieures à celle de
l'espèce humaine. Nous étions en sûreté comme à l'âge d'or. Les sages ne tuent point les animaux, dit Porphyre ; il n'y a que les barbares et les prêtres qui les tuent et les mangent. »
Dans La Princesse de Babylone, Voltaire fait dire à un oiseau que les animaux ont « une âme », tout comme les hommes. Et dans le Traité sur la tolérance
(note du chapitre XII), Voltaire rappelle que la consommation de chair
animale et de traiter les animaux comme de stricts objets ne sont point
des pratiques universelles et qu'« il y a une contradiction manifeste à convenir que Dieu
a donné aux bêtes tous les organes du sentiment, et à soutenir qu'il ne
leur a point donné de sentiment. Il me paraît encore qu'il faut n'avoir
jamais observé les animaux pour ne pas distinguer chez eux les
différentes voix du besoin, de la souffrance, de la joie, de la crainte,
de l'amour, de la colère, et de toutes les affections. »
Dans l’Article « Viande » du Dictionnaire philosophique, Voltaire montre que Porphyre regardait « les
animaux comme nos frères, parce qu'ils sont animés comme nous, qu'ils
ont les mêmes principes de vie, qu'ils ont ainsi que nous des idées, du
sentiment, de la mémoire, de l'industrie. » Le végétarisme de Voltaire s'affirme donc comme une posture philosophique opposée à toute attitude anthropocentrique. Le philosophe ne croit pas que l'humanité soit le centre de la création ou le sommet de la chaîne alimentaire – et que les animaux soient en-dessous des nations humaines et comme uniquement « prédestinés » à servir de nourriture aux hommes : « Les moutons n'ont pas sans doute été faits absolument pour être cuits et mangés, puisque plusieurs nations s'abstiennent de cette horreur »75.
Dans La Philosophie de l'histoire (chapitre XVII, « de l'Inde »), Voltaire défend la doctrine de la réincarnation des âmes (« métempsychose ») qui prévaut chez les Indiens (ou « Hindous »), dans les terres « vers le Gange »,
et qui est selon lui un « système de philosophie qui tient aux mœurs »
inspirant « une horreur pour le meurtre et pour toute violence ». Cette
considération voltairienne se retrouve aussi dans Les Lettres d'Amabed (« Seconde lettre d'Amabed à Shastadid »), où un jeune hindou de Bénarès, élève d'un missionnaire chrétien jésuite qui veut l'évangéliser et lui faire abjurer la foi de ses ancêtres, se désole de voir les Européens, colonisant l'Inde et commettant « des cruautés épouvantables pour du poivre », tuer des petits poulets.
Cette posture morale végétarienne est pour Voltaire une occasion de
relativiser les certitudes occidentales issues du christianisme, par une
universalisation des références niant tout ethnocentrisme et tout anthropocentrisme. C'est aussi une occasion de louer les « Païens » et leur philosophie antique (grecque ou indienne)
et de se moquer ouvertement du clergé chrétien et des institutions
ecclésiastiques – convaincus de leur exemplarité –, qui font grand cas
de détails dogmatiques infimes concernant les croyances à reconnaître ou
à condamner (rappel de la haine entre Catholiques, Juifs et Protestants), mais qui refusent d'éduquer les masses à la clémence envers les animaux, sont incapables de promouvoir le végétarisme :
« Je ne vois aucun moraliste parmi nous, aucun de nos loquaces prédicateurs, aucun même de nos tartufes,
qui ait fait la moindre réflexion sur cette habitude affreuse [« se
nourrir continuellement de cadavres » selon Voltaire]. Il faut remonter
jusqu'au pieux Porphyre, et aux compatissants pythagoriciens pour trouver quelqu'un qui nous fasse honte de notre sanglante gloutonnerie, ou bien il faut voyager chez les brahmanes ; car, (...) ni parmi les moines, ni dans le concile de Trente, ni dans nos assemblées du clergé, ni dans nos académies, on ne s'est encore avisé de donner le nom de mal à cette boucherie universelle. »
— Voltaire, Il faut prendre un parti (Du mal, et en premier lieu de la destruction des bêtes).
À propos de
Voltaire et Rousseau
Je suis tombé par terre,
C'est la faute à Voltaire,
Le nez dans le ruisseau,
C'est la faute à Rousseau76.
« Le public a toujours pris plaisir à faire
aller de pair ces deux hommes à jamais célèbres. Tous les deux, avec de
si grands moyens, se sont proposé le même but, le bonheur du genre
humain77 », écrit dès 1818 Bernardin de Saint-Pierre, l’ami de Rousseau, dans son Parallèle de Voltaire et de J.-J. Rousseau, premier d’une suite innombrable.
Tout oppose les deux grandes figures des Lumières que la Révolution
française a installé l’un à côté de l’autre au Panthéon, Voltaire en
1791, Rousseau en 1794.
Voltaire est un fils de bourgeois parisien, sujet d’une monarchie
absolue. Il reçoit une éducation classique dans le meilleur collège de
la capitale. Son esprit se forme dans la fréquentation de la société du
Temple et de la cour de Sceaux. Il aime l’argent, le luxe, le monde, le
théâtre. Il fréquente les princes et les rois. Persuadé que la liberté
d’esprit est inséparable de l’aisance matérielle, il devient riche et
mène à Ferney une vie de seigneur. Il se pense en chef de parti, en
responsable du clan philosophique. Son objectif est de faire pénétrer
peu à peu les Lumières au sommet de l’État. C’est un écrivain engagé. Il
est pessimiste mais d’humeur gaie. Déiste, il hait la religion
chrétienne. Extraverti, il a horreur de l'introspection et parle peu de
lui dans ses Mémoires78. Esprit précis et positif, son arme est l’ironie et c’est à l’esprit qu’il s’adresse.
Rousseau est un fils d’horloger genevois, citoyen d’une république.
Il est autodidacte et campagnard. Il aime la vie simple, le travail
humble, la solitude, la nature. S’il bénéficie, comme beaucoup de gens
de lettres, de la protection des grands (prince de Conti, maréchal de
Luxembourg), il ne veut pas des bienfaits dont la société est prête à
l’accabler. Il reste pauvre, persuadé qu’il se met moralement du bon
côté et gagne son pain en copiant de la musique. Chez lui, tout est
adhésion individuelle à une doctrine élaborée par un individu unique. Ce
n’est pas un écrivain engagé. Il est foncièrement optimiste mais
d’humeur ombrageuse. Protestant de Genève, il reste toujours chrétien
par le cœur, sinon par le dogme et la conduite. Égotiste, il se livre
intimement dans ses Confessions. Il a l’âme poétique, rêveuse, aisément émue. Son arme, c’est l’éloquence, et c’est au sentiment qu’il parle.
Les deux hommes ont entretenu longtemps des relations courtoises avant leur rupture en 1760.
Rousseau, qui admire Voltaire, lui envoie en 1755 son Discours sur l’inégalité qui fait suite à son Discours sur les sciences et les arts de 1750. Il lui rend « l’hommage que nous vous devons tous comme à notre chef79 ».
La critique de la civilisation, la dénonciation du « luxe », de
l’inégalité sociale et de la propriété, l’exaltation du primitivisme de
Rousseau ne peuvent que rencontrer l’incompréhension de Voltaire. Mais
Rousseau participe au combat philosophique, c’est un ami de Diderot et d’Alembert, un collaborateur de l’Encyclopédie. Voltaire lui répond ironiquement : « J’ai
reçu, Monsieur, votre nouveau livre contre le genre humain, je vous en
remercie (…) On n’a jamais tant employé d’esprit à vouloir nous rendre
bêtes ; il prend envie de marcher à quatre pattes quand on lit votre
ouvrage. Cependant, comme il y a plus de soixante ans que j’en ai perdu
l’habitude, je sens malheureusement qu’il m’est impossible de la
reprendre80. » Rousseau répond sans acrimonie. Leur échange de lettres est publié dans le Mercure de 1755.
En 1756, lorsque Voltaire envoie à Rousseau son Poème sur le désastre de Lisbonne, l’incompréhension est cette fois du côté de ce dernier. Il répond : « Rassasié
de gloire et désabusé des vaines grandeurs, vous vivez libre au sein de
l’abondance : vous ne trouvez pourtant que mal sur terre ; et moi,
homme obscur, pauvre, tourmenté d’un mal sans remède, je médite avec
plaisir dans ma retraite et trouve que tout est bien. D’où viennent ces
contradictions apparentes ? Vous l’avez-vous-même expliqué : vous
jouissez, moi j’espère, et l’espérance adoucit tout81. » Voltaire ne répond pas sur le fond. Dans les Confessions, Rousseau dit que la véritable réponse lui fut donnée avec Candide (1759).
En 1758, à la suite de la parution de l’article de D'Alembert, « Genève », dans l’Encyclopédie, Rousseau publie sa Lettre à d’Alembert sur les spectacles. Il rompt à cette occasion avec Diderot,
l’ami de ses débuts et avec les Encyclopédistes. Visant Voltaire qui
milite pour faire autoriser la comédie à Genève (elle le sera en 1783),
il reprend la thèse de son premier Discours : le théâtre à Genève
favoriserait le luxe, accroîtrait l’inégalité, altérerait la liberté et
affaiblirait le civisme. Pour Voltaire, nier la valeur morale et
humaine du théâtre, c’est nier l’évidence. Mais il ne veut pas répondre.
« Moi », écrit-il à d’Alembert, « je
fais comme celui qui pour toute réponse à des arguments contre le
mouvement se mit à marcher. Jean-Jacques démontre qu’un théâtre ne peut
convenir à Genève, et moi j’en bâtis un (Il s’agit de l’ouverture d’une salle de spectacle dans son château de Tourney en 1760)82. »
L’affrontement est cependant resté courtois jusqu’à la véritable déclaration de guerre (publiée plus tard dans les Confessions, livre X) que Rousseau adresse à Voltaire le 17 juin 1760 : « Je
ne vous aime point, Monsieur ; vous m’avez fait tous les maux qui
pouvaient m’être les plus sensibles, à moi, votre disciple et votre
enthousiaste. Vous avez perdu Genève, pour le prix de l’asile que vous y
avez reçu ; vous avez aliéné de moi mes concitoyens pour le prix des
applaudissements que je vous ai prodigués parmi eux ; c’est vous qui me
rendez le séjour de mon pays insupportable ; c’est vous qui me ferez
mourir en terre étrangère (…) Je vous hais, enfin, puisque vous l’avez
voulu ; mais je vous hais en homme plus digne de vous aimer si vous
l’aviez voulu. De tous les sentiments dont mon cœur était pénétré pour
vous il n’y reste que l’admiration qu’on ne peut refuser à votre beau
génie, et l’amour de vos écrits. »
Cette fois, Voltaire est ulcéré : « Une
telle lettre de la part d’un homme avec qui je ne suis pas en commerce
me paraît merveilleusement folle, absurde et offensante. », écrit-il à Mme du Deffand, « Comment
un homme qui a fait des comédies peut-il me reprocher d’avoir fait des
spectacles chez moi en France ? Pourquoi me fait-il l’outrage de me dire
que Genève m’a donné un asile ? Je n’ai pas assurément besoin d’asile,
et j’en donne quelquefois (…) il imprime que je suis le plus adroit et
le plus violent de ses persécuteurs. Je ne crois pas qu’on puisse faire à
un homme injure plus atroce que de l’appeler persécuteur83. »
À la parution en 1761 du roman de Rousseau, La Nouvelle Héloise (l’un des grands succès d’édition du siècle), il se venge dans un pamphlet, trouvant « sot, bourgeois, impudent, ennuyeux » ce récit en six tomes qui ne contient que « trois à quatre pages de faits et environ mille de discours moraux84 ».
