samedi 13 février 2016

Falkland Islands-Stanley (12-2015)












Quần đảo Falkland (tiếng Anh: Falkland Islands /ˈfɔːlklənd/) hayQuần đảo Malvinas (tiếng Tây Ban Nha: Islas Malvinas [malˈβinas]) nằm tại Nam Đại Tây Dương. Các đảo chính của quần đảo này nằm cách 500 km về phía đông của bờ biển nam bộ Patagonia trên lục địa Nam Mỹ. Quần đảo có diện tích 12.200 km², gồm có đảo Đông Falkland, Tây Falkland và 776 đảo nhỏ hơn. Quần đảo là một lãnh thổ hải ngoại của Anh Quốc từ 1983, người Quần đảo Falkland là công dân Anh Quốc trên phương diện pháp luật., chịu trách nhiệm tự quản nội bộ, còn Anh Quốc chịu trách nhiệm về các sự vụ quốc phòng và đối ngoại. Thủ phủ của quần đảo là Stanley trên đảo Đông Falkland.








 Văn phòng du lịch







 Điên thoại công cộng

 Lên xe đi xem Chim Cánh Cụt





 trời gió lạnh và mây mù thêm mưa lất phất




Khu vực có đàn Penguins ở
Penguins đang nghỉ trưa nơi bãi cát trắng



Bầy chim cánh cụt 

Magellanic Penguins











 Nước xanh trong
 
 Có gió to, lạnh và mưa

gió quá muốn tung cả áo mưa
 một loại hoa vàng pinniped or nở rộ

 Gió làm bay tung cả áo

đến đỉnh núi đá rồi

 trên đỉnh đồi thấy thuyền trong vịnh




 quân đội Anh đặt súng phòng thủ khi xưa nơi đây










nằm nghỉ ngơi thoải mái



1 con Penguin lạc bầy



 một vài con lạc bầy


leo núi xem đá mệt nghỉ






hoa pinniped or mọc  rất nhiều
đến đỉnh núi đá rồi








2 con đi ăn lẻ

thêm cặp peingouin này nữa

 mưa nặng hột rồi, chị Đoan ơi phải ra xe đi về thôi


bị ướt khá nhiều rồi đó
Chim cánh cụt thanh thản nghỉ ngơi trên bãi cát trắng



bất thình lình cả đám đứng dậy
đến giờ về rồi, Bye Bye Chim cánh cụt


 trên đường về lại Stanley Falkland Islands




  ghé uống cà phê cho đỡ lạnh












có tý quà kỷ niệm















Nhà thờ Anh giáo












gối quỳ khá đẹp



















Thêm hình ảnh tuyệt đẹp của vùng Nam và Bắc cực do Quang Vinh chuyển

https://player.vimeo.com/video/41225777?badge=0

*******************************************************

Quần đảo Falkland

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quần đảo Falkland
Falkland Islands (tiếng Anh)
Islas Malvinas (tiếng Tây Ban Nha)
Flag of the Falkland Islands.svgCoa Falkland.svg
Quốc kỳHuy hiệu
Vị trí của Quần đảo Falkland
Khẩu hiệu
"Desire the right"
"Khát vọng lẽ phải"
Quốc ca
"God Save the Queen(chính thức)
"Song of the Falklands"[a]
Hành chính
Chính phủLãnh thổ hải ngoại của Anh
Quân chủNữ hoàng Elizabeth II
Thống đốcColin Roberts
Trưởng quan hành chínhKeith Padgett
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Anh
Thủ đôStanley
51°42′N, 57°51′T
Thành phố lớn nhấtthủ đô
Địa lý
Diện tích12.200 km²
4.700 mi²
Diện tích nước0 %
Múi giờFKST[d] (UTC-4)
Lịch sử
1833Anh Quốc tái khẳng định quyền quản lý
1841[b]Thuộc địa vương thất
1981Lãnh thổ phụ thuộc của Anh Quốc
2002Lãnh thổ hải ngoại của Anh Quốc
2009Hiến pháp hiện hành
Dân cư
Dân số ước lượng (2012)2.932[1] người (hạng 226.)
Mật độ(hạng 229)0,65 người/mi²
Kinh tế
GDP (PPP) (2007)Tổng số: 164,5 triệu USD[2](hạng 222)
Bình quân đầu người: 55.400 USD[2] (hạng 10)
HDI (2010)0.874[3] (hạng 20)
Đơn vị tiền tệBảng Quần đảo Falkland[c](FKP)
Thông tin khác
Tên miền Internet.fk
Mã điện thoại500
