mardi 28 juin 2022

Tại sao nhà thờ Đức Bà xây thêm 2 tháp chuông?



Theo Pierre Barrelon tác giả bài viết về Nhà thờ Đức Bà trong Tạp chí Địa lý mạo hiểm Le tour du Monde xuất bản từ tháng 7 đến 12.1893 cho biết: tại thời điểm xây dựng nhà thờ Đức Bà vào tháng 10.1877, Sài Gòn lâm vào tình trạng thiếu nước ngọt khiến chính quyền lúc đó phải tìm nguồn nước cung cấp cho người dân. Thật tình cờ trong khi làm việc, công nhân tìm thấy một tầng nước nằm sâu dưới lòng đất gần khu vực nhà thờ. Cuối năm 1877, chính quyền xây dựng tháp nước đầu tiên ở địa điểm Hồ Con Rùa hiện nay. Nước được bơm về tháp nước này sau đó được phân phối cho người dân thông qua mạng lưới đường ống ngầm...."Đó là tầng chứa nước ngầm tuyệt vời mà bấy giờ nhiều thành phố ở Pháp cũng phải ghen tị. Dòng chảy của mạch nước ngầm này là vô tận cả trong mùa khô và mùa đông. Nước lúc nào cũng có ở đài phun nước công cộng và đường ống không bao giờ khô cạn".

Tuy nhiên, như Pierre Barrelon tiếp tục giải thích, sự phát hiện của tầng chứa nước ngầm này lại không được chào đón bởi đội ngũ đang xây dựng nhà thờ. Tầng nước ngầm này vô tình đã gây ra muôn vàn khó khăn cho việc thi công nhà thờ Đức Bà - một công trình xây dựng hạng nặng - khiến bên thi công phải đưa ra nhiều giải pháp khắc phục. Tuy vậy cuối cùng nhà thờ cũng được hoàn tất và được khánh thành ngày 11.4.1880 với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ lúc đó là Le Myre de Vilers.

Trong những năm tiếp theo, công trình tuyệt đẹp bằng gạch và đá này trở nên thân thiết với người Sài Gòn.
Cho đến một ngày, một số cư dân phát hiện nhà thờ bắt đầu nghiêng qua một bên, một trong những phần của nhà thờ bắt đầu chìm nhẹ xuống khiến hai tòa tháp nằm phía trước nhà thờ có chiều cao không đồng đều.

Việc xử lý sự cố nghiêng lún của nhà thờ được thực hiện gấp rút nhưng độ nghiêng của nhà thờ vẫn còn. Cuối cùng, giải pháp được đưa ra là bổ sung hai ngọn tháp sắt với chi phí 66.500 franc trên hai tháp chuông phía trước nhà thờ.
(bài viết Ngọn tháp kim loại của Nhà thờ Sài Gòn của tác giả Albert Butin xuất bản tháng 5.1896 trên Tạp chí Le Génie civil mô tả chi tiết việc xây dựng hai ngọn tháp được giao cho Michelin) Công việc này được tiến hành vào ngày 26.12.1894. Hai ngọn tháp được gắn thêm vào cao 27 m, có hình bát giác (8 cạnh), trên đỉnh tháp có gắn cây thánh giá. Có bốn cửa sổ nằm xung quanh tháp để tạo sự thông thoáng cho phía trên tòa nhà.

Cũng theo tác giả Albert Butin, trong quá trình thi công ngọn tháp, một quyết định được đưa ra là tăng thêm một chút chiều cao của ngọn tháp phía tây (nằm bên phía công viên 30.4), làm cho nó cao hơn ngọn tháp phía đông (nằm bên phía tòa nhà Bưu điện Sài Gòn) nhằm khôi phục lại sự cân xứng của toàn bộ tòa nhà khi nhìn trực diện từ phía trước. Hai ngọn tháp đã được hoàn tất vào ngày 28.2.1895.

Hồng Phúc chuyển

GẮNG MÀ HIỂU CHO TƯỜNG!

 GẮNG MÀ HIỂU CHO TƯỜNG!



“Hỡi những người lãng quên Thiên Chúa, gắng mà hiểu cho tường!”.

Thánh Augustinô nói, “Sự hiểu biết là phần thưởng của niềm tin. Vì vậy, đừng tìm cách hiểu tại sao bạn có thể tin; nhưng hãy tin rằng, bạn có thể hiểu!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Đừng tìm cách hiểu tại sao bạn có thể tin; nhưng hãy tin rằng, bạn có thể hiểu!”. Thật thú vị, Lời Chúa hôm nay đặt cho chúng ta một câu hỏi từ ý tưởng của Augustinô, ‘Vậy tại sao bạn không tin?’. Như Israel thời Amos, hoặc như viên luật sĩ thời Chúa Giêsu, thật khó tin, nhiều lúc, dường như chúng ta không biết Thiên Chúa là ai; đúng hơn, chúng ta lãng quên Ngài! Thánh Vịnh đáp ca hôm nay nói, “Hỡi những người lãng quên Thiên Chúa, ‘gắng mà hiểu cho tường!’”.

Qua bài đọc thứ nhất, Amos lưu ý dân, ‘gắng mà hiểu cho tường’ những việc Thiên Chúa làm. Sự quan tâm và chăm sóc Ngài đã dành cho họ giờ đây phải được phản ánh trong sự quan tâm và chăm sóc của họ đối với cộng đồng, nhất là với những người yếu đuối và dễ bị tổn thương. Vậy mà, đáp lại, những hành vi bất nhân của họ vẫn xảy ra nhan nhản, và điều đó khiến Thiên Chúa nổi giận; Ngài lên tiếng, “Các ngươi sẽ rên siết như tiếng rít của một chiếc xe chở đầy cỏ bị kẹt”. Vì vậy, đừng như Israel, bạn và tôi ‘gắng mà hiểu cho tường’ việc Chúa làm cho mình!

Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho thấy quá trình chuyển tiếp để trở thành một môn đệ của Ngài thật không dễ! Đang khi người môn đệ cần quảng đại giao phó ý chí của mình cho Chúa một cách vô điều kiện, thì viên luật sĩ lại cậy vào ý chí riêng của bản thân một cách cao cả nhất có thể, “Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, tôi cũng xin theo Thầy!”. Chúa Giêsu không lạnh lùng bỏ qua con người tự tôn này; Ngài tìm cách lôi cuốn ông vào một lối sống khác, một lối sống nghèo khó đơn sơ. Tuy nhiên, điều mà sự nghèo khó tự làm rỗng chính mình của Ngài không phải là sự khốn khổ; đúng hơn, nó hấp dẫn và cuốn hút, vì nó là dấu chỉ không thể sai lầm về sự giàu có của Thiên Chúa. Gương nghèo khó của Chúa Giêsu cho phép bạn và tôi rời bỏ thế giới riêng của mình để tìm một điều gì đó tốt đẹp hơn, xứng đáng hơn với cuộc sống đã được ban tặng!  

Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn cho thấy, một môn đệ trở nên đồng nhất với Đấng Kitô không phải chỉ bằng ý chí, hoặc nhờ tích luỹ giáo lý, kiến thức và sự hiểu biết; nhưng bằng cách sống một cuộc sống chung với Ngài, vốn được sinh ra từ sự kết hợp với ý muốn của Ngài, nên giống Ngài. Ai muốn làm môn đệ Giêsu, ‘gắng mà hiểu cho tường’ rằng, Ngài đang thiết lập một nhịp độ nên thánh trong đời họ, mời họ bỏ lại ý chí của mình vì cuộc sống mới mà Ngài giới thiệu!

Tin Mừng còn nói đến một người khác được Chúa Giêsu gọi, “Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã”; Ngài đáp, “Hãy theo Ta, hãy để kẻ chết chôn kẻ chết!”. Có một âm sắc nào đó gần như tàn nhẫn trong phản ứng của Ngài trước những ngụy biện bào chữa của những ai tránh đi theo Ngài. Chúa Giêsu muốn nói, ‘gắng mà hiểu cho tường’, việc dứt bỏ khỏi những ước mong và khát vọng của bản thân là con đường dẫn đến sự đơn giản của trái tim; sự đơn giản này đòi hỏi chúng ta phải thành thật một cách khá khắc nghiệt với chính mình! 

Anh Chị em,

“Hỡi những người lãng quên Thiên Chúa, gắng mà hiểu cho tường!”. Như vậy, đi theo và đồng hành với Chúa Giêsu, ở lại với Ngài… đòi hỏi bạn và tôi phải ‘ra khỏi chính mình’, ra khỏi cái tôi, thoát khỏi lối sống đức tin tẻ nhạt vốn đã trở thành thói quen, hoặc duy ý chí. ‘Ra khỏi chính mình’ là ra khỏi cám dỗ rút lui vào kế hoạch riêng của mình; bởi lẽ, tất cả những điều đó sẽ dập tắt không thương xót hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không có một nơi gối đầu, vì nhà của Ngài chính là những trái tim con người; chính chúng ta là nơi cư ngụ của Ngài. Sứ mệnh của Ngài là mở cửa lòng thương xót cho mọi người; và mỗi chúng ta, sẽ là những nhà tạm di động, trở thành nơi hiện diện thường xuyên của tình yêu đầy lòng xót thương đó.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin biến trái tim con nên đơn sơ và quảng đại; hầu mỗi ngày, con thấu hiểu tường tận thánh ý nhiệm mầu của Chúa đang thực hiện trên con và trên anh chị em con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

lundi 27 juin 2022

La capucine , tout est comestible, un régal

La capucine , tout est comestible, un régal

la capucine, tout se mange
Dans la capucine tout se mange ; les fleurs, les feuilles et les graines. Apprenez à l’apprivoiser dans vos salades pour retrouver des goûts d’autrefois. La capucine est utilisée en cuisine depuis Charlemagne, rien de nouveau, mais à redécouvrir.

 LA CAPUCINE, UNE PLANTE UTILE

La capucine est une plante facile à semer et à faire pousser dans son jardin. Sans poser de problème particulier, il faut le lui reconnaitre, la capucine est une des plantes les plus utiles au jardin. Au potager, on la sème volontiers pour attirer les pucerons qui en raffolent ; ainsi les autres plantes ont une paix royale.

Souvent, on l’utilise pour garnir des clôtures disgracieuses et avec ses touches colorées, elle donne de la gaité.

LA CAPUCINE EST À DÉVORER

La capucine est une plante annuelle décorative mais aussi gustative. Ces feuilles regorgent d’une huile essentielle au léger goût poivré qui relèvera le goût de toutes vos salades. Dans les sandwichs,  à la place de la traditionnelle salade, elle  apportera une note piquante.

La fleur très décorative et attractive, est à croquer. Bien sur, elle va égayer vos salades et vos palais. Attention, toutefois à disposer les fleurs dans votre salade à la dernière minute, sinon la vinaigrette va les cuire et le visuel ne ressemblera à rien.

Les graines ont des propriétés antiseptiques. Une fois écrasées et infusées, elles sont efficaces contre les maux de gorges, les sinusites et même les infections urinaires. Cette même infusion peut être utilisée par application, afin de corriger quelques imperfections sur une peau un peu grasse.

LES BOUTONS FLORAUX ET LES GRAINES, UN SUPER CONDIMENT !

Lorsque les fleurs fanées laissent la place aux fruits, c’est le moment de cueillir les grosses graines vertes, à la saveur piquante, qui rappelle celle des câpres. Il faut les placer une nuit dans un récipient, en les saupoudrant de gros sel. Le lendemain, égouttez et mettez en bocal avec de l’estragon, thym, laurier, ail, poivre. Je couvre de vinaigre bouillant.

Vous pouvez faire la même opération avec les boutons floraux lorsqu’ils sont encore petits et bien fermés. Les graines se récoltent surtout de septembre à octobre.

LA TRAPAEOLUM TUBÉREUSE

Sans oublier la capucine tubéreuse qui est vivace, dont les tubercules se mangent comme des pommes de terre. Ancien légume revenu à la mode, la plante est très décorative.

REF

CUỘC SỐNG KHÔNG BÁN VÉ KHỨ HỒI

 CUỘC SỐNG KHÔNG BÁN VÉ KHỨ HỒI



Tất cả rồi cũng sẽ trở thành quá khứ vậy tại sao ta không sống hết mình để có một quá khứ tuyệt vời nhất.