Les choses sérieuses commencent en 1762, lorsque, Rousseau décrété de
prise de corps après la publication de ses grands ouvrages, le Contrat social et l’Émile,
doit s’enfuir de France. À Genève, l’auteur est menacé d’arrestation
s’il vient dans la ville et ses livres sont brulés. Pour Rousseau,
malade, déprimé, ces persécutions sont le résultat, direct ou indirect,
de l’influence dont jouit Voltaire à Genève comme à Paris. Dans les Lettres sur la Montagne, il accuse Voltaire d'être l'auteur du Sermon des cinquante,
libelle anonyme profondément antichrétien paru en 1762, d’être complice
de ses persécuteurs, de préférer au raisonnement la plaisanterie, de
publier des ouvrages abominables et de ne pas croire en Dieu.
Voltaire répond par un libelle anonyme (Rousseau n’a jamais su qu’il en était l’auteur), le Sentiment des Citoyens où il suggère l'exécution de Rousseau, révélant que l’auteur de l’Émile a fait porter et déposer ses cinq enfants (qu’il a eus avec Thérèse Levasseur) aux Enfants-trouvés : « si on châtie légèrement un romancier impie, on punit capitalement un vil séditieux »85. Il tient Rousseau pour un « déguisé en saltimbanque »
misérable et estime justifiées les plus basses attaques (les problèmes
urinaires de Rousseau sont le fruit de ses « débauches »), au point de
perdre tout sens de la mesure (ainsi dans le poème burlesque La Guerre civile de Genève
où il s’acharne particulièrement contre Rousseau et sa compagne). Animé
par la rage, il le poursuit jusque dans son exil en Angleterre, faisant
paraître anonymement dans les journaux de Londres la Lettre au Docteur Jean-Jacques Pansophe (1760) pour le brouiller avec ses hôtes.
Désormais, Voltaire va mener contre Rousseau une campagne d’insultes et de railleries, même s’il écrit en 1767 : « Pour
moi, je ne le regarde pas comme un fou. Je le crois malheureux à
proportion de son orgueil : c’est-à-dire qu’il est l’homme du monde le
plus à plaindre86. »
Voltaire et les femmes
Voltaire à la résidence de Frédéric II à Potsdam, en Prusse. Détail d’une gravure de Pierre Charles Baquoy, d’après N. A. Monsiau.
La vie et l’œuvre de Voltaire dévoilent une place intéressante
accordée aux femmes. Plusieurs de ses pièces sont entièrement dédiées
aux vies exceptionnelles de femmes de pouvoir de civilisations
orientales. Cette vision des femmes au pouvoir peut éclairer
l’attachement de Voltaire à une femme savante comme Émilie du Châtelet.
En 1713, jeune secrétaire d’ambassade à La Haye,
Voltaire s’éprend d’Olympe Dunoyer (ou du Noyer), alias Pimpette. C'est
très vite le grand amour. La mère de cette jeune fille, une huguenote
française exilée en Hollande, haïssant la monarchie française, va porter
plainte à l'ambassadeur. Furieux, craignant un scandale, celui-ci
renvoie Voltaire en France87.
C’est largement grâce aux femmes que Voltaire se faufile dans la
haute société de la Régence. Louise Bénédicte de Bourbon, duchesse du
Maine réunissait dans son château de Sceaux une coterie littéraire qui
complotait contre le duc Philippe d’Orléans (1674-1723). On y poussa Voltaire à exercer sa verve railleuse contre le Régent, ce qui valut à l’auteur un début de notoriété, et onze mois de Bastille.
Les fréquentations féminines de Voltaire ne sont pas toutes de nature
littéraire : c’est surtout pour favoriser ses affaires qu’il séduit
l’épouse d’un président à mortier au parlement de Rouen, le marquis de
Bernières, qu’il associe à ses spéculations, et aux ruses coûteuses
déployées pour éditer La Henriade en dépit de la censure royale.
Grâce au succès de sa première tragédie Œdipe,
Voltaire fait la connaissance de la duchesse de Villars, dont il
s’éprend, mais sans que la réciproque soit vraie ; reste, là aussi,
l’introduction dans le cercle aristocratique éclairé gravitant autour de
Charles Louis Hector, maréchal de Villars, qui recevait en son château
de Vaux (Vaux-le-Vicomte). Quant à l’amour, Voltaire s’en dit « guéri », au profit de l’amitié, qu’il cultivera effectivement toute sa vie.
Voltaire a d’éphémères liaisons avec quelques actrices, notamment Suzanne de Livry et Adrienne Lecouvreur, mais de santé précaire, il s’est toujours préservé des excès, y compris amoureux. La relation avec Gabrielle Émilie Le Tonnelier de Breteuil, marquise du Châtelet-Lomont est en revanche plus sérieuse. La traductrice de Newton
est très douée pour les lettres autant que pour les sciences ou la
philosophie. Elle est mariée, mais le marquis du Châtelet est un éternel
absent, et Émilie, que tout passionne, tombe amoureuse sans mesure du
prestigieux poète, qui lui est présenté en 1733, et qu’elle aimera
jusqu’à sa mort, seize ans plus tard. Cirey (Cirey-sur-Blaise),
le château de famille des Châtelet abrite leurs amours ; Voltaire en
entreprend la restauration et l’agrandissement à ses frais.
Leur vie est quasi maritale, mais des plus mouvementée ; les échanges
intellectuels intenses : Voltaire qui, jusque-là s’était consacré au
« grand genre », la tragédie et le poème épique, opte résolument pour ce
qui fera la particularité de son œuvre : le combat politique et
philosophique contre l’intolérance. Une relation fusionnelle, donc,
autant que studieuse et féconde.
C’est par une tromperie philosophique que s’engagera la fin d’une
l’idylle de dix ans : la marquise renonce au matérialisme newtonien pour
lui préférer le déterminisme optimiste de Leibniz,
ce à quoi Voltaire ne saurait consentir. Moins sentimentale désormais,
l’alliance persiste malgré tout. La marquise sauve plusieurs fois
Voltaire des conséquences de ses insolences, et Voltaire éponge parfois
les colossales dettes de jeu d’Émilie.
La situation se complique singulièrement lorsque Mme du Châtelet s’éprend du marquis de Saint-Lambert (Jean-François de Saint-Lambert).
Émilie est enceinte, et Voltaire concocte un stratagème pour que le
mari de la marquise se croie le père de l’enfant. Émilie meurt peu après
l’accouchement, laissant Voltaire désespéré : il devait à Émilie du
Châtelet ses années les plus heureuses.
En 1745, Voltaire devient, à cinquante ans, l’amant de sa nièce (l’une des deux filles de sa sœur aînée) Marie-Louise Denis.
Voltaire a soigneusement dissimulé cette passion incestueuse et
« adultère » (il est toujours l’amant en titre de la très jalouse Mme du Châtelet). Mme Denis
n’est du reste pas des plus fidèles, et ne dédaigne pas de profiter de
la fortune (considérable) du poète. Le couple ne cohabite vraiment qu’à
la mort de Mme du Châtelet en 1749.
Sauf pendant l’épisode prussien, Voltaire et sa nièce ne se sépareront
plus. Marie-Louise Denis va régner sur le ménage de Voltaire jusqu'à sa
mort. Bourgeoise, elle sait conduire une maisonnée, ce dont ne se
souciait pas Mme du Châtelet. Mais elle ne sera jamais, comme elle, la confidente et la conseillère de ses travaux.
Mme d’Épinay a fait de Mme Denis un portrait caricatural lors de sa visite aux Délices en novembre 1757 : « La nièce de M. de
Voltaire est à mourir de rire, c’est une petite grosse femme, toute
ronde, d’environ cinquante ans, femme comme on ne l’est point, laide et
bonne, menteuse sans le vouloir et sans méchanceté ; n’ayant pas
d’esprit et en paraissant avoir ; criant, décidant, politiquant,
versifiant, déraisonnant, et tout cela sans trop de prétention et
surtout sans choquer personne, ayant par-dessus tout un petit vernis
d’amour masculin qui perce à travers la retenue qu’elle s’est imposée.
Elle adore son oncle, en tant qu’oncle et en tant qu’homme. Voltaire la
chérit, s’en moque, la révère : en un mot cette maison est le refuge de
l’assemblage des contraires et un spectacle charmant pour les
spectateurs »88. Mais le portrait qu'a laissé d'elle Van Loo
montre un visage bien dessiné, un regard agréable et une certaine
sensualité. « Prenez soin de maman… » aurait été l'une des dernières
paroles de Voltaire mourant89.
Voltaire et l'homosexualité
Dans le Dictionnaire Philosophique, Voltaire qualifie l'homosexualité (en fait : la pédérastie que l'on qualifiait à l'époque d’Amour Socratique)
d'« attentat infâme contre la nature » (encore faut-il lire la phrase
entière, « Comment s’est-il pu faire qu’un vice, destructeur du genre
humain s’il était général ; qu’un attentat infâme contre la nature, soit
pourtant si naturel ? »), d'« abomination dégoûtante », ou encore de
« turpitude ». Il écrit notamment:
« Sextus Empiricus & d’autres, ont beau dire que la pédérastie était recommandée par les loix de la Perse ;
qu’ils citent le texte de la loi, qu’ils montrent le Code des Persans ;
& s’ils le montrent, je ne le croirai pas encor, je dirai que la
chose n’est pas vraye, par la raison qu’elle est impossible ; non, il
n’est pas dans la nature humaine de faire une loi qui contredit, &
qui outrage la nature, une loi qui anéantirait le genre humain si elle
était observée à la lettre. »90
Voltaire refuse donc que l'homosexualité (ou plus précisément : la
« pédérastie ») soit une norme sociale « observée à la lettre » et
généralisée : on ne peut pas en faire une loi naturelle – puisqu'elle n'est pas universellement partagée entre les êtres humains – et que l'hétérosexualité est de toute évidence majoritaire et nécessaire au renouvellement de l'espèce.
Daniel Borrillo et Dominique Colas, dans leur ouvrage L’Homosexualité de Platon à Foucault, ont un jugement très critique envers les positions de Voltaire: « Voltaire aborde la question dans son dictionnaire philosophique sous le chapitre Amour nommé socratique
d’une manière si légère et si violente qu’il semble avoir été écrit par
un théologien du Moyen Âge plutôt que par un philosophe de la Raison. »91 Voltaire ne fait toutefois aucune référence à la Bible, à la différence de l'article "Sodomie" de l'Encyclopédie paru en 1765. Par ailleurs l'article du Dictionnaire philosophique a été très développé dans les Questions sur l'Encyclopédie (à partir de 1770).
Selon Roger-Pol Droit, « Pareil
acharnement est d'autant plus curieux qu'il est difficile de l'imputer
au climat de l'époque (…). La plupart des philosophes des Lumières sont
d'ailleurs plus que tolérants envers les partenaires de même sexe. Au
contraire, Voltaire n'a cessé de juger ces mœurs contre nature,
dangereuses, infâmes. »92
Mais c'est surtout l'homosexualité – conçue comme « pédérastie » (et par extension pédophilie) qui est vivement condamnée par Voltaire, le philosophe craignant des abus sexuels sur mineurs – si les références à l'Antiquité gréco-romaine viennent à justifier, à tort et à travers, des « amours socratiques » où un pédagogue a des relations sexuelles avec les jeunes adolescents qui sont ses élèves ; en effet :
« Je ne peux souffrir qu’on prétende que les Grecs ont autorisé cette licence. On cite le législateur Solon, parce qu’il a dit en deux mauvais vers, Tu chériras un beau garçon,/ Tant qu’il n’aura barbe au menton. (...) Sextus Empiricus qui doutait de tout, devait bien douter de cette jurisprudence. S’il vivait de nos jours, & qu’il vît deux ou trois jeunes Jésuitesabuser de quelques écoliers, aurait-il droit de dire que ce jeu leur est permis par les constitutions d’Ignace de Loyola ? »
— Voltaire, Dictionnaire philosophique portatif, Amour nommé socratique.