Quần đảo Falkland (tiếng AnhFalkland Islands /ˈfɔːlklənd/) hayQuần đảo Malvinas (tiếng Tây Ban NhaIslas Malvinas [malˈβinas]) nằm tại Nam Đại Tây Dương. Các đảo chính của quần đảo này nằm cách 500 km về phía đông của bờ biển nam bộ Patagonia trên lục địa Nam Mỹ. Quần đảo có diện tích 12.200 km², gồm có đảo Đông FalklandTây Falkland và 776 đảo nhỏ hơn. Quần đảo là một lãnh thổ hải ngoại của Anh Quốc, chịu trách nhiệm tự quản nội bộ, còn Anh Quốc chịu trách nhiệm về các sự vụ quốc phòng và đối ngoại. Thủ phủ của quần đảo là Stanley trên đảo Đông Falkland.
Có tranh luận về vấn đề người châu Âu phát hiện và tiếp đến là thuộc địa hóa Quần đảo Falkland. Trong những thời điểm khác nhau, quần đảo có các khu định cư của Pháp, Anh Quốc, Tây Ban Nha, và Argentina. Anh Quốc tái xác nhận quyền thống trị của họ vào năm 1833, song Argentina duy trì tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo. Năm 1982, sau khi Argentina xâm chiếm quần đảo, Chiến tranh Falkland bùng phát với kết quả là lực lượng Argentina đầu hàng, quần đảo lại nằm dưới sự cai trị của Anh Quốc.
Dân số (2.932 cư dân năm 2012)[upper-alpha 1] chủ yếu gồm có người Quần đảo Falkland bản địa, phần lớn họ có huyết thống Anh Quốc. Các dân tộc khác gồm có người Pháp, người Gibraltar và ngườiScandinavia. Nhập cư từ Anh Quốc, đảo Saint Helena, và Chile giúp đảo ngược hiện tượng suy giảm dân số. Ngôn ngữ chiếm ưu thế (và chính thức) là tiếng Anh. Theo một đạo luật được Quốc hội Anh thông qua vào năm 1983, người Quần đảo Falkland là công dân Anh Quốc trên phương diện pháp luật.
Cả hai đảo lớn của quần đảo đều có các dãy núi đạt độ cao 2.300 foot (700 m). Quần đảo là nơi sinh sống của các quần thể chim lớn, song nhiều quần thể không còn sinh sản trên các đảo chính do sự cạnh tranh của những loài du nhập. Các hoạt động kinh tế chính tại quần đảo gồm có ngư nghiệp, du lịch, và chăn nuôi cừu, với trọng điểm là xuất khẩu len chất lượng cao. Hoạt động thăm dò dầu mỏ được Chính phủ Quần đảo Falkland cấp phép, song vẫn là vấn đề gây tranh luận do tranh chấp hàng hải với Argentina.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Quần đảo Falkland lấy tên theo eo biển Falkland vốn chia tách hai đảo chính của quần đảo.[4] Thuyền trưởng người Anh John Strong là người đặt tên "Falkland" cho kênh, ông đổ bộ lên quần đảo vào năm 1690. John Strong chọn tên gọi này nhằm vinh danh Thủ quỹ Hải quân Anh là Tử tước Anthony Cary xứ Falkland, là người bảo trợ cho hành trình.[5][6] Tước hiệu của Tử tước bắt nguồn từ thị trấn Falkland,Scotland, và tên gọi này bắt nguồn từ "folkland" (vùng đất nắm giữ theo luật folk-right).[7] Tên gọi này không được áp dụng cho quần đảo cho đến năm 1765, khi mà Thuyền trưởng John Byron của Hải quân Hoàng gia Anh tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo nhân danh Quốc vương George III với tên "Falkland's Islands".[8][9] Thuật ngữ "Falklands" là từ viết tắt chuẩn được sử dụng để đề cập đến quần đảo.
Tên tiếng Tây Ban Nha của quần đảo (Islas Malvinas) bắt nguồn từ tên tiếng Pháp Îles Malouines, nhà thám hiểm người Pháp Louis Antoine de Bougainville đặt tên này cho quần đảo vào năm 1764.[10]Louis Antoine de Bougainville là người thành lập khu định cư đầu tiên trên quần đảo, ông đặt tên khu vực theo cảng Saint-Malo (nơi các tàu của ông khởi hành).[6][11] Cảng này nằm tại vùng Bretagne thuộc tây bộ Pháp, và được đặt tên theo Thánh Malo (hay Maclou)- nhà truyền giáo Phúc Âm thành lập thành phố.[12]