1. Đừng phí phạm thời gian để tìm hiểu xem người khác đánh giá bạn như thế nào. Bạn không cần quan tâm đến họ, bạn chỉ cần làm tốt công việc của mình, sống một cuộc đời hạnh phúc và thoải mái. Kể cả nếu bạn có bận tâm đến những lời người khác nói về mình, bạn cũng không thể kiểm soát được hết chúng, vậy thì chẳng việc gì phải đánh đổi những giây phút quý báu của bản thân để nhận lấy những lời bàn tán vô nghĩa.

2. Bạn không thể nào hạnh phúc nếu cứ để những thứ thuộc về quá khứ làm phiền cuộc sống hiện tại. Buông bỏ quá khứ khiến bạn có thể sống trọn vẹn và ý nghĩa hơn cho ngày hôm nay.

3. Khi còn trẻ còn khỏe, ai cũng có suy nghĩ phải tìm được một công việc thật tốt, nỗ lực hết mình vì nó để kiếm được nhiều tiền lo cho cuộc sống giàu sang hạnh phúc. Nhiều người đã chấp nhận đánh đổi cả gia đình, bạn bè, sức khỏe chỉ vì công việc. Nhưng đổi lại thì sao, khi bạn ốm đau, công việc trì trệ, nhiều người sẽ la mắng nhưng gia đình thì không bao giờ quay lưng lại với bạn. Kiếm tiền cũng tốt nhưng gia đình là điều vô giá mà không một đồng tiền nào có thể mua được.

4. Hãy đi gặp những người mà bạn muốn gặp. Theo đuổi những người mà bạn thích. Làm những việc mà bạn muốn. Nhân lúc mặt trời còn đang chiếu rọi, nhân lúc gió chưa thổi to, tuổi trẻ chưa qua đi. Hãy làm điều bạn muốn đừng để mọi thứ trở thành tiếc nuối.

5. Thời gian là miễn phí nhưng nó vô giá. Bạn không thể sở hữu nó, nhưng bạn có thể sử dụng nó. Bạn có thể dùng nó, nhưng bạn không thể giữ nó. Một khi bạn làm mất nó, bạn sẽ không thể nào có lại được nó.

6. Không có gì chắc chắn rằng bạn sẽ làm một công việc đến hết đời, hay được một người yêu mãi mãi. Trong xã hội nhiều ồn ào này, bạn phải luôn trong tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới mà không thể thỏa hiệp.
Chúc mọi người thật an lạc và hạnh phúc

SỰ THẬT MỘT KIẾP NGƯỜI

- Một ngày rất ngắn, ngắn đến mức chưa nắm được cái sáng sớm thì đã tới hoàng hôn.

- Một năm thật ngắn, ngắn đến mức chưa kịp thưởng thức sắc màu đầu xuân thì đã tới mùa đông giá lạnh.

- Một cuộc đời rất ngắn, ngắn tới mức chưa kịp hưởng thụ những năm tháng đẹp thì người đã già rồi.

- Sự việc luôn luôn đến quá nhanh mà hiểu ra thì quá muộn, cho nên chúng ta phải học cách trân trọng: trân trọng tình thân, tình bạn, tình đồng nghiệp, tình yêu, tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình đồng loại...
Vì một khi đã lướt qua, thì khó có thể gặp lại.
* Sau 20 tuổi thì đất khách và quê nhà giống nhau vì đi đến đâu cũng có thể thích ứng.
* Sau 30 tuổi thì ban ngày và ban đêm giống nhau vì mấy ngày mất ngủ cũng không sao.
* Sau 40 tuổi thì trình độ học vấn cao thấp giống nhau, học vấn thấp có khi kiếm tiền nhiều hơn.
* Sau 50 tuổi thì đẹp và xấu giống nhau vì lúc này có đẹp đến mấy cũng xuất hiện nếp nhăn và tàn nhang.
* Sau 60 tuổi thì làm quan lớn và quan bé giống nhau vì nghỉ hưu rồi cấp bậc giống nhau.
* Sau 70 tuổi thì nhà to và nhà nhỏ giống nhau vì xương khớp thoái hóa không thể đi được hết những không gian muốn đi.
* Sau 80 tuổi thì tiền nhiều và tiền ít giống nhau vì có tiêu cũng chẳng tiêu được bao nhiêu tiền.
* Sau 90 tuổi thì nam và nữ giống nhau vì không thể làm nổi chuyện gì nữa.
* Sau 100 tuổi thì nằm và đứng giống nhau vì đứng dậy cũng chẳng biết làm gì?!

Vậy nên: trước hay sau, trẻ hay già, giàu hay nghèo, sang hay hèn, quan hay dân dù là bất cứ ai đều giống nhau.

Hãy sống và giữ cho mình thứ tồn tại bất biến là: Niềm tin, Tình người và Nhân nghĩa.
St
Inline image

dimanche 26 juin 2022

Alzheimer : une étude révèle les 10 facteurs de risque et signes précoces les plus fréquents

 

Alzheimer : une étude révèle les 10 facteurs de risque et signes précoces les plus fréquents

Vérifié le 09/03/2022 par Florine Dergelet, Rédactrice
Alzheimer : une étude révèle les 10 facteurs de risque et signes précoces les plus fréquents

Une nouvelle étude franco-britannique a permis d’identifier les 10 pathologies les plus fréquentes chez les patients atteints d'Alzheimer. Les facteurs de risques ou signes avant-coureurs ont été observés jusqu’à 15 ans avant le diagnostic de la maladie.

 Identifier les états de santé associés à la maladie d'Alzheimer jusqu'à 15 ans avant le diagnostic

Dans une récente étude, des chercheurs français de l'Institut du cerveau à Paris et de l'Inserm à Bordeaux ont identifié les états de santé associés à la maladie d'Alzheimer jusqu'à 15 ans avant le diagnostic. Pour ce faire, ils ont utilisé les données médicales de près de 80 000 patients français et britanniques issues de la base de données européenne THIN (The Health Improvement Network). Sur les 80 000 patients, 40 000 étaient atteints de la maladie d’Alzheimer.

En s’appuyant sur des analyses statistiques, les chercheurs ont pu tester le lien entre l’apparition de la maladie et 123 associations possibles, extraites dans tout le corpus de données médicales. Ils ont alors pu définir les 10 pathologies les plus fréquentes qui apparaissent chez les malades jusqu’à 15 ans avant le diagnostic et l’apparition de la maladie d’Alzheimer.