Voltaire et l'esclavagisme
Voltaire était fondamentalement opposé à l'image du « bon sauvage » des pays équatoriaux ou que l'homme est « bon » à l'état de nature, image promue par Jean-Jacques Rousseau ou Denis Diderot – avec, par exemple, son Supplément au voyage de Bougainville (« innocence » du « primitif » rappelant d'ailleurs l'image biblique du Jardin d'Eden, lorsqu'Adam et Eve n'ont point encore goûté au fruit de la connaissance du bien et du mal)93.
Voltaire considère que les hommes noirs, des pays équatoriaux, sont
des « animaux humains » comme le sont aussi les hommes blancs, et que,
si les Africains sont victimes de l'Européen, ce n'est pas parce que
l'Européen est corrompu par la société – tandis que les Africains ne le
sont point, comme vierges de toute culpabilité, mais bien parce que les
chefs nègres collaborent activement avec les marchands européens pour
leur vendre des esclaves africains ; ainsi, Voltaire ne cherche pas à
dédouaner de leur responsabilité les peuples africains dans la traite
négrière (en les infantilisant ou en clamant qu'ils sont trop naïfs pour
ne pas savoir ce qu'ils font, comme incapables de distinguer le bien et
le mal), et écrit, dans son Essai sur les mœurs et l’esprit des Nations :
« Nous n’achetons des esclaves domestiques que chez les Nègres ; on
nous reproche ce commerce. Un peuple qui trafique de ses enfants est
encore plus condamnable que l’acheteur. Ce négoce démontre notre
supériorité ; celui qui se donne un maître était né pour en avoir. »
Ce refus de faire des Africains un peuple essentiellement « irresponsable », démontre que Voltaire s'écarte de tout discours justifiant une essence humaine,
discours permettant de soutenir qu'il y a des hommes qui, par leur
seule naissance, sont destinés à être dominés et oppressés, et d'autres –
à dominer et à oppresser : pour Voltaire, c'est parce que les Africains
noirs n'ont pas pitié des leurs – et ne les protègent pas des abus, que
les Européens peuvent les asservir sans problème par l'esclavage, et
non parce que les hommes noirs sont par leur nature même « naïfs » – abusés malgré eux, comme le prétendent les Européens croyant au « bon sauvage ».
Voltaire a fermement condamné l’esclavagisme. Le texte le plus célèbre est la dénonciation des mutilations de l’esclave de Surinam dans Candide94 mais son corpus comporte plusieurs autres passages intéressants. Dans le « Commentaire sur l’Esprit des lois » (1777), il félicite Montesquieu d’avoir jeté l’opprobre sur cette odieuse pratique95.
De la même manière le fait qu’il considère en 1771 que « de toutes les guerres, celle de Spartacus est la plus juste, et peut-être la seule juste »96 »,
guerre que des esclaves ont menée contre leurs oppresseurs, plaide
assurément en faveur de la thèse d’un Voltaire antiesclavagiste.
Lors des dernières années de sa vie, en compagnie de son avocat et ami Christin, il a lutté pour la libération des « esclaves » du Jura qui constituaient les derniers serfs présents en France et qui, en vertu du privilège de la main-morte, étaient soumis aux moines du chapitre de Saint-Claude (Jura). C’est un des rares combats politiques qu’il ait perdu ; les serfs ne furent affranchis que lors de la Révolution française, dont Voltaire inspira certains des principes.
À tort, on a souvent prétendu que Voltaire s’était enrichi en ayant participé à la traite des noirs. On invoque à l’appui de cette thèse une lettre qu’il aurait écrite à un négrier de Nantes pour le remercier de lui avoir fait gagner 600 000 livres par ce biais. En fait, cette prétendue lettre est un faux97.
Voltaire, le racisme et l'antisémitisme
Pour Christian Delacampagne, « Voltaire, il faut s’y résoudre, est à la fois polygéniste98, raciste et antisémite99 », car, animé par ce qu'il considère comme l'obscurantisme religieux, « il poursuit d’une même haine le christianisme et le judaïsme. Et comme il lui faut à tout prix se démarquer des doctrines défendues par ces deux religions, il se croit obligé d’attaquer avec vigueur le monogénisme » (selon quoi Adam et Ève sont le couple humain unique et originel).
Ainsi, dans l’introduction de l’Essai sur les mœurs et l’esprit des nations, Voltaire écrit :
« Il n’est permis qu’à un aveugle de douter que les blancs, les
nègres, les albinos, les Hottentots, les Chinois, les Américains, soient
des races entièrement différentes… Leurs yeux ronds, leur nez épaté,
leurs lèvres toujours grosses, leurs oreilles différemment figurées, la
laine de leur tête, la mesure même de leur intelligence, mettent entre
eux et les autres espèces d’hommes des différences prodigieuses. Et ce
qui démontre qu’ils ne doivent point cette différence à leur climat,
c’est que les nègres et les négresses, transplantés dans des pays les
plus froids, y produisent toujours des animaux de leur espèce… »
Cet extrait doit être lu avec les références du XVIII°siècle : le mot
« race » à cette époque n'a pas du tout le sens que lui a donné le
XIX°siècle – et n'a aucune connotation péjorative (du fait que l'eugénisme scientifique n'est pas encore présent au XVIII°siècle), ainsi que le terme « intelligence ». « Race » désigne davantage un ca-RAC-tère, un genre, un type, et « intelligence » les qualités intellectuelles propres.
Bien avant Darwin et sa théorie de l'évolution, Voltaire remet donc totalement en question le dogme abrahamique consistant à affirmer que l'espèce humaine, en son intégralité, vient d'un seul couple originel (Adam et Ève) créé par Jéhovah,
mais considère, au contraire, que l'humanité – à la manière de toutes
les autres espèces animales –, est issue de différentes branches
distinctes qui ont évolué de manière multiple, en lien étroit avec la
géographie et leur hérédité physique particulière (c'est ce que défend
aussi Montesquieu, qui prétend, dans son Esprit des lois, que les cultures humaines se constituent différemment selon le climat et la géographie où elles s'épanouissent).
Il s'agit pour Voltaire de promouvoir l'idée que les hommes, blancs
ou noirs, chinois ou autres, sont eux-aussi des animaux parmi tant
d'autres (et que les animaux non-humains ont eux-aussi une âme), « animaux humains » qui ont pour principal devoir – le devoir d'« humanité », et qu'il n'y a pas une « humanité » élue par rapport à une autre « humanité » déchue
– et destinée à être l'esclave d'une autre ; en effet, la justification
« morale » de l'esclavage négrier par les chrétiens blancs se basaient
sur une interprétation de la Bible (reprise par le Ku Klux Klan), selon quoi les hommes noirs étaient descendants de Cham, dont le fils fut maudit par Noé
et que, ce faisant, les hommes noirs ne méritaient aucune compassion ni
respect, leur destinée étant d'être maudits à jamais, d'être esclaves
ou toujours subordonnés aux hommes blancs chrétiens qui, eux, sont les
descendants de Japhet70.
La posture critique de Voltaire est par conséquent philosophiquement très opposée et moqueuse envers la Bible ; ce rejet de la Bible (qui n'est pas total, puisque Voltaire reconnaît la valeur éthique des lois noahides70), livre saint du judaïsme,
l'amène à être critique envers le peuple juif, dépositaire premier de
cet ouvrage ; en effet, Voltaire ne veut pas reconnaître une sainteté
particulière pour le peuple juif – comme l'avait fait Blaise Pascal dans ses Pensées –, déjà, pour mieux pouvoir critiquer le christianisme
qui se réfère constamment au judaïsme en prétendant être son
aboutissement messianique, ensuite, parce qu'il ne voit aucun peuple
plus saint qu'un autre par son essence, parce qu'élue par « Dieu » ou liée à une « Alliance divine » ethnocentrique. La lecture de certains passages du Dictionnaire Philosophique ou des « Essais sur les Mœurs » pose la question de l’« antisémitisme » (terme forgé vers la fin du XIX° siècle)100 de Voltaire. Dans l’article « Tolérance », il écrit :
« C’est à regret que je parle des Juifs : cette nation est, à bien
des égards, la plus détestable qui ait jamais souillé la terre. Mais
tout absurde et atroce qu’elle était, la secte des saducéens fut paisible et honorée, quoiqu’elle ne crût point l’immortalité de l’âme, pendant que les pharisiens la croyaient101. »
Il écrit aussi :
« Si ces Ismaélites [les Arabes, qui, selon la Bible, descendent d'Ismaël]
ressemblaient aux Juifs par l'enthousiasme et la soif du pillage, ils
étaient prodigieusement supérieurs par le courage, par la grandeur
d'âme, par la magnanimité […] Ces traits caractérisent une nation. On ne
voit au contraire, dans toutes les annales du peuple hébreu, aucune
action généreuse. Ils ne connaissent ni l'hospitalité, ni la libéralité,
ni la clémence. Leur souverain bonheur est d'exercer l'usure avec les
étrangers ; et cet esprit d'usure, principe de toute lâcheté, est
tellement enracinée dans leurs cœurs, que c'est l'objet continuel des
figures qu'ils emploient dans l'espèce d'éloquence qui leur est propre.
Leur gloire est de mettre à feu et à sang les petits villages dont ils
peuvent s'emparer. Ils égorgent les vieillards et les enfants ; ils ne
réservent que les filles nubiles ; ils assassinent leurs maitres quand
ils sont esclaves ; ils ne savent jamais pardonner quand ils sont
vainqueurs : ils sont ennemis du genre humain. Nulle politesse, nulle
science, nul art perfectionné dans aucun temps, chez cette nation
atroce. »
— Essais sur les Mœurs, Voltaire, éd. Moland, 1875, t. 11, chap. 6-De l’Arabie et de Mahomet, p. 231.
Il faut cependant noter que cette détestation s'oriente sur les
Hébreux de l'Ancien Testament, et non sur les Juifs en général. Il n'y a
absolument aucune preuve que Voltaire ait détesté les Juifs. On a
d'ailleurs une preuve de sa main, dans une lettre à M. Pinto, juif
portugais, du 21 juillet 1762 :
« A M. PINTO, JUIF PORTUGAIS, A PARIS. Aux Délices, 21 juillet
Les lignes dont vous vous plaignez, monsieur, sont violentes et
injustes. Il y a parmi vous des hommes très instruits et très
respectables ; votre lettre m’en convainc assez. J’aurai soin de faire
un carton dans la nouvelle édition. Quand on a un tort, il faut le
réparer ; et j’ai eu tort d’attribuer à toute une nation les vices de
plusieurs particuliers. Je vous dirai, en toute franchise, que bien des gens ne peuvent
souffrir ni vos lois, ni vos livres, ni vos superstitions. Ils disent
que votre nation s’est fait de tout temps beaucoup de mal à elle-même,
et en a fait au genre humain. Si vous êtes philosophe comme vous
paraissez l’être, vous pensez comme ces messieurs, mais vous ne le direz
pas. La superstition est le plus abominable fléau de la terre ; c’est
elle qui, de tous les temps, a fait égorger tant de juifs et tant de
chrétiens ; c’est elle qui vous envoie encore au bûcher chez des peuples
d’ailleurs estimables. Il y a des aspects sous lesquels la nature
humaine est la nature infernale. On sécherait d’horreur si on la
regardait toujours par ces côtés ; mais les honnêtes gens, en passant
par la Grève où l’on roue, ordonnent à leur cocher d’aller vite, et vont
se distraire à l’Opéra du spectacle affreux qu’ils ont vu sur leur
chemin. Je pourrais disputer avec vous sur les sciences que vous attribuez
aux anciens Juifs, et vous montrer qu’ils n’en savaient pas plus que
les Français du temps de Chilpéric ; je pourrais vous faire convenir que
le jargon d’une petite province, mêlé de chaldéen, de phénicien et
d’arabe, était une langue indigente et aussi rude que notre ancien
gaulois ; mais je vous fâcherais peut-être, et vous me paraissez trop
galant homme pour que je veuille vous déplaire. Restez Juifs, puisque
vous l’êtes ; vous n’égorgerez point quarante-deux mille hommes pour
n’avoir pas prononcé shiboleth, ni vingt-quatre mille pour avoir couché
avec des Madianites ; mais soyez philosophe, c’est tout ce que je peux
vous souhaiter de mieux dans cette courte vie. J’ai l’honneur d’être
monsieur, avec tous les sentimens qui vous sont dus, votre très humble,
etc. VOLTAIRE, chrétien, Et gentilhomme ordinaire de la chambre du roi très chrétien. »
Voltaire, qui signe en chrétien, méprise le judaïsme qu'il conçoit comme un idéalisme fanatique et dogmatique – source du christianisme et de l'islam. Mais il évacue toute idée de détestation raciale ou de haine perverse. Voltaire tolère, mais Voltaire combat par les idées.