Trong kỳ họp thứ 20 của Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, Ủy ban Thứ tư quyết định rằng ngoài tiếng Tây Ban Nha thì trong toàn bộ các ngôn ngữ, tất cả tài liệu của Liên Hiệp Quốc sẽ gọi tên lãnh thổ là Quần đảo Falkland (Malvinas). Trong tiếng Tây Ban Nha, lãnh thổ được gọi tên là Islas Malvinas (Falkland Islands).[13]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Người Fuego có thể từng đến Quần đảo Falkland vào thời tiền sử,[14] song khi được người châu Âu phát hiện thì quần đảo không có người ở.[15] Các tuyên bố phát hiện xuất hiện từ thế kỷ 16, song không có sự nhất trí về việc liệu những nhà thám hiểm ban đầu này có phát hiện được Quần đảo Falkland hoặc các đảo khác tại Nam Đại Tây Dương hay không.[16][17][upper-alpha 2] Cuộc đổ bộ có ghi chép đầu tiên lên quần đảo được cho là của Thuyền trưởng người Anh John Strong, người này đang trên đường đến miền duyên hải của Peru và Chile vào năm 1690, phát hiện eo biển Falkland và ghi chép về vùng biển và động vật hoang dã trên quần đảo.[19]
Quần đảo Falkland vẫn không có người ở cho đến năm 1764, khi thuyền trưởng người Pháp Louis Antoine de Bougainville thiết lập Port Louis trên đảo Đông Falkland. Năm 1766, thuyền trưởng người Anh Quốc John MacBride thành lập Port Egmont trên đảo Saunders.[upper-alpha 3] Vấn đề các khu định cư có nhận thức được sự hiện diện của nhau hay không là chủ đề gây tranh luận giữa các sử gia.[22][23] Năm 1766, Pháp từ bỏ yêu sách đối với Quần đảo Falkland cho Tây Ban Nha, và đế quốc này đổi tên thuộc địa của Pháp thành Puerto Soledad vào năm sau.[24] Các vấn đề bắt đầu khi Tây Ban Nha phát hiện Port Egmont; và chiếm cảng vào năm 1770, hai bên tránh được chiến tranh do Tây Ban Nha hoàn trả cho Anh Quốc vào năm 1771.[25]
Hai khu định cư của Anh Quốc và Tây Ban Nha cùng tồn tại trên quần đảo cho đến năm 1774, khi mà Anh Quốc tự nguyện triệt thoái khỏi quần đảo do suy xét đến kinh tế và chiến lược mới, để lại một tấm biển tuyên bố chủ quyền Quần đảo Falkland nhân danh Quốc vương George III.[26] Phó vương quốc Río de la Plata của Đế quốc Tây Ban Nhalà bên duy nhất có sự hiện diện chính phủ trên lãnh thổ. Đảo Tây Falkland bị bỏ rơi, và Puerto Soledad trở thành nơi hầu như là một trại tù.[27] Trong khi Anh Quốc xâm chiếm Río de la Plata, thống đốc của quần đảo rút đi vào năm 1806; đơn vị đồn trú còn lại của Tây Ban Nha cũng làm vậy vào năm 1811, ngoại trừ các gaucho và ngư dân tự nguyện ở lại.[27]
Sau đó, chỉ có các tàu cá đi đến quần đảo; tình trạng chính trị của quần đảo không bị tranh chấp cho đến năm 1820, khi Thượng tá David Jewett, một tư lược người Mỹ làm việc cho Liên hiệp tỉnh Río de la Plata, thông báo cho các tàu thả neo về tuyên bố chủ quyền vào năm 1816 của chính phủ tại Buenos Aires đối với các lãnh thổ của Tây Ban Nha tại Nam Đại Tây Dương.[28][29][upper-alpha 4] Do quần đảo không có cư dân thường xuyên, đến năm 1823 thì chính phủ tại Buenos Aires ban cho thương nhân sinh tại Đức là Luis Vernet giấy phép để quản lý các hoạt động ngư nghiệp và khai thác bò hoang trên quần đảo.[upper-alpha 5] Luis Vernet định cư trên những tàn tích của Puerto Soledad vào năm 1826, và tích lũy tài nguyên trên quần đảo cho đến khi đầu cơ đạt đủ để đưa người định cư đến và hình thành một thuộc địa thường xuyên.[33][34] Năm 1829, chính phủ tại Buenos Aires bổ nhiệm Luis Vernet là chỉ huy viên quân sự và dân sự của quần đảo,[35] và ông nỗ lực điều tiết nhằm chấm dứt các hoạt động của những người ngoại quốc săn bắt cá voi và hải cẩu.[27] Sự đầu cơ của Luis Vernet kéo dài cho đến khi xảy ra một tranh chấp về quyền đánh cá và săn bắn dẫn đến một cuộc tập kích của chiến hạm Hoa Kỳ USS Lexington vào năm 1831,[36][upper-alpha 6] khi đó sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ Silas Duncan "tuyên bố chính phủ đảo kết thúc".[37]