 Les 10 pathologies les plus fréquemment rencontrées par les patients atteints d’Alzheimer

Selon les résultats de l’étude publiés dans la revue The Lancet Digital Health, les Les 10 pathologies les plus fréquemment rencontrées par les patients atteints d’Alzheimer sont dans l’ordre :

  • La dépression,
  • l’anxiété,
  • l'exposition à un stress important,
  • la perte d'audition,
  • la constipation,
  • la spondylarthrose cervicale,
  • les pertes de mémoire,
  • la fatigue et
  • les chutes et les pertes de poids soudaine
Selon Thomas Nedelec, l’un des auteurs de l’étude, « les rapprochements ainsi effectués nous ont permis de confirmer des facteurs de risque connus, comme les problèmes d'audition, et d'autres facteurs ou symptômes précoces qui le sont moins, comme la spondylarthrose cervicale ou la constipation ». « La question reste de savoir si les problèmes de santé rencontrés sont des facteurs de risque ou bien des symptômes ou signes avant-coureurs de la maladie » ajoute t-il.

Bien que les résultats soient précieux pour les professionnels de santé afin de détecter le plus tôt possible les signes précoces et facteurs de risques de la maladie, l’étude ne démontre pas de lien de cause à effet. Les résultats devront donc faire l'objet d'études complémentaires pour comprendre les mécanismes sous jacents de la maladie d’Alzheimer.

Florine Dergelet
Rédaction : Florine Dergelet
Rédactrice
09 mars 2022, à 10h19

La voie mystérieuse de Dieu



 “Je suis très timide et mal à l’aise avec les gens. Je suis totalement vide et sec en moi et pour moi-même. Je ne

sais jamais rien d’avance. Les lumières ne me viennent que pour les autres et à mesure qu’ils me demandent”.

Cette révélation du père Huvelin, directeur spirituel de Saint Charles de Foucauld, sur lui-même, m’a comme

illuminée et libérée, car je m’y reconnaissais complètement. D’autant plus que le conférencier a fait ce commentaire:

“Il faut Huvelin le souffreteux pour guider Foucauld le fougueux”. La voie de Dieu est si mystérieuse, Dieu ne se

sert-il pas de moi comme le père Huvelin pour certaines personnes?

Ceux qui gardent l’image de moi du temps où Dieu ne s’est pas encore servi de moi, me voient seulement comme

une personne douce, mais superficielle ("simple" pour ceux qui m’aiment), ne sachant pas réfléchir, n’ayant ni

volonté, ni position, donc influençable et qui change souvent d’avis. Et comment pourrais-je en être autrement, étant

donné que je suis “totalement vide et sèche en moi et pour moi-même”? Ce caractère vide et sec me suit aussi

dans la prière, ainsi, au début, j’étais très découragée, voulant abandonner la prière, mais, malléable, il m’était facile

de suivre le conseil de demeurer fidèlement en Dieu comme un acte de foi. Puis je ne sais depuis quand, il m’arrive

d’entendre l’un ou l’autre me dit que telle parole de moi l’a beaucoup aidé, alors que je ne me rappelle même pas lui

avoir dit cela.

Ne sachant pas penser, je ne sais pas méditer, à plus forte raison, contempler la Parole de Dieu. Mais également

selon un conseil, je lis toujours les textes de la Parole de Dieu pour préparer la messe du lendemain. Pendant un

voyage, une amie qui était dans la même chambre que moi, m’a demandé ce que disait la Parole de Dieu que je

venais de lire, toute gênée, j’ai répondu que je ne me souvenais de rien. Ainsi suis-je, mais, maintenant, quand il

s’agit de partager la Parole de Dieu avec les autres, je suis débordée d’dées, alors qu’avant, je ne savais que dire,

et que, même maintenant, lisant toute seule la Parole de Dieu, je continue de n’avoir aucune idée. Puis, de plus en

plus de personnes sont venus me faire des confidences, au début, je les ai écoutées comme une poubelle qui

recevait ce dont elles voulaient se débarrasser, mais, après, Dieu m’a donné de leur parler de telle manière que,

désormais, elles me considèrent comme leur “guide spirituelle” et pour tout problème, elles me demandent de

discerner pour elles et semblent être satisfaites de mes opinions.

Pourtant, “je ne sais jamais rien d’avance, les lumières ne me viennent que pour les autres et à mesure qu’ils me

demandent”. Par conséquent, j’ai très peur quand on me dit de penser par moi-même afin de faire un discernement

personnel. J’ai besoin de catalyseurs pour réagir: pour les autres, ce sont leurs épanchements ou leurs questions;

et pour moi-même, ce sont des événements, des rencontres, des conflits qui m’arrivent comme “par hasard”. Si

après, je dois faire un choix, je verrai la volonté de Dieu dans ce que, par nature, je ne veux pas ou ce qui exige de

moi le plus de sacrifices. Ces choix, je les fais toujours avec sénérité et sans hésitation, ainsi, quand la décision est

prise, je ne change jamais d’avis. Ce qui me rend plus convaincue que c’est la volonté de Dieu et que c’est lui qui

garantit ma fidélité.

Toutefois, aujourd’hui, je suis toujours vue comme quelqu’un qui change souvent d’avis et cela blesse parfois les

autres. Ne sachant pas réfléchir d’avance, je ne fais aucun plan pour moi, et ne vivant plus que pour les autres, je

fais ce que je pense être le mieux pour eux dans le moment présent. Me voyant tourmentée, une amie m’a

réconfortée en disant que je ne change pas d’avis, je suis juste flexible et change de programme pour d’autres

personnes ou pour un plus grand besoin, je le fais donc par amour et il n’y a rien de mal. Entendant cela, j’ai été

quelque peu soulagée, mais, à travers la parole du père Huvelin, je réalise que, des fois, je change d’avis non pas

pour quelqu’un d’autre mais pour moi-même. Il s’avère que, étant “très timide et mal à l’aise avec les gens”, après

avoir accepté d’assister à une occasion regroupant un grand nombre de personnes, à la dernière minute, je refuse

souvent d’y aller. En fait, généralement, je décline l’invitation dès le début, mais si on essaie de me convaincre, je

finis par accepter. J’espère que maintenant, connaissant la cause et ne voulant blesser personne, il me sera plus

facile d’être plus catégorique.