Pour Bernard Lazare (+ 1903), « si
Voltaire fut un ardent judéophobe, les idées que lui et les
encyclopédistes représentaient n’étaient pas hostiles aux Juifs, puisque
c’étaient des idées de liberté et d’égalité universelle102 ». L’historien de la Shoah, Léon Poliakov103 fait de Voltaire, « le pire antisémite français du XVIIIe siècle104 »».
Selon lui, ce sentiment se serait aggravé dans les quinze dernières
années de la vie de Voltaire. Il paraîtrait alors lié au combat du
philosophe contre l’Église. Certes, Voltaire déteste les Hébreux de
l’Ancien Testament qui prétendent être le peuple élu : nul peuple n’est
tel pour lui. Mais Voltaire n’appelle pas sur les juifs la persécution
raciale à la différence des antisémites du XIXe siècle et du XXe siècle. Au contraire, les critiques de Voltaire envers le judaïsme (ou envers le christianisme, l'islam, le manichéisme, le polythéisme et l'athéisme)
servent de point d'appui pour glorifier une éthique universelle, la
tolérance et le respect au-delà des doctrines métaphysiques :
« Vous [les Israélites] me paraissez les plus fous de la bande [hommes se disputant pour leurs opinions religieuses respectives, athées compris]. Les Cafres, les Hottentots, les nègres de Guinée
sont des êtres beaucoup plus raisonnables et plus honnêtes que vos
Juifs les ancêtres. Vous l'avez emporté sur toutes les nations en fables
impertinentes, en mauvaise conduite, et en barbarie. (...) Pourquoi
seriez-vous une puissance ? (...) Continuez surtout à être tolérants ;
c'est le vrai moyen de plaire à l'Être des êtres, qui est également le père des Turcs et des Russes, des Chinois et des Japonais [deux couples de nations voisines souvent en conflit], des nègres, des tannés et des jaunes, et de la nature entière. »
— Voltaire, Il faut prendre un parti ; XXIV Discours d'un théiste.
Pour Pierre-André Taguieff105, « Les admirateurs inconditionnels de la « philosophie des Lumières », s’ils prennent la peine de lire le troisième tome (De Voltaire à Wagner) de l’Histoire de l’antisémitisme,
paru en 1968, ne peuvent que nuancer leurs jugements sur des penseurs
comme Voltaire ou le baron d’Holbach, qui ont reformulé l’antijudaïsme
dans le code culturel « progressiste » de la lutte contre les préjugés
et les superstitions ».
D’autres notent que l’existence de passages contradictoires106
dans l’œuvre de Voltaire ne permet pas de conclure péremptoirement au
racisme ou à l’antisémitisme du philosophe. « L’antisémitisme n’a jamais
cherché sa doctrine chez Voltaire107 », indique ainsi Roland Desné,
qui écrit : « Il est non moins vrai que ce n’est pas d’abord chez
Voltaire qu’on trouve des raisons pour combattre l’antisémitisme. Pour
ce combat, il y a d’abord l’expérience et les raisons de notre temps. Ce
qui ne signifie pas que Voltaire, en compagnie de quelques autres,
n’ait pas sa place dans la lointaine genèse de l’histoire de ces
raisons-là108. »
Candide,
face au nègre esclave, atrocement mutilé par ses propriétaires, qui lui
dit : « C’est à ce prix que vous mangez du sucre en Europe ».
Néanmoins, le passage du Candide de Voltaire, au chapitre 19, est suffisamment clair sur l'humanisme du philosophe, sa compassion universelle et son esprit de justice ;
Voltaire y dénonce en même temps et ironiquement le racisme anti-noir,
le commerce triangulaire ou traite négrière, l'esclavagisme (dont les
lois visant à mutiler les fugitifs) ainsi que l'oubli, la cruauté et
l'hypocrisie des Européens et du christianisme envers les hommes noirs
exploités pour du sucre :
« En approchant de la ville, ils rencontrèrent un nègre étendu par
terre, n’ayant plus que la moitié de son habit, c’est-à-dire d’un
caleçon de toile bleue ; il manquait à ce pauvre homme la jambe gauche et la main
droite. « Eh ! mon Dieu ! lui dit Candide en hollandais, que fais-tu
là, mon ami, dans l’état horrible où je te vois ? — J’attends mon
maître, M. Vanderdendur, le fameux négociant, répondit le nègre. —
Est-ce M. Vanderdendur, dit Candide, qui t’a traité ainsi ? — Oui,
monsieur, dit le nègre, c’est l’usage. On nous donne un caleçon de toile
pour tout vêtement deux fois l’année. Quand nous travaillons aux
sucreries, et que la meule nous attrape le doigt, on nous coupe la
main ; quand nous voulons nous enfuir, on nous coupe la jambe : je me
suis trouvé dans les deux cas. C’est à ce prix que vous mangez du sucre en Europe. Cependant, lorsque ma mère me vendit dix écus patagons sur la côte de Guinée, elle me disait : « Mon
cher enfant, bénis nos fétiches, adore-les toujours, ils te feront
vivre heureux ; tu as l’honneur d’être esclave de nos seigneurs les
blancs, et tu fais par là la fortune de ton père et de ta mère. » Hélas ! je ne sais pas si j’ai fait leur fortune, mais ils n’ont pas fait la mienne. Les chiens, les singes, et les perroquets, sont mille fois moins malheureux que nous ; les fétiches hollandais qui m’ont converti me disent tous les dimanches que nous sommes tous enfants d’Adam, blancs et noirs. Je ne suis pas généalogiste ; mais si ces prêcheurs
disent vrai, nous sommes tous cousins issus de germain. Or vous
m’avouerez qu’on ne peut pas en user avec ses parents d’une manière plus
horrible. »
— Voltaire, Candide, chapitre 19.
Voltaire et l'islam
Cet article provoque une controverse de neutralité (voir la discussion).
Déiste, Voltaire était attiré par la rationalité apparente de l’islam, religion sans clergé, sans miracle et sans mystères. Reprenant la thèse déiste de Henri de Boulainvilliers, il apercevait dans le monothéisme musulman une conception plus rationnelle que celle de la Trinité chrétienne109.
Dans sa tragédie Le Fanatisme ou Mahomet, Voltaire considère Mahomet comme un « imposteur », un « faux prophète », un « fanatique » et un « hypocrite »110,111. Toutefois selon Pierre Milza, la pièce a surtout été « un
prétexte à dénoncer l’intolérance des chrétiens - catholiques de
stricte observance, jansénistes, protestants - et les horreurs
perpétrées au nom du Christ »112. Pour Voltaire, Mahomet « n’est ici autre chose que Tartuffe les armes à la main »113.
Voltaire écrira en 1742 dans une lettre à M. de Missy : « Ma pièce représente, sous le nom de Mahomet, le prieur des Jacobins mettant le poignard à la main de Jacques Clément »114.
Plus tard, après avoir lu Henri de Boulainvilliers et Georges Sale115,
il reparle de Mahomet et de l’islam dans un article « De l’Alcoran et
de Mahomet » publié en 1748 à la suite de sa tragédie. Dans cet article,
Voltaire maintient que Mahomet fut un « charlatan », mais « sublime et hardi »116 et écrit qu’il n’était en outre pas un illettré117. Puisant aussi des renseignements complémentaires dans la Bibliothèque orientale d’Herbelot, Voltaire, selon René Pomeau,
porte un « jugement assez favorable sur le Coran » où il trouve, malgré
« les contradictions, les absurdités, les anachronismes », une « bonne
morale » et « une idée juste de la puissance divine » et y « admire
surtout la définition de Dieu »118. Ainsi il « concède désormais »115
que « si son livre est mauvais pour notre temps et pour nous, il était
fort bon pour ses contemporains, et sa religion encore meilleure. Il
faut avouer qu’il retira presque toute l’Asie de l’idolâtrie » et
qu’« il était bien difficile qu’une religion si simple et si sage,
enseignée par un homme toujours victorieux, ne subjuguât pas une partie
de la terre ». Il considère que « ses lois civiles sont bonnes ; son
dogme est admirable en ce qu’il a de conforme avec le nôtre » mais que
« les moyens sont affreux ; c’est la fourberie et le meurtre »119.
Après avoir estimé plus tard qu’il avait fait dans sa pièce Mahomet « « un peu plus méchant qu’il n’était »120, c’est dans la biographie de Mahomet rédigée par Henri de Boulainvilliers que Voltaire puise et emprunte, selon René Pomeau, « les traits qui révèlent en Mahomet le grand homme »121. Dans son Essai sur les mœurs et l’esprit des Nations dans lequel il consacre, en historien cette fois, plusieurs chapitres à l’islam122,123, Voltaire « porte un jugement presque entièrement favorable »115 sur Mahomet qu’il qualifie de « poète »124, de « grand homme » qui a « changé la face d’une partie du monde »125,126 tout en nuançant la sincérité de Mahomet qui imposa sa foi par « des fourberies nécessaires ». Il considère que si « le législateur des musulmans, homme puissant et terrible, établit ses dogmes par son courage et par ses armes », sa religion devint cependant « indulgente et tolérante »127.
Cependant, Voltaire est fondamentalement déiste et dénonce clairement l’Islam et les religions abrahamiques en général. Profitant de la définition du théisme dans son Dictionnaire philosophique, il jette dos à dos Islam et Christianisme :
« [le théiste] croit que la religion ne consiste ni dans les opinions
d’une métaphysique inintelligible, ni dans de vains appareils, mais
dans l’adoration et dans la justice. Faire le bien, voilà son culte ;
être soumis à Dieu, voilà sa doctrine. Le mahométan lui crie : « Prends
garde à toi si tu ne fais pas le pèlerinage à La Mecque ! » « Malheur à
toi, lui dit un récollet,
si tu ne fais pas un voyage à Notre-Dame de Lorette ! » Il rit de
Lorette et de La Mecque ; mais il secourt l’indigent et il défend
l’opprimé128. »
Néanmoins, dans un contexte français marqué par l’emprise liberticide
du catholicisme sur la société française, Voltaire nuance parfois son
jugement sur l’Islam, comprenant qu’il peut s’agir d’une arme redoutable
contre le clergé catholique.