Miêu tả một khu định cư tại quần đảo Falkland vào năm 1849; tranh của Đô đốc Hải quân Hoàng gia Anh Edward Fanshawe
Chính phủ tại Buenos Aires cố gắng duy trì ảnh hưởng đối với khu định cư bằng việc đặt một đơn vị đồn trú, song xảy ra binh biến 1832, đến năm sau thì lực lượng Anh Quốc đến và tái xác nhận quyền cai trị của Anh Quốc.[38]Liên bang Argentina (đứng đầu là Thống đốc Buenos Aires Juan Manuel de Rosas) kháng nghị các hành động của Anh Quốc,[39][upper-alpha 7] và các chính phủ Argentina kể từ sau đó duy trì kháng nghị chính thức phản đối Anh Quốc.[42][upper-alpha 8] Binh sĩ Anh Quốc dời đi sau khi hoàn thành sứ mệnh của họ, để lại khu vực "gần giống như đất không người".[44] Cấp phó của Luis Vernet là một người Scotland mang tên Matthew Brisbane trở lại quần đảo trong cùng năm để khôi phục thương nghiệp, song các cố gắng của người này kết thúc sau khi gaucho Antonio Rivero dẫn đầu một nhóm "người bất mãn" ám sát Brisbane và những lãnh đạo bề trên của khu định cư trong bối cảnh bất ổn tại Port Louis; những người sống sót trốn trong một hang trên một đảo lân cận cho đến khi Anh Quốc trở lại và khôi phục trật tự.[44][upper-alpha 9] Năm 1840, quần đảo Falkland trở thành một thuộc địa vương thất, sau đó những người định cư Scotland thiết lập một cộng đồng mục đồng chính thức.[46] Bốn năm sau, gần như mọi người chuyển tới Port Jackson vì cho rằng đây là địa điểm tốt hơn đối với chính quyền, và thương nhân Samuel Lafone bắt đầu một vụ đầu cơ nhằm khuyến khích người Anh Quốc thuộc địa hóa.[47][48][upper-alpha 10]
Port Jackson sớm đổi tên thành Stanley, và địa điểm này chính thức trở thành nơi đặt trụ sở chính phủ vào năm 1845.[50] Trong lịch sử ban đầu của mình, Stanley có danh tiếng tiêu cực do những tổn thất tàu vận tải; chỉ các trường hợp khẩn cấp mới khiến các tàu quanh mũi Sừng dừng tại cảng.[51] Tuy thế, vị trí địa lý của quần đảo Falkland tỏ ra lý tưởng đối với duy tu tàu và "mậu dịch tàu chìm", thương vụ mua bán tàu đắm và hàng hóa của chúng.[52] Ngoài hoạt động mậu dịch này, lợi ích thương nghiệp tại quần đảo là tối thiểu do da bò hoang lang thang trên các đồng cỏ có giá trị thấp. Tăng trưởng kinh tế bắt đầu chỉ sau khi Công ty Quần đảo Falkland, vốn là hãng phá sản của Lafone được mua lại năm 1851, giới thiệu thành công cừu Cheviot cho các nông trại len, thúc đẩy các nông trại khác theo sau.[53][upper-alpha 11] Nguyên liệu nhập khẩu có giá thành cao, cộng với thiếu lao động và hậu quả tất yếu là lương cao, đồng nghĩa với nghề duy tu tàu trở nên không thể cạnh tranh. Sau năm 1870, ngành duy tu tàu suy giảm do các thuyền hơi nước ngày càng thay thế các thuyền buồm, và nghiêm trọng hơn do giá than thấp tại Nam Mỹ; đến năm 1914, ngành này kết thúc trên thực tế khi kênh đào Panama được khánh thành.[54] Năm 1881, quần đảo Falkland trở nên độc lập về mặt tài chính với Anh Quốc.[50] Trong hơn một thế kỷ, Công ty Quần đảo Falkland chi phối mậu dịch và công việc trên quần đảo; thêm vào đó, hầu hết nhà ở tại Stanley thuộc quyền sở hữu của công ty.[51]