Mes amis, si jamais je vous ai blessés en changeant d’avis d’une manière ou d’une autre, je vous prie de me

comprendre et de me pardonner! Pour compenser, dans les moments difficiles, si vous ne savez plus à qui avoir

recours, appelez-moi, je viendrai sans tarder, et soyez certains qu’à ce moment-là je ne changerai jamais d’avis!

ULTD & ltd

22/05/2022

samedi 25 juin 2022

THÀNH TỰU KHOA HỌC CỦA HOA KỲ

 THÀNH TỰU KHOA HỌC CỦA HOA KỲ



Phát minh robot chui vào cơ thể tiêu diệt khối ác tính trong cơ thể và thông các mạch máu bị tắc hay cầm máu bên trong…
Hy vọng phát minh này sẽ giúp được nhiều cho nhân loại.
Con robot hình cua này bé tí xíu, chỉ nửa mm. Nhưng nó có thể chui vô cơ thể người để tìm và diệt các khối u ác tính, thông các mạch máu bị tắc hay cầm máu bên trong. Nó vừa được nhóm nghiên cứu tại đại học Northwestern tại Mỹ phát minh ra và công bố. John A. Rogers, một giáo sư về khoa học vật liệu và kỹ thuật là người đứng đầu nhóm nghiên cứu này.

Thêm vào đó, bởi vì toàn bộ cơ thể robot nhỏ hơn một milimet không cần dây điện hoặc điện để hoạt động, nó thậm chí có thể đi lang thang trong cơ thể con người vào một ngày nào đó, hoạt động giống như một trợ lý y tế sáu chân.

Túm lại, đây là một thành tựu mới cho Y khoa thế giới từ các bước tiến vượt bậc của khoa học vật liệu và robot.

Vì ở nhiều xứ sách giáo khoa là miễn phí, đi học phổ thông từ nhỏ tới hết lớp 12 cũng miễn phí, nên hỏng xảy ra các vụ tranh cãi mất thời gian làm gì. Rảnh thì ráng làm cái gì cả nhân loại đều cần như con robot tí hon này sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho thế gian hơn nhiều.

Hình từ đại học Northwestern

Nguồn : Nguyễn Thị Bích Hậu

vendredi 24 juin 2022

Đời người ngắn ngủi


Inline image

Đời người ngắn ngủi, bạn đã biết như thế nào là hạnh phúc? Người không cần thật đẹp, chỉ cần có tình yêu thương; người không cần phải thật giàu, chỉ cần cảm thấy ấm áp. Biết thỏa mãn, biết đạm bạc, đó chính là hạnh phúc.

Có một số việc, không phải không để ý, mà là có để ý thì sẽ như thế nào đây!

Đời người không có chữ nếu, chỉ có hậu quả và kết quả.

Trưởng thành chính là dùng nụ cười để đối diện với mọi việc.

Đường, có lúc không thông thì ta sẽ chọn đi đường vòng.

Tâm, lúc không thoải mái, thì ta xem nhẹ nó đi.

Tình cảm, đến lúc rời bỏ, nên để tùy duyên.

Có một số việc, cố gắng chút sẽ trôi qua.

Có một số người, rất hung ác thì nên quên đi.

Có chút khổ sở, chỉ cần cười lên sẽ tiêu tan hết thảy.

Có tổn thương, đau đớn qua đi, còn lại chính là sự kiên cường.

Rượu, không uống thì sẽ không say; người, không mệt mỏi sẽ không gục ngã; tâm, không bị thương sẽ không tan nát; việc, không học sẽ không biết.

Vạn người theo không bằng một người thương; vạn người yêu không bằng một người hiểu. Chuyện tình cảm không ai có lỗi với ai, chỉ có ai không hiểu ai; người cùng với người không có ai rời bỏ ai, chỉ có thể là ai không biết quý trọng ai.

Inline image

Người không cần thật đẹp, chỉ cần có tình yêu thương; người không cần phải thật giàu, chỉ cần cảm thấy ấm áp.

Biết thỏa mãn, biết đạm bạc, đó chính là hạnh phúc! Trong cuộc đời có một người yêu ta, hiểu ta, bao dung ta, lo lắng cho ta, thì ta chính là người hạnh phúc nhất.

Nếu có một ngày, có một người sẽ đi vào cuộc sống của ta, làm cho ta hiểu được vì sao ta cùng với những người khác đều không có kết quả. Kỳ thực, không có cái gì là không thể buông tay.

Thời gian trôi qua, khi ta nhìn lại, ta sẽ phát hiện, những thứ mà ta tưởng sẽ không thể buông tay, chỉ như là một lực đẩy, giúp ta trưởng thành.

Khi biết rằng mình có thể phấn đấu, thì đừng bỏ cuộc.

Chờ đợi thật khổ sở, nhưng hối hận sẽ càng khổ sở hơn.

Lúc tâm tình không tốt, nhắm mắt lại, tự nói với chính mình, đây chỉ là ảo giác.

Khóc cho mình nghe, cười cho người khác nhìn, đây được gọi là nhân sinh.

Cho dù chính mình không vui vẻ, cũng tuyệt đối không đi quấy nhiễu hạnh phúc của người khác, đây là nguyên tắc.

Những chuyện đã qua thì hãy để cho nó qua đi, nhất định hãy để nó qua đi.

Inline image

Cho dù đánh mất tất cả, cũng không được đánh mất nụ cười.

Cuộc đời không có điểm dừng, hiện tại luôn là điểm xuất phát.

Bất cứ ở đâu, bất cứ khi nào, không thể bỏ cuộc, chỉ có thể giữ vững ý chí phấn đấu, mới có thể chứng tỏ được sự tồn tại của sinh mệnh.


Cuộc sống mặc dù có khó khăn, nhưng nhất định phải tự mình đứng vững, không được dễ dàng dựa vào người khác. Học cách nhẫn nại, đừng phạm sai lầm của người khác, cũng đừng lấy sai lầm của người khác mà trừng phạt chính mình.