Ses propos sur Mahomet lui valent d’ailleurs les foudres des jésuites et notamment de l’abbé Claude-Adrien Nonnotte129,130.
Dans l’Essai sur les mœurs, Voltaire se montre également « plein d’éloges pour la civilisation musulmane et pour l’islam en tant que règle de vie »115. Il compare ainsi le « génie du peuple arabe » au « génie des anciens Romains »131 et écrit que « dans
nos siècles de barbarie et d’ignorance, qui suivirent la décadence et
le déchirement de l’Empire romain, nous reçûmes presque tout des
Arabes : astronomie, chimie, médecine »132,133 et que « dès le second siècle de Mahomet, il fallut que les chrétiens d’Occident s’instruisissent chez les musulmans »134.
Il y a donc deux représentations de Mahomet chez Voltaire, l’une
religieuse selon laquelle Mahomet est un prophète comme les autres qui
exploite la naïveté des gens et répand la superstition et le fanatisme,
mais qui prêche l’unicité de Dieu et l’autre, politique, selon laquelle
Mahomet est un grand homme d’État comme Alexandre le Grand et un grand
législateur qui a fait sortir ses contemporains de l’idolâtrie135.
Ainsi selon Diego Venturino la figure de Mahomet est ambivalente chez
Voltaire, qui admire le législateur, mais déteste le conquérant et le
pontife, qui a établi sa religion par la violence136. Pour Dirk van der Cruysse l’image plus nuancée de Mahomet dans l’Essai sur les mœurs est nourrie en partie par « l’antipathie que Voltaire éprouvait à l’égard du peuple juif »». Selon lui, les « inefficacités de la révélation judéo-chrétienne » comparées au « dynamisme de l’islam » soulève chez Voltaire une « admiration sincère mais suspecte ». Van der Cruysse considère le discours voltairien sur Mahomet comme un « tissu d’admiration et de mauvaise foi mal dissimulé » qui vise moins le prophète lui-même que les spectres combattus par Voltaire à savoir le « fanatisme et l’intolérance du christianisme et du judaïsme »137.
Ce qu'il ne faut donc pas perdre de vue, c'est que Voltaire admire le
Mahomet conquérant, réformateur et législateur, qu'il apprécie des
caractéristiques du dogme mais seulement quand il les compare à
d'autres, et qu'enfin il exècre l'Islam en tant que religion, et, dans
les textes qui montrent l'éloge à Mahomet, on lit aussi une dénonciation
virulente de la barbarie, du fanatisme, et de l'obscurantisme.
Voltaire et le christianisme
Le christianisme, dont il souhaite la disparition, n’est pour Voltaire que superstition et fanatisme. En 1767, il écrit à Frédéric II : « Tant
qu’il y aura des fripons et des imbéciles, il y aura des religions. La
nôtre est sans contredit la plus ridicule, la plus absurde, et la plus
sanguinaire qui ait jamais infecté le monde138 ».
Toute sa vie, Voltaire a répandu des écrits anti-chrétiens, tout en
affirmant qu’il était étranger à ces publications (ce qui en général ne
trompait personne, mais lui évitait des poursuites personnelles139) et en feignant à Ferney la pratique religieuse, par exemple en faisant ses pâques en 1768140(ses bons paysans seraient « effrayés », explique-t-il dans ses lettres141, s’ils le voyaient agir autrement qu’eux, s’ils pouvaient imaginer qu’il pense différemment).
Ses attaques contre la croyance et les pratiques du christianisme, ses railleries sur la Bible, surtout l’Ancien Testament
(dont il est un lecteur assidu), sont le propre de ce qu’on a appelé
« l’esprit voltairien » et ont suscité contre lui des haines profondes.
Elles se font en effet toujours sous une forme particulièrement moqueuse envers les croyants, ainsi dans Le Dîner du comte de Boulainvilliers (1767), son réquisitoire contre la messe et la communion :
« Un gueux qu’on aura fait prêtre, un moine sortant des bras d’une
prostituée, vient pour douze sous, revêtu d’un habit de comédien, me
marmotter dans une langue étrangère ce que vous appelez une messe,
fendre l’air en quatre avec trois doigts, se courber, se redresser,
tourner à droite et à gauche, par devant et par derrière, et faire
autant de dieux qu’il lui plaît, les boire et les manger, et les rendre
ensuite à son pot de chambre ! »
Mais Voltaire peut être plus clément dans sa critique du christianisme, en écrivant par exemple dans sa Vingt-cinquième lettre sur les Pensées de M. Pascal, que « le christianisme n’enseigne que la simplicité, l’humanité, la charité ; vouloir le réduire à la métaphysique, c’est en faire une source d’erreurs. »
La condamnation du christianisme chez Voltaire porte donc d'avantage
sur l'idéalisme exclusif et l'aspect rituel (ou superstitieux) qui peut
s'en emparer (et le desservir) – que sur les enseignements de Jésus-Christ en eux-mêmes. Voltaire préfère prendre le parti des opprimés et cultiver une philosophie à contre-courant de toutes idées et comportements préconçus – pour permettre à la Raison
sensible de s'épanouir librement, plutôt que défendre et établir des
systèmes de pensées abstraits sans lien avec la réalité vécue : un
philosophe ne doit pas devenir un « chef de parti » enfermant son
intellect dans une doctrine, même s'il prend parti.
C'est surtout l'absurdité conceptualisée et érigée en dogme – et l'absence d'empathie
des hommes, qui pousse Voltaire à dénoncer le christianisme et à se
moquer des chrétiens et à tout ce qui leur apparaît « normal » ; dans
son Dialogue du chapon et de la poularde, Voltaire en vient ainsi à faire dire au chapon, s'adressant à la poularde, que l'abstinence de viande, deux jours par semaine, dans le christianisme, est un loi « très barbare [qui] ordonne que ces jours-là on mangera les habitants des eaux. Ils vont chercher des victimes au fond des mers et des rivières. Ils dévorent des créatures dont une seule coûte souvent plus de la valeur de cent chapons : ils appellent cela jeûner,
se mortifier. Enfin je ne crois pas qu'il soit possible d'imaginer une
espèce plus ridicule à la fois plus abominable, plus extravagante et
plus sanguinaire. »
Globalement, le lien fait entre le fanatisme sanguinaire et les références abrahamiques est chez Voltaire une constante, qui participe beaucoup à son rejet du christianisme. Dans La Bible enfin expliquée, Voltaire écrit :
« C'est le propre des fanatiques qui lisent les Ecritures saintes, de
se dire à eux-mêmes : Dieu a tué, donc il faut que je tue ; Abraham a menti, Jacob a trompé, Rachel
a volé, donc je dois voler, tromper, mentir. Mais, malheureux ! tu n'es
ni Rachel, ni Jacob, ni Abraham, ni Dieu : tu n'es qu'un fou furieux,
& les Papes qui défendirent la lecture de la Bible furent très sages142. »
Voltaire et le protestantisme
L’engagement de Voltaire pour la liberté religieuse est célèbre, et un des épisode les plus connus en est l’affaire Calas. Ce protestant, injustement accusé d’avoir tué son fils qui aurait voulu se convertir au catholicisme est mort roué en 1762. En 1763, Voltaire publie son Traité sur la tolérance à l’occasion de la mort de Jean Calas qui bien qu’interdit aura un retentissement extraordinaire et amènera à la réhabilitation de Calas deux ans plus tard.
Au départ, il n’éprouvait pas pour lui de sympathies particulières,
au point d’écrire le 22 mars 1762, dans une lettre privée au conseiller
Le Bault : « Nous ne valons pas grand’chose, mais les huguenots sont pires que nous, et de plus ils déclament contre la comédie ».
Il venait alors d’apprendre l’exécution de Calas et, encore mal
informé, il croyait à sa culpabilité. Mais des renseignements lui
parviennent et, le 4 avril, il écrit à Damilaville : « Il est avéré que les juges toulousains ont roué le plus innocent des hommes. Presque tout le Languedoc
en gémit avec horreur. Les nations étrangères, qui nous haïssent et qui
nous battent, sont saisies d’indignation. Jamais, depuis le jour de la Saint-Barthélemy, rien n’a tant déshonoré la nature humaine. Criez, et qu’on crie. » Et il se lance dans le combat pour la réhabilitation.
En 1765, Voltaire prend fait et cause pour la famille Sirven,
dans une affaire très similaire ; cette fois-ci il réussira à éviter la
mort aux parents. Cependant, bien qu’impressionné par la théologie des Quakers,
et révolté par le massacre de la Saint-Barthélemy (Voltaire était pris
de malaises tous les 24 août), Voltaire n’a pas de sympathie
particulière pour le protestantisme établi143. Dans sa lettre du 26 juillet 1769 à la duchesse de Choiseul, il dit bien crûment : « Il
y a dans le royaume des Francs environ trois cent mille fous qui sont
cruellement traités par d’autres fous depuis longtemps. »
Voltaire et l'hindouisme
Très critique envers les religions abrahamiques, Voltaire avait en revanche une vision positive de l'hindouisme144 (mais rejetant toute forme de superstition qui aurait dégradé l'origine première des enseignements brahmaniques) ; l'autorité sacrée des brahmanes, le Véda, a ainsi été commenté par le philosophe en ces termes :
« Le Véda est le plus précieux don de l'Orient, et l'Occident lui en sera à jamais redevable145. »
Et dans son Essai sur les mœurs et l'esprit des nations (chapitre 4) :
« Si l’Inde,
de qui toute la terre a besoin, et qui seule n’a besoin de personne,
doit être par cela même la contrée la plus anciennement policée, elle
doit conséquemment avoir eu la plus ancienne forme de religion. »
Dans ce même chapitre, Voltaire voit le peuple hindou comme étant
« un peuple simple et paisible » – « étonné » de voir des « hommes
ardents », venus « des extrémités occidentales de la terre »,
s'entretuer mutuellement sur le sous-continent indien – pour le piller
et le convertir à leur religion respective et ennemie : l'islam ou les
différentes branches du christianisme.
Voltaire se sert aussi des histoires et textes antiques de l'hindouisme
pour ridiculiser et renier les revendications et affirmations bibliques
(temps linéaire très court de la Bible, face au temps cyclique et
infiniment long dans l'hindouisme, etc.), et considère que la
bienveillance hindoue envers les animaux est un choix qui rend
complètement honteux la malveillance générale soutenue par l'impérialisme européen, colonial et esclavagiste146.
Informations complémentaires
À la mort de Voltaire, son corps avait été, selon sa volonté, autopsié. Le marquis de Villette
s’était approprié le cœur, l'apothicaire ayant procédé à l'embaumement,
M. Mitouard, avait obtenu de garder le cerveau. Villette, ayant fait
l'acquisition de Ferney, décida de faire de la chambre de l’écrivain un
sanctuaire. Il y dressa un petit mausolée abritant un coffret de vermeil
contenant la relique. Une plaque indiquait en lettres d’or : « Son
esprit est partout et son cœur est ici ». Quand il dut vendre Ferney en
1785, le marquis rapporta le cœur rue de Beaune à Paris. Il échut à son héritier, qui était devenu sous la Restauration un royaliste ultra et qui légua, à sa mort en 1859, tous ses biens au comte de Chambord.
D’autres héritiers des Villette, en pleine querelle testamentaire,
tentèrent alors de s’opposer à ce que le cœur du philosophe devint la
propriété du prétendant légitime au trône de France. Ils perdirent leur
procès en première instance et en appel, mais l’emportèrent en
cassation. Ils décidèrent d’en faire don en 1864 à l’empereur Napoléon III. Le cœur de Voltaire fut déposé à la Bibliothèque nationale dans le socle du plâtre original du « Voltaire assis » de Jean-Antoine Houdon
où l’on peut lire l’inscription : « Cœur de Voltaire donné par les
héritiers du marquis de Villette ». Cette cérémonie de remise du 16
décembre 1864 se fit en présence de Victor Duruy, ministre de l'Instruction, qui déclara le cœur de Voltaire bien national147.