Đối kháng hải quân trong trận Quần đảo Falkland năm 1914; do William Lionel Wyllie vẽ
Trong nửa đầu thế kỷ 20, quần đảo Falkland đóng một vai trò quan trọng trong tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Anh Quốc đối với các quần đảo cận cực và một phần châu Nam Cực. Quần đảo Falkland quản lý các lãnh thổ này dưới chính thể Lãnh thổ phụ thuộc Quần đảo Falkland bắt đầu vào năm 1908, chính thể này tồn tại đến khi bị giải thể vào năm 1985.[55] Quần đảo Falkland cũng đóng một vai trò nhỏ trong hai thế chiến khi là một căn cứ quân sự trợ giúp kiểm soát Nam Đại Tây Dương. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhấttrận quần đảo Falkland diễn ra trong tháng 12 năm 1914, khi một hạm đội của Hải quân Hoàng gia Anh đánh bại một hải đoàn của Đế quốc Đức. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau trận sông La Plata vào tháng 12 năm 1939, tàu tuần dương HMS Exeter của Anh bị hư hại và chạy đến quần đảo Falkland để duy tu.[15] Năm 1942, do lo sợ Nhật Bản chiếm quần đảo, một tiểu đoàn của Anh Quốc đang trên đường đến Ấn Độ thì được tái bố trí đến đồn trú tại quần đảo Falkland.[56] Sau chiến tranh, kinh tế quần đảo Falkland chịu tác động từ việc giá len suy giảm và bất xác định về chính trị do kết quả từ tranh chấp chủ quyền hồi sinh giữa Anh Quốc và Argentina.[51]
Căng thẳng âm ỉ giữa Anh Quốc và Argentina tăng lên trong nửa cuối của thế kỷ 20, khi Tổng thống Argentina Juan Perón khẳng định chủ quyền đối với quần đảo.[57] Tranh chấp chủ quyền tăng cường trong thập niên 1960, một thời gian ngắn sau khi Liên Hiệp Quốc thông qua một nghị quyết về phi thực dân hóa và Argentina hiểu rằng điều này có lợi cho lập trường của họ.[58] Năm 1965, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 2065, kêu gọi hai quốc gia tiến hành đàm phán song phương để đạt được một giải pháp hòa bình cho tranh chấp.[58] Từ năm 1966 cho đến năm 1968, Anh Quốc thảo luận một cách bí mật với Argentina về vấn đề chuyển nhượng quần đảo Falkland, cho rằng quyết định của họ sẽ được người dân quần đảo chấp thuận.[59] Một hiệp định về liên kết mậu dịch giữa quần đảo và đại lục đạt được vào năm 1971, và bởi vậy Argentina xây dựng một đường băng tạm thời tại Stanley vào năm 1972.[50] Tuy thế, người Falkland bất đồng quan điểm, biểu lộ thông qua sự vận động hành lang mạnh mẽ của họ tạiQuốc hội Liên hiệp Vương quốc, và căng thẳng giữa Anh Quốc và Argentina hạn chế tính hiệu quả của các cuộc đàm phán về chủ quyền cho đến năm 1977.[60]
Do lo lắng đền phí tổn để bảo trì quần đảo Falkland trong một thời kỳ cắt giảm ngân sách, Anh Quốc lại cân nhắc chuyển nhượng chủ quyền quần đảo cho Argentina vào đầu nhiệm kỳ của Chính phủ Margaret Thatcher.[61] Các cuộc đàm phán chủ quyền mang tính thực tế lại kết thúc vào năm 1981, và tranh chấp leo thang theo thời gian.[62]Trong tháng 4 năm 1982, bất đồng biến thành một xung đột vũ trang khi Argentina xâm chiếm quần đảo Falkland vàcác lãnh thổ khác của Anh Quốc tại Nam Đại Tây Dương, chiếm đóng các đảo trong một thời gian ngắn cho đến khi lực lượng viễn chinh của Anh Quốc tái chiếm các lãnh thổ vào tháng 6.[63][64] Sau chiến tranh, Anh Quốc mở rộng sự hiện diện quân sự của họ, xây dựng Căn cứ Không quân RAF Mount Pleasant và tăng quy mô đơn vị đồn trú.[65]Chiến tranh cũng để lại 117 bãi mìn, chứa gần 20.000 mìn các loại, gồm cả các loại mìn chống xe và chống người.[66]Do số thương vong lớn trong việc rà phá mìn, các nỗ lực ban đầu nhằm dọn sạch mìn bị ngưng lại vào năm 1983.[66]
Theo kiến nghị của Nam tước Edward Shackleton, quần đảo Falkland đa dạng hóa kinh tế từ chỉ dựa vào cừu sang một nền kinh tế du lịch, và ngư nghiệp cùng với viết thiết lập vùng đặc quyền kinh tế của quần đảo.[67][upper-alpha 12]Mạng lưới đường bộ cũng được phát triển quy mô hơn, và việc xây dựng RAF Mount Pleasant cho phép các chuyến bay đường dài có thể tiếp cận quần đảo.[67] Thăm dò dầu mỏ cũng khởi động, với những dấu hiệu cho thấy có thể có trữ lượng khai thác thương mại trong bồn Falkland.[68] Công việc dọn quang bom mìn tái khởi động vào năm 2009, dựa trên các bổn phận của Anh Quốc theo Hiệp ước Ottawa, và bãi Sapper Hill được dọn sạch mìn vào năm 2012, cho phép tiếp cận một cảnh quan lịch sử quan trọng lần đầu tiên trong vòng 30 năm.[69][70] Argentina và Anh Quốc tái lập quan hệ ngoại giao vào năm 1990; quan hệ trở nên xấu đi do không bên nào có thể chấp thuận các điều khoản trong những thảo luận về tương lai chủ quyền.[71][72] Tranh chấp giữa các chính phủ khiến một số nhà phân tích dựa đoán về khả năng một cuộc xung đột lợi ích ngày càng cao giữa Argentina và Anh Quốc do các hoạt động ngư nghiệp tại vùng biển quanh Falkland phát triển trong thời gian gần đây.[73]