Hôm nay có thể là đại sự, nhưng tới ngày mai sẽ trở thành việc nhỏ; Năm nay sẽ là đại sự nhưng tới sang năm sẽ trở thành chuyện đã qua; kiếp này là đai sự, nhưng đến kiếp sau sẽ thành truyền thuyết. Chúng ta cùng lắm cũng chỉ là người có chuyện xưa mà thôi, cho nên, trong cuộc sống, trong công việc gặp việc không như ý, thì hãy nói với chính bản thân mình rằng: Hôm nay sẽ là quá khứ, ngày mai sẽ là tương lai, một ngày mới lại bắt đầu, cần buông bỏ hết thảy mọi thứ.

Inline image

Đời người tựa như cây Bồ công anh, nhìn thì như tự do, nhưng thân bất do kỷ. Nhân sinh không có nếu, chỉ có hậu quả cùng kết quả.

Vận mệnh chỉ do mình nắm giữ, người khác không thể nắm được.

Trưởng thành, chính là dùng nụ cười để đối diện với mọi việc. Khi phiền muộn hãy đọc bài này, đọc xong sẽ nhoẻn miệng cười.

Cái gì là của mình, thì sẽ là của mình. Càng muốn chiếm lấy thì càng dễ dàng mất đi.

Inline image

Mộng Thu

jeudi 23 juin 2022

Cảnh thần tiên phản chiếu trên mặt nước ở Nam Hàn

Cảnh thần tiên phản chiếu trên mặt nước ở Nam Hàn

Mặt nước như một tấm gương phản chiếu khổng lồ khiến cho những cảnh đẹp như được nhân lên gấp nhiều lần.



Jaewoon U, nhiếp ảnh gia đến từ Seoul, Nam Hàn đã dành thời gian khám phá vẻ đẹp tuyệt diệu của đất nước mình khi chọn những khung cảnh ven hồ nước đưa vào trong những bức ảnh.



Mặt nước phẳng gần như tuyệt đối phản chiếu toàn bộ cảnh quan khiến cho bức ảnh trở nên hoàn hảo.



Khung cảnh nên thơ như bước ra từ một câu chuyện cổ tích.



Cảnh đẹp được nhân đôi khi in bóng xuống mặt nước.



Thiên nhiên hài hòa tựa bức tranh.



Người xem như có cảm giác đang bước vào một chốn "bồng lai tiên cảnh".



Khung cảnh huyền ảo của mây trời, núi non.



Giấc mơ của mùa xuân.








Những mảng màu khác nhau của cây cối hòa vào nhau.



Sắc màu của mùa thu.



Huyền bí.




Hồ Anapji ở Gyeongsangbuk-do, Hàn Quốc.

Theo Hà Phương/VOV

CHÚA HẠNH PHÚC

 


Kitô giáo, Do thái giáo và Hồi giáo cuối cùng đều tin cùng một Thượng đế.  Điều thú vị là, trong tâm trí bình dân, tất cả đều có khuynh hướng quan niệm Chúa theo cùng một cách, cụ thể là nam giới, sống độc thân, và đặc biệt không hạnh phúc. 

Chắc chắn giới tính của Chúa là điều chúng ta không bao giờ khái niệm được.  Thượng đế không đàn ông cũng không đàn bà, cũng không phối hợp nam tính nữ tính của giới tính.  Vì thế làm sao chúng ta có một khái niệm về giới tính của Thượng đế được?  Chúng ta không thể, thuần túy và đơn giản.  Theo kiểu cổ điển, chúng ta nói Thượng đế là nam giới, dù chúng ta biết điều này hoàn toàn không đúng, vì về mặt giáo điều chúng ta khẳng định, Thiên Chúa là khó tả nên lời, không bao giờ có thể đặt Ngài trong một khái niệm nào được.  Điều này cũng áp dụng cho quan niệm của chúng ta về Thiên Chúa độc thân, không có vợ.  Kết hợp nam tính và nữ tính nơi Chúa cũng không thể tả nên lời được, không thể nhận thức nhưng chúng ta biết Chúa không chỉ đơn giản là một đấng nam nhi độc thân. 

Nhưng còn quan niệm phổ biến khác, cụ thể là Chúa đặc biệt không hạnh phúc, nhất là với chúng ta?  

Ở đây chúng ta có một câu trả lời rõ ràng: Chúa hạnh phúc.  Làm thế nào Chúa không thể hạnh phúc?  Nếu Chúa là Đấng trọn hảo duy nhất, trọn hảo lòng lành, chân lý trọn vẹn, đẹp toàn mỹ, viên mãn trọn vẹn về mọi mặt, thì làm sao Chúa lại không thể hạnh phúc trọn vẹn được?  Một Chúa không hạnh phúc sẽ không phải là Chúa vì như vậy Chúa không có quyền năng để làm cho mình hạnh phúc trọn vẹn được sao.  Không có một bất cập nhỏ nào với Chúa.  Vì thế một Thượng đế hoàn hảo cũng là một Thượng đế hoàn toàn hạnh phúc.  Nhưng đó là lời tuyên bố siêu hình.  Chúng ta vẫn có thể hỏi, Chúa có hạnh phúc về mặt tình cảm và Chúa có hạnh phúc với chúng ta không?  Hẳn đôi khi Chúa cũng phải nhíu mày và lắc đầu thất vọng trước hành vi của chúng ta đó sao?  Chắc chắn Chúa không thể hài lòng với rất nhiều điều đang xảy ra trong thế giới.  Chúa không thể hạnh phúc trước tội lỗi.

 

Và cũng giống như mọi điều khác về Chúa, có những điều ở đây chúng ta không thể hiểu được.  Tuy nhiên, cần phải khẳng định điều này, cả từ điều sâu sắc nhất được mặc khải trong Sách Thánh và trong chứng từ của vô số người tốt: Chúa hạnh phúc!  Chúa không quen thất vọng về chúng ta, không nhíu mày trước các yếu đuối của chúng ta và đưa đa số chúng ta xuống địa ngục.  Nhưng ngược lại, Chúa như cha mẹ yêu thương đứa con bé bỏng của mình, Chúa luôn hướng chúng ta đi về phía trước, vui với năng lượng của chúng ta, muốn chúng ta thăng tiến, buồn khi chúng ta cư xử không tốt với người khác và với chính chúng ta, nhưng Ngài thông cảm yếu đuối của chúng ta hơn là tức giận và không hạnh phúc.