Le cerveau de Voltaire fut exposé dans l'officine de Mitouart pendant
plusieurs années. Son fils voulut en faire don en 1799 à la Bibliothèque nationale. Le Directoire
refusa. De nouvelles propositions furent faites en 1830 et 1858,
suivies de nouveaux refus. Il échoua en 1924 à la Comédie française (il
aurait été cédé par une descendante des Mitouart contre deux fauteuils
d’orchestre148) et fut placé dans le socle d'une autre statue de Houdon où il se trouve encore149.
On qualifia Voltaire de « franc-maçon
sans tablier », car il s'était tenu à l'écart de cette confrérie bien
qu'il eût des conceptions voisines. En 1778 il accepta pourtant d'entrer
dans la loge des Neuf Sœurs (que fréquentait aussi Benjamin Franklin). On le dispensa vu son âge des habituelles épreuves
ainsi que du rite du bandeau sur les yeux, celui-ci semblant déplacé
sur un homme qui avait été considéré par beaucoup comme l'un des plus
clairvoyants de son époque. Il revêtit à cette unique occasion le
tablier de Claude-Adrien Helvétius, qu'il embrassa avec respect. Les honneurs funèbres lui furent rendus en loge le 28 novembre de cette même année150,151.
Il est courant d'entendre que Voltaire disait à propos de Marivaux
et d'autres : « Grands compositeurs de rien, pesant gravement des œufs
de mouche dans des balances de toiles d'araignées ». Or, s'il est exact
que cette expression se rencontre effectivement chez Voltaire, elle ne
vise nullement Marivaux. On la trouve dans sa lettre du 27 avril 1761 à
l'abbé Trublet où il écrit : « Je me souviens que mes rivaux et moi,
quand j'étais à Paris, nous étions tous fort peu de chose, de pauvres
écoliers du siècle de Louis XIV,
les uns en vers, les autres en prose, quelques-uns moitié prose, moitié
vers, du nombre desquels j'avais l'honneur d'être ; infatigables
auteurs de pièces médiocres, grands compositeurs de riens, pesant
gravement des œufs de mouche dans des balances de toile d'araignée. »
Quant au nom de l'auteur du Jeu de l'amour et du hasard, il ne se trouve pas une seule fois dans la lettre.
Voltaire a la réputation d'avoir été un grand amateur de café, et il fréquentait souvent le Procope. Il aurait eu l'habitude de consommer entre 40 et 72 tasses par jour152,153.
↑L'enseignement dans les collèges jésuites était gratuit (voir le Ratio Studiorum).
Des bourses d'études étaient octroyées par des bienfaiteurs de
l'institution. L'élève François-Marie Arouet, dont la famille est de
condition modeste, en a sans doute bénéficié.
↑10 % de fils de nobles étrangers du Moyen-Orient et quelques Chinois fréquentent aussi ce collège.
↑Il écrira à ce propos : « Caumartin
porte en son cerveau / De son temps l’histoire vivante / Caumartin est
toujours nouveau / À mon oreille qu’il enchante »
↑Le nom Arouet est un homophone de l'expression « à rouer ».
↑Dans cette hypothèse, le « U » a été transformé en « V » et le « J » en « I », ces lettres étant généralement confondues en latin.
↑quarante-cinq représentations plus quatre[pas clair] au Palais-Royal, avec nombre de spectateurs évalué à 25 000
↑En 1807, à l'entrevue de Tilsitt, le tsar Alexandre accueillera Napoléon par ce vers d'Œdipe : « L'amitié d'un grand homme est un bienfait des dieux. »6
↑« Nos prêtres ne sont pas ce qu’un vain peuple pense / Notre crédulité fait toute leur science. »7
↑Signalons qu'un exemplaire de La Henriade a été placé dans le ventre de la statue de Henri IV sur le Pont Neuf lors de son rétablissement en 1818 après sa destruction à la Révolution.
Références
↑Dans Étude sur la vie et le théâtre de Crébillon
(p. XXXIII), Maurice Dutrait évoque les « mesquineries » et les
« fourberies chez un aussi grand personnage que Voltaire » ; il rappelle
le jugement de Saint-Beuve sur les « misères » de cet écrivain qu’il
admire, et cite le chevalier du Alleurs à ce sujet : « Le caractère de
Voltaire dégoûtera toujours de son talent. »
↑René Pomeau, Voltaire en son temps, tome I, p. 23)
↑Pierre Lepape, Voltaire le conquérant, Seuil, 1994, p. 27.
↑Le rapport de Beauregard au lieutenant de police, qui a été conservé, est détaillé dans le tome 1 de Voltaire en son temps par Réné Pomeau (p. 95-96). On y lit la réponse d'Arouet quand Beauregard lui demande pourquoi il s'acharne contre le Régent : « Comment ! vous ne savez pas ce que ce bougre-là m'a fait ? Il m'a exilé parce que j'avais fait voir au public que sa Messaline de fille était une p… »
Se répandant en propos injurieux contre la fille du Régent, Arouet
ajoute que la Duchesse de Berry, derechef enceinte, s'est retirée au Château de la Muette (Paris) pour y accoucher en secret.
↑L'incident
est raconté, avec quelques variantes, par deux récits contemporains :
celui de Mathieu Marais dans deux lettres de février 1726 au président Bouhier et celui de Montesquieu dans son Spicilège.
↑Citation d’Evelyne Lever, Le temps des illusions: Chroniques de la Cour et de la Ville, 1715-1756, Arthème Fayard, Paris, 2012.
↑Proposée
par un inventif et imprudent Contrôleur général (ministre des Finances)
Le Pelletier-Desforts, cette loterie mensuelle dura près d’un an, avant
le renvoi du Contrôleur et coûta cher à l’État. Le mécanisme de
l’opération est résumé par René Pomeau dans Voltaire en son temps, tome 2, p. 259-260.
↑René Pomeau, Voltaire en son temps, tome 1, p. 261.
↑René Pomeau, Voltaire en son temps, tome 2, p. 10 et suivantes.
↑Extrait
d’un portrait (anonyme et malveillant) de Voltaire, homme et auteur. de
quatre pages qui a circulé vers 1734-1735 (donné par René Pomeau dans Voltaire en son temps, tome 1, p. 336 – orthographe et ponctuation modernisées).
↑Titre du chapitre 19, tome 1 de Voltaire en son temps par René Pomeau.
↑René Pomeau, Voltaire en son temps, tome 1, p. 330.
↑« On suppose dans ce pernicieux libelle », écrit Voltaire le 24 novembre 1736, « qu'Adam
caressait sa femme dans le paradis terrestre; or dans les anecdotes de
sa vie trouvées par Saint-Cyprien, il est dit expressément que le
bonhomme ne bandait point, et qu'il ne banda qu'après avoir été chassé
et de là vient le mot "bander de misère". »
↑Voltaire envoie au pape Benoit XIVMahomet et La Bataille de Fontenoy
avec ses respects et ses vœux. Son objectif est faire accepter sa
tragédie par le pape et de recevoir ses remerciements. Ce dernier
remercie pour Fontenoy sans citer Mahomet et termine en
donnant sa bénédiction apostolique à son « cher fils ». Voltaire
retranscrit la lettre du pape en y rajoutant un remerciement pour « la sua bellissima tragedia di Mahomet, laquale leggemo con sommo piacere » et la fait circuler dans Paris.
↑Pierre Lepape, Voltaire le conquérant, Seuil, 1994, p. 193.
↑Voltaire, Zadig, dans Romans et contes, Paris, 1979, p. 71.
↑Un petit buste de Voltaire y est aujourd'hui exposé
↑Toujours
à l'affût des opérations avantageuses, Voltaire spécule avec deux
hommes d'affaires juifs, les Hirschel, sur un emprunt d'état de la Saxe.
L'affaire se complique. Voltaire porte plainte et fait arrêter l'un des
Hirschel. Suit un procès que Voltaire va gagner malgré l'opinion qui
lui est hostile. Frédéric est furieux que son chambellan se compromette
ainsi.
↑Jésuite
recueilli par Voltaire à Ferney après la suppression de la Compagnie.
Il lui sert de chapelain et de partenaire aux échecs. La plaisanterie
habituelle de Voltaire est de le présenter ainsi : « Voici le P. Adam, qui n'est pas le premier des hommes ».
↑Il
n'apprécie qu'assez peu la ville où, dans ces circonstances, il ne sent
pas très bien : « Colmar, une ville mi-allemande, mi-française et tout à
fait iroquoise »
↑La
« tribu » Tronchin (selon le mot de Voltaire), grande famille de
banquiers et de notables genevois, est nombreuse. Voltaire entretient
des relations, souvent amicales, avec la plupart de ses membres.
François (1704-1798) est l'un des vingt-cinq membres du Petit-Conseil
chargé de l'exécutif de Genève.
C'est pour Voltaire un ami constant et un médiateur efficace avec les
autorités de la ville. Jean-Robert Tronchin (1702-1788), le frère de
François, banquier à Lyon, administre les fonds de Voltaire. Théodore Tronchin, un cousin, est son médecin. Un autre cousin, Jean-Robert Tronchin
(1710-1793), procureur général à Genève, le soutient. Citons encore
deux frères de François, Pierre, membre du Conseil des Deux Cents à
Genève, et Louis, pasteur et professeur de théologie.
↑qui s’appelle encore Essai sur l’histoire générale.
↑Des milliers de personnes ont péri le 1er novembre 1755 dans un raz-de-marée qui a détruit une partie de la ville.
↑Voltaire, Lettres inédites à son imprimeur Gabriel Cramer, édition, introduction et notes par Bernard Gagnebin, Genève-Lille, Droz-Giard, 1952
↑Bernard Gagnebin, "La diffusion clandestine des œuvres de Voltaire par les frères Cramer", in: Cinq siècles d'imprimerie à Genève : 1478-1978, Genève, Impr. Kundig, 1978, p. 173-194. - Repris dans: Annales de l'Université de Lyon, 3e série, Lettres, Lyon, Fasc. 39, p. 119-132.
↑Robert Darnton (L’Aventure de l’Encyclopédie, Cambridge, 1979, Paris, 1982) a montré que l’Encyclopédie a été vendue davantage à l’étranger qu’en France.
↑article « Autorité politique » rédigé par Diderot : « Aucun
homme n’a reçu de la nature le droit de commander aux autres (…) Le
gouvernement n’est pas un bien particulier mais un bien public, qui par
conséquent ne peut jamais être enlevé au peuple, à qui seul il
appartient essentiellement et en pleine propriété. » (tome I de l’Encyclopédie).
↑« Histoire », « Français », « Gens de lettres », « Généreux », « Galant »… « Fornication » (il « ne peut ni dire, ni faire beaucoup sur ce mot », plaisante-t-il dans une lettre à d'Alembert).
↑extrait : « On
se plaint moins à Genève qu’ailleurs des progrès de l’incrédulité, ce
qui ne doit par surprendre ; la religion y est presque réduite à
l’adoration d’un seul Dieu, du moins chez tout ce qui n’est pas peuple :
le respect pour J.-C. et pour les Écritures sont peut-être la seule
chose qui distingue d’un pur déisme le christianisme de Genève. »
↑René Pomeau, Voltaire en son temps, tome 5, p. 319.