Chính phủ[sửa | sửa mã nguồn]


Tòa nhà chính phủ tại Stanley là dinh sự chính thức của thống đốc.
Quần đảo Falkland là một lãnh thổ hải ngoại tự trị của Anh Quốc.[74] Theo Hiến pháp năm 2009, quần đảo có đầy đủ quyền tự trị nội bộ; Anh Quốc chịu trách nhiệm về đối ngoại, duy trì quyền lực "nhằm bảo vệ các lợi ích của Anh Quốc và đảm bảo quản trị tốt về tổng thể của lãnh thổ".[75] Quân chủ Anh Quốc là nguyên thủ quốc gia, và thống đốc thực thi quyền lực hành pháp nhân danh quân chủ, thống đốc bổ nhiệm trưởng quan hành chính của quần đảo dựa theo cố vấn của các thành viên nghị hội.[76] Cả thống đốc và trưởng quan hành chính đều là người đứng đầu chính phủ.[77] Bộ trưởng của Anh Quốc chịu trách nhiệm về Quần đảo Falkland quản lý chính sách đối ngoại của Anh Quốc với quần đảo.[78]
Thống đốc hành động theo cố vấn của Hội đồng hành pháp của quần đảo, hội đồng gồm có trưởng quan hành chính, Bộ trưởng tài chính và ba thành viên được bầu từ Nghị hội (với thống đốc là chủ tịch).[76] Nghị hội của Quần đảo Falkland là đơn viện, gồm có trưởng quan hành chính, bộ trưởng tài chính và tám thành viên (năm từ Stanley và ba từ Camp) được bầu cho mỗi nhiệm kỳ 4 năm theo hình thức phổ thông đầu phiếu.[76] Toàn bộ chính trị gia tại Quần đảo Falkland là người độc lập; không tồn tại các chính đảng trên quần đảo.[79] Kể từ tổng tuyển cử năm 2013, các thành viên Nghị hội nhận được một khoản lương và được mong đợi làm việc toàn thời gian, từ bỏ toàn bộ các công việc hay lợi ích kinh doanh trước đó.[80]
Do liên kết của mình với Anh Quốc, Quần đảo Falkland là một trong số các quốc gia và lãnh thổ hải ngoại của Liên minh châu Âu.[81] Hệ thống tư pháp của quần đảo nằm dưới sự giám sát của Văn phòng Đối ngoại và Thịnh vượng chung, nó dựa phần lớn theo hệ thống pháp luật Anh,[82] và hiến pháp ràng buộc lãnh thổ với những nguyên tắc củaCông ước châu Âu về Nhân quyền.[75] Các cư dân có quyền thượng tố đến Tòa án Nhân quyền châu Âu và Xu mật viện.[83][84] Thực thi pháp luật là trách nhiệm của Cảnh sát Hoàng gia Quần đảo Falkland (RFIP),[82] và Anh Quốc cung cấp phòng thủ quân sự cho quần đảo.[85] Một đơn vị đồn trú của Anh Quốc đóng trên quần đảo, và chính phủ Quần đảo Falkland tài trợ Lực lượng phòng vệ Quần đảo Falkland, một lực lượng bộ binh nhẹ phụ trợ có quy mô đại đội.[86] Vùng biển của Quần đảo Falkland kéo dài 200 hải lý (370 km) từ đường cơ sở ven bờ, dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển; chồng lấn với giới hạn hàng hải của Argentina.[87]

Tranh chấp chủ quyền[sửa | sửa mã nguồn]

Anh Quốc và Argentina tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Falkland. Lập trường của Anh Quốc là nhân dân Quần đảo Falkland không biểu thị một mong muốn thay đổi, và rằng không có vấn đề chưa giải quyết liên quan đến quần đảo.[88][89] Cơ sở của Anh Quốc đối với lập trường của họ là sự quản lý liên tục của họ với quần đảo kể từ 1833 (ngoại trừ một thời gian trong năm 1982) và "quyền tự quyết như quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc" của nhân dân quần đảo.[90] Chính sách của Argentina cho rằng nhân dân Quần đảo Falkland không có quyền tự quyết, tuyên bố rằng vào năm 1833 Anh Quốc trục xuất các quan chức (và người định cư) Argentina khỏi Quần đảo Falkland bằng một đe dọa "vũ lực lớn hơn", và sau đó ngăn cản người Argentina tái định cư trên quần đảo.[91][92]Argentina thừa nhận quốc gia này giành được Quần đảo Falkland từ Tây Ban Nha khi giành độc lập vào năm 1816, và rằng Anh Quốc chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo vào năm 1833.[91]
Năm 2009, Thủ tướng Anh Quốc Gordon Brown họp với Tổng thống Argentina Cristina Fernández de Kirchner, và nói rằng sẽ không có thảo luận thêm về chủ quyền đối với Quần đảo Falkland.[93] Trong tháng 3 năm 2013, Quần đảo Falkland tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về tình trạng chính trị của mình, và có 99,8% số cử tri ủng hộ vẫn nằm dưới quyền quản lý của Anh Quốc.[94][95] Argentina không công nhận Quần đảo Falkland là một bên trong đàm phán;[96] do đó bác bỏ trưng cầu dân ý về chủ quyền của Quần đảo Falkland.[97]

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]