 

Nhà thần nghiệm danh tiếng Julian de Norwich mô tả Chúa theo cách này: Chúa ở trên thiên đàng, mỉm cười, hoàn toàn thoải mái, gương mặt giống như bản giao hưởng kỳ diệu.  Cách đây vài năm khi đọc đoạn này lần đầu tiên, tôi đã sửng sốt vừa về khái niệm Chúa mỉm cười vừa hình ảnh Chúa “thoải mái.”  Tôi chưa bao giờ nghĩ Chúa “thoải mái.”  Với tất cả những gì xảy ra trong thế giới, và chắc chắn với tất cả các phản bội lớn nhỏ trong cuộc sống chúng ta, Chúa hẳn căng thẳng, thất vọng và lo lắng.  Hình dung Chúa đang cười (ít nhất là đôi khi) thì khó nhưng còn dễ hơn, nhưng cực kỳ khó để hình dung Chúa thoải mái, không căng thẳng về tất cả những gì không ổn với chúng ta và thế giới chúng ta.

 

Và đây là hành trình của tôi trong việc đấu tranh với điều này.  Tôi đã được ân phước vô cùng trong môi trường tôn giáo của tôi.  Từ cha mẹ và gia đình, từ cộng đoàn giáo xứ tôi lớn lên, từ các nữ tu Dòng Ursuline đã dạy tôi ở trường, quý vị không thể nào có một một môi trường đức tin lý tưởng hơn.  Tôi đã trải nghiệm đức tin và đời sống tu trì trong đời sống thực, và nó đã mang đến lòng tin tưởng cho tôi và trở nên hấp dẫn.  Việc đào tạo ở chủng viện và nghiên cứu thần học của tôi đã củng cố mạnh mẽ cho điều này.  Nhưng, trong suốt quá trình, bên dưới vẫn có bức tranh của một vị thần không được hạnh phúc cho lắm và người chỉ mỉm cười trong trường hợp xứng đáng và điều này cũng không thường xuyên cho lắm.  Hậu quả là trong đời sống của tôi luôn có khuynh hướng lo âu để ở tầm cao, để khá tốt, để không làm Chúa buồn và để được Chúa chấp thuận và yêu mến.  Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ có thể đủ tốt, không bao giờ ở tầm cao và vì thế, thật tự nhiên khi chúng ta nghĩ Chúa chẳng bao giờ thực sự hài lòng với chúng ta và Ngài cũng không bao giờ thực sự hạnh phúc. 

Dĩ nhiên về lý thuyết chúng ta biết rõ hơn.  Chúng ta thường có khái niệm lành mạnh hơn về Chúa; nhưng trái tim không dễ dàng để ở bên cạnh.  Thật khó để tôi cảm nhận trong tôi Chúa hạnh phúc, hạnh phúc với chúng ta, hạnh phúc với tôi.  Tôi đã mất bảy mươi năm để nhận ra, chấp nhận, an ủi và cuối cùng đắm mình trong sự thật, rằng Chúa hạnh phúc.  Tôi không chắc điều gì đã khơi trong tôi tất cả yếu tố thúc đẩy bên trong giúp tôi thay đổi, nhưng thực tế, bây giờ mỗi khi tôi cầu nguyện hết lòng, trần trụi và chân thành, tôi cảm nhận Chúa hạnh phúc.  Và đó cũng là điều xảy đến với tôi khi tôi nhìn các vị thánh trong cuộc đời tôi, các thánh nam nữ tôi tôn kính nhất trong đức tin, những người phản ánh khuôn mặt của Chúa cho tôi.  Họ vui vẻ, thoải mái và ít khi nhíu mày vì không hài lòng. 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

T.Anh chuyển

mardi 21 juin 2022

CÁC CỤ CỦA SÀI GÒN XƯA! Trên đường trở về ký ức của thành phố Saigon

 CÁC CỤ CỦA SÀI GÒN XƯA!

Trên đường trở về ký ức của thành phố Saigon
------------------------------------
Bài thật hay, đọc tới đâu nhớ lại thời niên thiếu tới đó.
Tác giả có 1 trí nhớ thật phi thường!
Tác giả: Bác Sĩ Trần Ngọc Quang

Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội…. luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước.
Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.
Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Trân Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.
Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : “nhờ vậy” mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách.
Sau khi “chạy giặc” hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ “Huyện Sỹ” đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.
Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại.
Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd, đường Frères Guillerault (có chữ “S” sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.
Trong lúc “tản cư” tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miễn phí lớp “Douzième” trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi.”Trường Chasseloup” xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ.
Hồi 1946 quân đội Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con Pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay.
Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ “Toà Tân Đáo” (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời gian để cạo mủ cao su !
Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette ?
Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.
Như vậy tôi thuộc vào thành phần “Nam Kỳ chánh cống” và “dân Sài Gòn một trăm phần trăm”, lớp tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và những bạn gốc “Bắc trước năm mươi tư” mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng !
Không phải tôi bị “tây hóa” nên không chịu dùng tên Việt Nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…
Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, “Chú Ba Xích Lô” mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).
Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn “Bờ Rô” để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ “préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông “Moreau”, tên của người quản thủ Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là “vườn Ông Thượng”, có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy.
Dưới thời Pháp thuộc vườn “Bờ Rô” nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long.
Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975.
Cũng có thể tên “Ông Thượng” là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là “vườn Bờ Rổ”, sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.
Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard : hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng của Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor Charner năm 1861.
Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d’Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.
Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa.
Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn.
Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống Pháp nên bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú.
Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt Nam<đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945.
Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm 1945 chánh phủ Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy.
Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.
Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lớp, nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái.
Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo “Kinh Tàu” (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn).
Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).
Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một “đứa con” của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d’Ypres cho vắng xe.
Đường nhỏ nầy ở sau “Mả Lá Gẫm”, đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.
Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngã khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
Rồi cứ đi theo mãi đường d’Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy của các Đề Đốc Pháp đóng tại đó) để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc Pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân Pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard.
Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là “Kinh Lớn” hay “Kinh Charner” đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Sảnh, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người Pháp lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi “đường Kinh Lấp” thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930.
Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay.
Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là “Bùng Binh” trước chợ Bến Thành mà người Pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Xã Sảnh, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier, nay là công trường Lam Sơn, để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873.
Nhiều đường khác cũng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẵng vào 1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.
Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền “Le Catinat” lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV).
Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều “Ông Tây” ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale.
Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dưới tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước “Nhà Hát Tây”, cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường “Keo Su” dài tới Nhà Thờ Đức Bà ; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông “Cha Cả” hay Evêque d’Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles.
Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay “Hồ Con Rùa”.
Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thường vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là “xe lửa giữa” vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia).
Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp.
Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ “e” chớ không phải với chữ “é” vì là người gốc Ý Đại Lợi.
Xe điện chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm “Le Jaccario” đậu gần đó trên “Kinh Tàu” hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, sau 1975 đổi tên là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel Thiên Hồng, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.
Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắn “giàn thun” trên mấy cây soài nên bị “Ông Từ” rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt “Ánh”.
Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học “trường tây” nên tôi thắc mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy ?
Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo “Nữ Giới Chung” cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?
Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì “Mì La Cai”, đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ.
Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà “Chú Hoả” cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Déjean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người Việt Nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.
Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh Pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos (sau đổi là đường Triệu Đà) là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.
Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites, sau là Trường Aó Tím) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi 1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người Việt và chánh quyền bảo hộ.
Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký !
Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài “Sử Gia” buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết.
Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng “Tả Quân Lê Văn Duyệt”, đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.
Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao phổi.
Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng.
Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson De Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập ; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916.
Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.
Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng “Lăng Cha Cả”, có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evèque d’Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787.
Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tích xưa nhứt của Sài Gòn “ở Gia Định” vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt.
Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm 1983 và chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 “Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine” và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cương …
Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cập có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.
Những tên đường Sài Gòn trong bài theo thời cuộc
Thời pháp thuộc Sau 1954 Sau 1975
Albert Premier Đinh Tiên Hoàng Đinh Tiên Hoàng
Amiral Roze Trương Công Định Trương Định
Armand Rousseau, Jean-Jacques Rousseau Trần Hoàng Quân Nguyễn Chí Thanh
Arras Cống Qùynh Cống Qùynh
Aviateur Garros, Rolland Garros Thủ Khoa Huân Thủ Khoa Huân
Barbé Lê Qúy Đôn Lê Qúy Đôn
Blancsubé, rue Catinat prolongée Duy Tân Phạm Ngọc Thạch
Bonard Lê Lợi Lê Lợi
Carabelli Nguyễn Thiệp Nguyễn Thiệp
Catinat Tư Do Đồng Khởi
Champagne Yên Đỗ Lý Chính Thắng
Charner Nguyễn Huệ Nguyễn Huệ
Chasseloup Laubat Hồng Thập Tự Nguyễn Thi Minh Khai
Chemin des Dames Nguyễn Phi Lê Anh Xuân
Colonel Boudonnet Lê Lai Lê Lai
Dixmude Đề Thám Đề Thám
Đỗ Hữu Vị, Hamelin Huỳnh Thúc Kháng Huỳnh Thúc Kháng
Douaumont Cô Giang Cô Giang
Ducos Triệu Đà Ngô Quyền
Duranton Bùi Thị Xuân Bùi Thị Xuân
Espagne Lê Thánh Tôn Lê Thánh Tôn
Eyriaud Des Vergnes Trương Minh Giảng Trần Quốc Thảo
Frédéric Drouhet Hùng Vương Hùng Vương
Frère Louis Võ Tánh Nguyễn Trãi
Frères Guillerault Bùi Chu Tôn Thất Tùng
Gallieni, rue des Marins Trần Hưng Đạo, Đồng Khánh Trần Hưng Đạo 1, Trần Hưng Đạo 2
Garcerie Duy Tân Phạm Ngọc Thạch
Général Lizé Phan Thanh Giản Điện Biên Phủ
Georges Guynemer Võ Di Nguy Hồ Tùng Mậu
Huỳnh Quan Tiên Hồ Hảo Hớn Hồ Hảo Hớn
Jaccario Tản Đà Tản Đà
Jauréguiberry Ngô Thời Nhiệm Ngô Thời Nhiệm
La Grandière Gia Long Lý Tự Trọng
Lacaze Nguyễn Tri Phương Nguyễn Tri Phương
Lacote Phạm Hồng Thái Phạm Hồng Thái
Larégnère Đoàn Thị Điểm Trương Định
Legrand De La Liraye Phan Thanh Giản Điện Biên Phủ
Léon Combes Sương Nguyệt Ánh Sương Nguyệt Anh
Mac Mahon, De Lattre De Tassigny, Gal De Gaulle Công Lý Nam Kỳ khởi nghĩa
Marins Đồng Khánh Trần Hưng Đạo 2
Miss Cavell Huyền Trân Công Chúa Huyền Trân Công Chúa
Nancy Cộng Hòa Nguyễn Văn Cừ
Nguyễn Tấn Nghiệm, rue de Cầu Kho Phát Diệm Trần Đình Xu
Nguyễn Văn Đưởm Nguyễn Văn Đưởm Nguyễn Văn Nghĩa
Ohier Tôn Thất Thiệp Tôn Thất Thiệp
Paul Blanchy Hai Bà Trưng Hai Bà Trưng
Pavie, Hui Bôn Hoả Lý Thái Tổ Lý Thái Tổ
Pellerin Pasteur Pasteur
Phan Thanh Giản Ngô Tùng Châu Lê Thị Riêng
Pierre Flandin Bà Huyện Thanh Quan Bà Huyện Thanh Quan
Pierre Pasquier Minh Mạng Ngô Gia Tự
Place Eugène Cuniac C.Trường Quách Thị Trang C.Trường Quách Thị Trang
Place Maréchal Joffre Công Trường Quốc Tế Hồ con Rùa
Richaud Phan Đình Phùng Nguyễn Đình Chiểu
Somme Hàm Nghi Hàm Nghi
Testard Trần Qúy Cáp Võ Văn Tần
Thévenet Tú Xương Tú Xương
Tổng Đốc Phương Tổng Đốc Phương Châu Văn Liêm
Trương Minh Ký, Lacant Trương Minh Ký Nguyễn Thị Diệu
Verdun, Gal Chanson, Nguyễn Văn Thinh Lê Văn Duyệt Cách mạng tháng 8
Ypres Nguyễn Văn Tráng Nguyễn Văn Tráng
11è R.I.C. Nguyễn Hoàng Trần Phú
BS Trần Ngọc Quang