↑D'Alembert témoigne dans une lettre à Frédéric II : « Quelques
jours avant sa maladie, il m'avait demandé, dans une conversation de
confiance, comment je lui conseillerais de se conduire, si pendant son
séjour, il venait à tomber grièvement malade. Ma réponse fut celle que
tout homme sage lui aurait faite à ma place, qu'il ferait bien de se
conduire en cette circonstance comme tous les philosophes qui l'avaient
précédé, entre autres Fontenelle et Montesquieu, qui avaient suivi
l'usage et reçu ce que vous savez avec beaucoup de révérence. Il
approuva beaucoup ma réponse : « Je pense de même, me dit-il, car il ne
faut pas être jeté à la voirie, comme j'ai vu jeter la pauvre
Lecouvreur. » Il avait, je ne sais pourquoi, beaucoup d'aversion pour
cette manière d'être enterré. » (cité par René Pomeau, Voltaire en son temps, T.5, p. 281)
↑Il ne dit pas qu'il est catholique, mais « qu'il meurt dans la religion catholique ».
Il ne renie rien de ce qu'il a écrit, mais déclare que s'il a
scandalisé l'Église, il en demande pardon. Il refuse la communion sous
prétexte qu'il crache le sang. L'abbé Gaultier donne alors à Voltaire
l'absolution.
↑Condamné
à mort ainsi que sa femme pour parricide sans aucune preuve, ni même
aucun indice sérieux, Monbailli est exécuté en 1770. Voltaire est saisi
de l'affaire. Il publie un exposé de la cause, fait appel au chancelier
Maupéou et sauve Mme Monbailli. Son mari est réhabilité.
↑André Versaille, Dictionnaire de la pensée de Voltaire, introduction de René Pomeau, Éditions Complexe, 1994, p. 8.
↑À destination des gens de lettres, Fréron et Palissot
(deux violents ennemis de Voltaire) en étant exclus. L’élite du monde
littéraire du moment souscrivit, ainsi que des aristocrates éclairés et
des souverains étrangers. La souscription de Rousseau fut admise, malgré la protestation de Voltaire. Pigalle fit le voyage à Ferney pour capter le visage de son modèle.
↑Achevée
en 1776, la statue, objet de critiques, ne fut pas exposée au public.
Le petit-neveu de Voltaire la donna en 1806 à l’Académie française qui
l’échangea en 1962 avec le Louvre contre le mausolée de Mazarin. Depuis
1993, elle est au centre de la salle Pigalle dans l’aile Richelieu du
musée.
↑Épitre À l'auteur du livre des Trois imposteurs (1768), réponse de Voltaire à un manifeste athée, le Traité des trois imposteurs (Moïse, Jésus-Christ, Mahomet).
↑On rencontre cette idée dans le Dictionnaire philosophique à l’article « Enfer » : « Il
n’y a pas longtemps qu’un théologien calviniste, nommé Petit-Pierre,
prêcha et écrivit que les damnés auraient un jour leur grâce. Les autres
ministres lui dirent qu’ils n’en voulaient point. La dispute
s’échauffa ; on prétend que le roi, leur souverain, leur manda que
puisqu’ils voulaient être damnés sans retour, il le trouvait très bon,
et qu’il y donnait les mains. Les damnés de l’église de Neuchâtel déposèrent le pauvre Petit-Pierre, qui avait pris l’enfer pour le purgatoire. On a écrit que l’un d’eux lui dit : « Mon
ami, je ne crois pas plus à l’enfer éternel que vous ; mais sachez
qu’il est bon que votre servante, que votre tailleur, et surtout votre
procureur, y croient. » Le roi en question était Frédéric II de Prusse, qui était à l’époque souverain de Neuchâtel. »
↑Paul F. Boller Jr. et John George, (en)They never said it : a book of fake quotes, misquotes, & misleading attributions, Oxford University Press, New-York, 1989, p. 125.
↑Article Viande des Questions sur l'Encyclopédie et Aventure indienne de Voltaire.
↑Éléments de la philosophies de Newton (première partie, chapitre 5), Voltaire.
↑Article Causes finales des Questions de l'Encyclopédie.
↑chante Gavroche en mourant sur une barricade en 1832 (Victor Hugo, Les Misérables).
↑«Voltaire,
tout occupé de ce qui peut nuire aux hommes, attaque sans cesse le
despotisme, le fanatisme, la superstition, l’amour des conquêtes ; mais
il ne s’occupe guère qu’à détruire. Rousseau s’occupe à la recherche de
tout ce qui peut nous être utile, et s’efforce de bâtir. »
↑Mémoires pour servir à la vie de M. de Voltaire. (1770).
↑Leigh, Correspondance complète de Jean-Jacques Rousseau, 1965, lettre no 319 de 1755.
↑« Si
quelqu’un a jamais combattu pour rendre aux esclaves de toute espèce le
droit de la nature, la liberté, c’est assurément Montesquieu. Il a
opposé la raison et l’humanité à toutes les sortes d’esclavage : à celui
des nègres qu’on va acheter sur la côte de Guinée pour avoir du sucre
dans les îles Caraïbes ; à celui des eunuques, pour garder les femmes et
pour chanter le dessus dans la chapelle du pape ; […] », Œuvres complètes de Voltaire, tome XXXI, « Commentaire sur l’Esprit des lois », Section « Esclavage », édition de 1893 [archive], p. 305.
↑Aucun
législateur de l’antiquité n’a tenté d’abroger la servitude ; au
contraire, les peuples les plus enthousiastes de la liberté, les
Athéniens, les Lacédémoniens, les Romains, les Carthaginois, furent ceux
qui portèrent les lois les plus dures contre les serfs. Le droit de vie
et de mort sur eux était un des principes de la société. Il faut avouer
que, de toutes les guerres, celle de Spartacus est la plus juste, et
peut-être la seule juste, Voltaire, Questions sur l’Encyclopédie, « Esclavage », 1771.
↑Lumières et esclavage de Jean Ehrard, André Versaille éditeur, 2008, p. 28.
↑Christian Delacampagne, Une histoire du racisme, Livre de poche, 2000, p. 153.
↑Bernard Lazare, L’Antisémitisme : son histoire et ses causes, « VI. L’antijudaïsme depuis la Réforme jusqu’à la Révolution française », 1894 (sur Wikisource).
↑Poliakov [PDF] [archive], Souvenirs des temps passés, « Revue de la Shoah no 158 », p. 23.
↑dans sa préface de la réédition de l’ouvrage de Poliakov, La Causalité diabolique.
↑Dans le Traité sur la tolérance par exemple, notamment les chapitres XXII et XXIII. Voir aussi ce texte dans lequel Voltaire préconise la solidarité de tous, incluant explicitement les Juifs : Mélanges, Éditions Gallimard, « Bibliothèque de la Pléiade », Avis au public sur les parricides imputés aux Calas et aux Sirven, « Remèdes contre la rage des âmes » 1961, p. 828.
↑On trouve pourtant Voltaire antijuif, par Henri Labroue, agrégé d'histoire et docteur ès lettres, Éditions Les Documents contemporains, Paris, 1942.
↑« Voltaire était-il antisémite ? », La Pensée, no 203, janvier-février 1979, p. 70-84, repris in Maris-Hélène Cotoni (éd), Voltaire/Le Dictionnaire philosophique, Klincksieck, col. Parcours critique, 1994, p. 125.
↑René Pomeau, La religion de Voltaire, A. G Nizet, 1995, p. 158.
↑Voltaire, Le Fanatisme ou Mahomet le prophète (1741), Œuvres complètes, éd. Garnier, 1875, tome 4, p. 135.
↑Mahomet
le fanatique, le cruel, le fourbe, et, à la honte des hommes, le grand,
qui de garçon marchand devient prophète, législateur et monarque, Recueil des Lettres de Voltaire (1739-1741), Voltaire, éd. Sanson et Compagnie, 1792, Lettre à M. De Cideville, conseiller honoraire du parlement (5 mai 1740), p. 163.
↑Pierre Milza, Voltaire, Librairie Académique Perrin, 2007, p. 638.
↑Je
sais que Mahomet n’a pas tramé précisément l’espèce de trahison qui
fait le sujet de cette tragédie… Je n’ai pas prétendu mettre seulement
une action vraie sur la scène, mais des mœurs vraies, faire penser les
hommes comme ils pensent dans les circonstances où ils se trouvent, et
représenter enfin ce que la fourberie peut inventer de plus atroce, et
ce que le Fanatisme peut exécuter de plus horrible. Mahomet n’est ici
autre chose que Tartuffe les armes à la main. Je me croirai bien
récompensé de mon travail, si quelqu’une de ces âmes faibles, toujours
prêtes à recevoir les impressions d’une fureur étrangère qui n’est pas
au fond de leur cœur, peut s’affermir contre ces funestes séductions par
la lecture de cet ouvrage., Voltaire, Lettre à Frédéric II, Roi de Prusse, 20 janvier 1742.
↑Voltaire, Lettres inédites de Voltaire, Didier, 1856, t. 1, Lettre à M. César De Missy, 1er septembre 1743, p. 450.
↑ a, b, c et dRené Pomeau, Voltaire en son temps, Fayard, 1995, t. 1, Avec Madame du Châtelet par René Vaillot, p. 407.
↑Morceau écrit et publié en 1748 dans le tome IV
des Œuvres de Voltaire, à la suite de sa tragédie de Mahomet. Cet
article présent dans certaines éditions posthumes très augmentées du Dictionnaire philosophique, sous le titre Questions sur l'Encyclopédie, ne figure pas dans la version originale du Dictionnaire philosophique qui comporte seulement 118 articles parus du vivant de Voltaire dans sa dernière version en 1769 (cf. Dictionnaire philosophique, Raymond Naves et Olivier Ferret, Garnier, 2008):
C’était un sublime et hardi charlatan que ce Mahomet, fils d’Abdalla.
Le Koran est une rapsodie sans liaison, sans ordre, sans art ; on
dit pourtant que ce livre ennuyeux est un fort beau livre ; je m’en
rapporte aux Arabes, qui prétendent qu’il est écrit avec une élégance et
une pureté dont personne n’a approché depuis. C’est un poème, ou une
espèce de prose rimée, qui contient six mille vers. Il n’y a point de
poète dont la personne et l’ouvrage aient fait une telle fortune. On
agita chez les musulmans si l’Alcoran était éternel, ou si Dieu l’avait
créé pour le dicter à Mahomet. Les docteurs décidèrent qu’il était
éternel ; ils avaient raison, cette éternité est bien plus belle que
l’autre opinion. Il faut toujours avec le vulgaire prendre le parti le
plus incroyable.
On l’excuse sur la fourberie, parce que, dit-on, les Arabes
comptaient avant lui cent vingt-quatre mille prophètes, et qu’il n’y
avait pas grand mal qu’il en parût un de plus. Les hommes, ajoute-t-on,
ont besoin d’être trompés. Mais comment justifier un homme qui vous dit
« Crois que j’ai parlé à l’ange Gabriel, ou paye-moi un tribut ? »
Combien est préférable un Confucius, le premier des mortels qui
n’ont point eu de révélation ; il n’emploie que la raison, et non le
mensonge et l’épée. Vice-roi d’une grande province, il y fait fleurir la
morale et les lois : disgracié et pauvre, il les enseigne il les
pratique dans la grandeur et dans l’abaissement ; il rend la vertu
aimable ; il a pour disciple le plus ancien et le plus sage des peuples.
Le comte de Boulainvilliers, qui avait du goût pour Mahomet, a
beau me vanter les Arabes, il ne peut empêcher que ce ne fût un peuple
de brigands ; ils volaient avant Mahomet en adorant les étoiles ; ils
volaient sous Mahomet au nom de Dieu. Ils avaient, dit-on, la simplicité
des temps héroïques ; mais qu’est-ce que les siècles héroïques ?
c’était le temps où l’on s’égorgeait pour un puits et pour une citerne,
comme on fait aujourd’hui pour une province.