Bản đồ Quần đảo Falkland
Diện tích đất liền của Quần đảo Falkland là 4.700 dặm vuông (12.200 km²) và có tổng chiều dài đường bờ biển là 800 dặm (1.300 km).[98][99] Quần đảo có hai đảo chính là Tây Falkland và Đông Falkland, quanh chúng là 776 đảo nhỏ hơn.[100] Quần đảo chủ yếu có địa hình núi đồi,[101] với ngoại lệ lớn là các đồng bằng bị nén tại Lafonia.[102] Quần đảo Falkland là những mảnh vỡ vỏ lục địa bắt nguồn từ sự nứt vỡ của Gondwana và mở đầu Nam Đại Tây Dương vốn bắt đầu từ 130 triệu năm trước. Quần đảo nằm trên Nam Đại Tây Dương, trên thềm lục địa Patagonia, cách 300 dặm (500 km) về phía đông của Patagonia tại nam bộ Argentina.[103]
Quần đảo Falkland có giới hạn vĩ độ trong khoảng 51°40′ – 53°00′ S và kinh độ 57°40′ – 62°00′ W.[104] Hai đảo chính của quần đảo tách nhau qua eo biển Falkland,[105] và những nơi lồi lõm ven biển sâu của quần đảo tạo thành những hải cảng tự nhiên.[106][107] Trên đảo Đông Falkland có thủ phủ và khu dân cư lớn nhất của quần đảo là Stanley,[104] căn cứ quân sự của Anh Quốc RAF Mount Pleasant, và đỉnh cao nhất trên quần đảo: núi Usborne, với cao độ 2.313 foot (705 m).[105] Ngoài các khu dân cư quan trọng này còn có một khu vực được gọi thông tục là "Camp", bắt nguồn từ thuật ngữ nông thôn (Campo) trong tiếng Tây Ban Nha.[108]
Quần đảo có khí hậu hải dương lạnh, nhiều gió và ẩm.[103] Nhiệt độ trong ngày biến thiên ở mức bình thường trên khắp quần đảo.[109] Mưa thường xuất hiện trên nửa năm, trung bình tại Stanley đạt 610 milimét (24 in), và mưa tuyết nhẹ lác đác xuất hiện gần như trong cả năm.[101] Nhiệt độ thường dao động từ 21,1 °C (70 °F) đến -11,1 °C (12 °F) tại Stanley, song có thể biến đổi từ 9 °C (48 °F) vào đầu năm đến -1 °C (30 °F) trong tháng 7.[109] Gió tây mạnh và trời nhiều mây là hiện tượng phổ biến.[101] Mặc dù mỗi tháng lại ghi nhận được nhiều cơn bão, song điều kiện thời tiết thường yên lặng.[109]

Đa dạng sinh học[sửa | sửa mã nguồn]


Bầy chim cánh cụt thuộc loàiEudyptes chrysocome trên đảo Saunders.
Quần đảo Falkland về mặt địa lý học sinh vật là một bộ phận của đới Nam Cực ôn hòa,[110] có liên hệ mạnh mẽ với động thực vật tại Patagonia tại Nam Mỹ đại lục.[111] Các loài chim đất liền cấu thành hầu hết hệ chim của Quần đảo Falkland; 63 giống loài trên quần đảo, gồm cả 16 loài đặc hữu.[112] Quần đảo cũng phong phú về tính đa dạng các loài chân đốt.[113] Hệ thực vật của Quần đảo Falkland gồm có 163 loài có mạch bản địa.[114] Loài thú bản địa duy nhất trên đảo là warrah (hay cáo Quần đảo Falkland), chúng bị những người định cư gốc Âu săn bắn đến tuyệt chủng.[115]
Những loài thú biển như Mirounga leonina và Arctocephalus australis và các loài cá voi khác nhau hay lui tới vùng biển quanh Quần đảo Falkland; các đảo xa là nơi sống của loài Phalcoboenus australis hiếm có. Các loài cá đặc hữu quanh quần đảo chủ yếu thuộc chi Galaxias.[113] Quần đảo Falkland không có cây thân gỗ và có một hệ thực vật kháng phong chủ yếu bao gồm các loài cây bụi lùn khác nhau.[116]
Hầu như toàn bộ diện tích của quần đảo được sử dụng làm bãi cỏ cho cừu.[2] Các loài du nhập gồm có tuần lộc, thỏ,cáo Patagonia, lợn, ngựa, chuột nâu và mèo.[117] Tác động bất lợi mà một vài trong số những loài này gây ra cho hệ động thực vật bản địa khiến giới chức nỗ lực nhằm ngăn chặn, di chuyển hoặc tiêu diệt các loài xâm lấn như cáo, thỏ. Các động vật đất liền đặc hữu chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ những loài du nhập.[118] Không rõ về quy mô tác động của loài người lên Quần đảo Falkland, bởi có ít dữ liệu dài hạn về biến đổi môi trường sống.[111]

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]