↑Les
moines qui se sont déchaînés contre Mahomet, et qui ont dit tant de
sottises sur son compte, ont prétendu qu’il ne savait pas écrire. Mais
comment imaginer qu’un homme qui avait été négociant, poète, législateur
et souverain, ne sût pas signer son nom? Si son livre est mauvais pour
notre temps et pour nous, il était fort bon pour ses contemporains, et
sa religion encore meilleure. Il faut avouer qu’il retira presque toute
l’Asie de l’idolâtrie. Il enseigna l’unité de Dieu ; il déclamait avec
force contre ceux qui lui donnent des associés. Chez lui l’usure avec
les étrangers est défendue, l’aumône ordonnée. La prière est d’une
nécessité absolue ; la résignation aux décrets éternels est le grand
mobile de tout. Il était bien difficile qu’une religion si simple et si
sage, enseignée par un homme toujours victorieux, ne subjuguât pas une
partie de la terre. En effet les musulmans ont fait autant de prosélytes
par la parole que par l’épée. Ils ont converti à leur religion les
Indiens et jusqu’aux nègres. Les Turcs même leurs vainqueurs se sont
soumis à l’islamisme., Voltaire, 1748, Ibid.
↑René Pomeau, La religion de Voltaire, A.G Nizet, 1995, p. 157.
↑Morceau écrit et publié en 1748 dans le tome IV des Œuvres de Voltaire.
↑Il n’appartenait assurément qu’aux musulmans de se plaindre ; car j’ai fait Mahomet un peu plus méchant qu’il n’était, Lettre à Mme Denis, 29 octobre 1751, Lettres choisies de Voltaire, Libraires associés, 1792, t. 2, p. 113.
↑René Pomeau, La religion de Voltaire, A.G Nizet, 1995, p. 156-157.
↑Ce
fut certainement un très grand homme, et qui forma de grands hommes. Il
fallait qu’il fût martyr ou conquérant, il n’y avait pas de milieu. Il
vainquit toujours, et toutes ses victoires furent remportées par le
petit nombre sur le grand. Conquérant, législateur, monarque et pontife,
il joua le plus grand rôle qu’on puisse jouer sur la terre aux yeux du
commun des hommes ; mais les sages lui préféreront toujours Confutzée,
précisément parce qu’il ne fut rien de tout cela, et qu’il se contenta
d’enseigner la morale la plus pure à une nation plus ancienne, plus
nombreuse, et plus policée que la nation arabe., Remarques pour servir de supplément à l’Essai sur les Mœurs [archive] (1763), dans Œuvres complètes de Voltaire, Voltaire, éd. Moland, 1875, t. 24, chap. 9-De Mahomet, p. 590.
↑J’ai
dit qu’on reconnut Mahomet pour un grand homme ; rien n’est plus impie,
dites-vous. Je vous répondrai que ce n’est pas ma faute si ce petit
homme a changé la face d’une partie du monde, s’il a gagné des batailles
contre des armées dix fois plus nombreuses que les siennes, s’il a fait
trembler l’Empire romain, s’il a donné les premiers coups à ce colosse
que ses successeurs ont écrasé, et s’il a été législateur de l’Asie, de
l’Afrique, et d’une partie de l’Europe., « Lettre civile et honnête à l’auteur malhonnête de la Critique de l’histoire universelle de M. de Voltaire » (1760), dans Œuvres complètes de Voltaire, Voltaire, éd. Moland, 1875, t. 24, p. 164.
↑« Essai sur les Mœurs et l’Esprit des Nations » (1756), dans Œuvres complètes de Voltaire, Voltaire, éd. Moland, 1875, t. 11, chap. VII-De l’Alcoran, et de la loi musulmane, p. 244.
↑Les
chrétiens n’avaient regardé jusqu’à présent le fameux Mahomet que comme
un heureux brigand, un imposteur habile, un législateur presque
toujours extravagant. Quelques Savants de ce siècle, sur la foi des
rapsodies arabesques, ont entrepris de le venger de l’injustice que lui
font nos écrivains. Ils nous le donnent comme un génie sublime, et comme
un homme des plus admirables, par la grandeur de ses entreprises, de
ses vue, de ses succès, Claude-Adrien Nonnotte, Les erreurs de Voltaire, Jacquenod père et Rusand, 1770, t. I, p. 70.
↑M. de
Voltaire nous assure qu’il [Mahomet] avait une éloquence vive et forte,
des yeux perçants, une physionomie heureuse, l’intrépidité d’Alexandre,
la libéralité et la sobriété dont Alexandre aurait eu besoin pour être
un grand homme en tout… Il nous représente Mahomet comme un homme qui a
eu la gloire de tirer presque toute l’Asie des ténèbres de l’idolâtrie.
Il extrait quelques paroles de divers endroits de l’Alcoran, dont il
admire le Sublime. Il trouve que sa loi est extrêmement sage, que ses
lois civiles sont bonnes et que son dogme est admirable en ce qu’il se
conforme avec le nôtre. Enfin pour prémunir les lecteurs contre tout ce
que les Chrétiens ont dit méchamment de Mahomet, il avertit que ce ne
sont guère que des sottises débitées par des moines ignorants et
insensés., Nonnotte, Ibid., p. 71.
↑Il
est évident que le génie du peuple arabe, mis en mouvement par Mahomet,
fit tout de lui-même pendant près de trois siècles, et ressembla en
cela au génie des anciens Romains., « Essais sur les Mœurs » (1756), dans Œuvres complètes de Voltaire, Voltaire, éd. Moland, 1875, t. 11, chap. VI-De l’Arabie et de Mahomet, p. 237.
↑Si
ces Ismaélites ressemblaient aux Juifs par l’enthousiasme et la soif du
pillage, ils étaient prodigieusement supérieurs par le courage, par la
grandeur d’âme, par la magnanimité., « Essai sur les Mœurs et l’Esprit des Nations » (1756), dans Œuvres complètes de Voltaire, Voltaire, éd. Moland, 1875, t. 11, chap. VI-De l’Arabie et de Mahomet, p. 231.
↑« Essais sur les Mœurs » (1756), dans Œuvres complètes de Voltaire, Voltaire, éd. Moland, 1875, t. 11, chap. VI-De l’Arabie et de Mahomet, p. 237.
↑Sadek Neaimi, L’Islam au siècle des Lumières, Harmattan, 2003, p. 248.
↑« Imposteur ou législateur ? Le Mahomet des Lumières », in Religions en transition dans la seconde moitié du dix-huitième siècle, Voltaire Foundation, 2000, p. 251 (ISBN978-0-7294-0711-3).
↑Dirk van der Cruysse, « De Bayle à Raynal, le prophète Muhammad à travers le prisme des Lumières », in De branche en branche : études sur le XVIIe et XVIIIe siècles français, Peeters Publishers, 2005, p. 125.
↑Lettre à Frédéric II, roi de Prusse, datée du 5 janvier 1767.
↑Dans
la législation de l'époque, c'était l'aveu de l'auteur qui avait valeur
de preuve et l'exposait à des poursuites personnelles. Au contraire,
tant qu'il n'avouait pas, il demeurait officiellement inconnu, bien que
tout le monde sût ce qu'il en était.
↑En
1769, l'évêque veut lui interdire de communier s'il ne renie pas,
devant notaire, ses écrits anti-chrétiens. Voltaire s'empresse de
relever le défi. S'ensuit une comédie (avec de nombreux épisodes et une
profession de foi non signée) à l'issue de laquelle Voltaire se faisant
passer pour moribond réussit à communier. L'évêque réagit par une lettre
qu'il rend publique. À Paris, parmi ses amis, l'effet est facheux.
Voltaire ne récidivera plus les années suivantes.
↑A Mme du Deffand le 18 avril 1768 ou au comte de la Touraille, le 20 avril 1768.
↑"Major World Religions: From Their Origins To The Present", by Lloyd Ridgeon, p. 29, ISBN 978-1-134-42934-9
↑Lectures on the science of language, delivered at the Royal institution of Great Britain in 1861 [and 1863], by Max Muller, p. 148, original from = Oxford University
↑Almanach de la littérature du théatre et des beaux-arts, Pagnerre, 1866, p. 92-93
↑Clémentine Portier-Kaltenbach, Histoires d'os et autres illustres abattis : Morceaux choisis de l'Histoire de France, Jean-Claude Lattès, , 264 p. (ISBN2-7096-2830-9)
↑Guitard Eugène-Humbert, « Le cerveau de Voltaire », Bulletin de la Société d'histoire de la pharmacie, vol. 16, no 57, 1928, p. 17-18
↑Au sujet de son appartenance à la Franc-maçonnerie, voir : Jean van Win, Voltaire et la franc-maçonnerie sous l'éclairage des rituels du temps, Télètes, Paris, 2012.
: document utilisé comme source pour la rédaction de cet article.
Ressources bibliographiques
Barr, Mary Margaret Harrison. Quarante années d'études voltairiennes, bibliographie analytique des livres et articles sur Voltaire, 1926-1965, Paris: A. Colin, 1968.
Barr, Mary Margaret Harrison. A Century of Voltaire Study. À Bibliography of Writings on Voltaire, 1825-1925, New York: B. Franklin, 1972.
Bengescu, George. Voltaire, bibliographie de ses œuvres, Paris: Perrin, 1882-1890 (Reproduction anastatique: Nendeln, Lichtenstein: Kraus Reprint, 1977-1979 (4 volumes).
t. 1. Théâtre. Poésies. Grands ouvrages historiques. Dictionnaire philosophique et Questions sur l'Encyclopédie. Romans.
t. 2. Mélanges. Ouvrages édités par Voltaire. Ouvrages annotés par Voltaire.
t. 3. Correspondance. Cent lettres de Voltaire non recueillies dans
les diverses éditions de ses œuvres. Répertoire chronologique de la
correspondance de Voltaire de 1711 à 1778, avec l'indication des
principales sources de chaque lettre.
t. 4. Œuvres complètes de Voltaire. Principaux extraits de Voltaire. Ouvrages faussement attribués à Voltaire.
Bestermann, Theodore. Some Eighteenth-century Voltaire editions unknown to Bengesco, Banbury, Voltaire Foundation, 1973.
Spear Frederick A. avec la participation de Elizabeth Kreager, Bibliographie analytique des écrits relatifs a Voltaire: 1966-1990, Oxford: Voltaire Foundation, 1992.
Études
Triple hommage à Voltaire.
Sébastien Longchamp [Valet de chambre et copiste de Voltaire, de 1746 à 1751.], Anecdotes sur la vie privée de Monsieur de Voltaire. Texte établi par Frédéric S. Eigeldinger. Présenté et annoté par Raymond Trousson. Éditions Honoré Champion, 2009. 1 vol. , 344 p., relié, 15 × 22 cm. (ISBN978-2-7453-1861-9)
Société Voltaire (Ferney).
La Société Voltaire organise chaque année à Ferney des journées
d’échanges des jeunes chercheurs et publie plusieurs fois par an un Bulletin de la Société Voltaire.
Société des Études voltairiennes (Sorbonne).
La Société des études voltairiennes, dont le siège social est au Centre
d’Étude de la Littérature et de la Langue Françaises des XVIIe et XVIIIe
siècles, Université Sorbonne – Paris IV, coordonne les études,
recherches et manifestations relatives à Voltaire. Elle s'occupe, avec
d’autres universités, dont Lyon II et Oxford, de la réalisation de
l’édition critique des Œuvres complètes de Voltaire. Elle organise tous les ans à Paris des « Journées Voltaire » et publie une revue annuelle, la Revue Voltaire, aux Presses Universitaires de la Sorbonne.