Stanley là trung tâm tài chính của kinh tế Quần đảo Falkland.[119]
Kinh tế Quần đảo Falkland được xếp hạng lớn thứ 222/229 thế giới theo GDPPPP (2007), và xếp hạng 10 toàn cầu về GDP (PPP) bình quân đầu người (2002).[2] Tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4,1% trong năm 2010, và theo tính toán lần cuối cùng vào năm 2003 thì tỷ lệ lạm phát là 1,2%.[2] Theo dữ liệu năm 2010, quần đảo có chỉ số phát triển con người ở mức cao là 0,874[3] và hệ số Ginivề bất bình đẳng thu nhập ở mức trung bình với 34,17.[120] Tiền tệ địa phương là bảng Quần đảo Falkland, được cố định với bảng Anh.[121]
Phát triển kinh tế tiến bộ nhờ bổ cấp tàu và chăn nuôi cừu lấy len chất lượng cao.[122][123] Trong thập niên 1980, mặc dù các loại sợi tổng hợp và thiếu đầu tư cho trang trại gây tổn hại đến lĩnh vực chăn nuôi cừu, song chính phủ tạo lập một dòng thu nhập lớn từ việc thiết lập một vùng đặc quyền kinh tế và bán các giấy phép ngư nghiệp cho "bất kể ai muốn đánh cá trong vùng này".[124] Kể từ khi Chiến tranh Falkland kết thúc trong năm 1982, hoạt động kinh tế của quần đảo ngày càng tập trung vào thăm dò mỏ dầu và du lịch.[125]
Đô thị cảng Stanley lấy lại vị thế trọng tâm kinh tế của quần đảo, dân số gia tăng do có những người lao động nhập cư đến từ Camp.[126] Lo ngại về việc phụ thuộc vào những giấy phép ngư nghiệp và đe dọa từ đánh bắt cá quá mức, đánh bắt cá phi pháp và biến động giá cả thị trường cá khiến cho khoan dầu ngày càng được quan tâm trong vai trò là một nguồn thu nhập thay thế; các nỗ lực thăm dò vẫn chưa giúp phát hiện "trữ lượng có thể khai thác".[119] Chính phủ Quần đảo Falkland tài trợ cho các dự án phát triển về giáo dục và thể thao, không có viện trợ từ Anh Quốc cho các lĩnh vực này.[124]
Khu vực sơ khai của nền kinh tế chiếm phần lớn tổng sản phẩm nội địa của Quần đảo Falkland, riêng ngư nghiệp đóng góp 50%-60% cho GDP hàng năm; nông nghiệp cũng đóng góp đáng kể vào GDP và tạo công việc cho khoảng một phần mười dân số.[127] Hơn một phần tư số lao động phục vụ cho chính phủ Quần đảo Falkland, khiến chính phủ là chủ sử dụng lao động lớn nhất trên quần đảo.[128] Du lịch được thúc đẩy nhờ mối quan tâm ngày càng tăng đối với thám hiểm châu Nam Cực và thiết lập các đường bay thẳng kết nối với Anh Quốc và Nam Mỹ.[129][130] Du khách chủ yếu là hành khách trên tàu du lịch, họ bị thu hút từ loài hoang dã và môi trường của quần đảo, cũng như các hoạt động như câu cá và lặn khám phá tàu đắm; phần lớn dựa trên tiện nghi tại Stanley.[131][132] Các mặt hàng xuất khẩu chính của quần đảo gồm có len, da, thịt cừu, cá và mực; các mặt hàng nhập khẩu chính gồm có nhiên liệu, vật liệu xây dựng và trang phục.[2]

Nhân khẩu[sửa | sửa mã nguồn]


Nhân dân Quần đảo Falkland chủ yếu có huyết thống Wales và Scotland.[133]
Nhân dân Quần đảo Falkland có một xã hội đồng nhất, với đa số cư dân có huyết thống từ những người Scotland và Wales nhập cư, định cư tại lãnh thổ vào năm 1833.[133][upper-alpha 13] Điều tra nhân khẩu năm 2006 cho thấy một số dân cư Falkland là hậu duệ của những người PhápGibraltar vàScandinavia.[134] Cuộc điều tra này cho thấy rằng một phần ba dân cư sinh trên quần đảo, còn các dân cư sinh tại ngoại quốc bị đồng hóa vào văn hóa địa phương.[135] Thuật ngữ pháp lý đối với quyền cư trú là "thuộc về quần đảo".[76] Đạo luật quốc tịch Anh Quốc năm 1983 trao quyền công dân Anh Quốc cho nhân dân Quần đảo Falkland.[133]
Một xu thế suy giảm dân số đáng kể tác động đến quần đảo trong thế kỷ 20, khi nhiều dân cư trẻ rời khỏi quần đảo để tìm kiếm một phong cách sinh hoạt hiện đại và những cơ hội công việc tốt hơn.[136][137] Trong những năm gần đây, suy giảm dân số của quần đảo được cải thiện nhờ những người nhập cư từ Anh Quốc, Saint Helena và Chile.[138] Trong điều tra nhân khẩu năm 2012, đa số dân cư nhận là người Quần đảo Falkland (59%), tiếp đến là người Anh Quốc (29%), người Saint Helena (9,8%), và người Chile (5,4%).[1] Một số lượng nhỏ người Argentina cũng sinh sống trên quần đảo.[139]
Quần đảo Falkland có mật độ dân số thấp.[140] Theo điều tra nhân khẩu năm 2012, dân số thường nhật trung bình của Quần đảo Falkland là 2.932, ngoại trừ các nhân viên quân sự phục vụ trên quần đảo và những người phụ thuộc của họ.[upper-alpha 14] Một báo cáo năm 2012 tính rằng có 1.300 nhân viên mặc quân phục và 50 công vụ viên của Bộ Quốc phòng Anh Quốc hiện diện trên Quần đảo Falkland.[128] Stanley (với 2.121 dân cư) là điểm dân cư đông dân nhất trên quần đảo, tiếp theo là Mount Pleasant (369 dân cư, chủ yếu là nhà thầu căn cứ không quân) và Camp (351 dân cư).[1] Phân bổ độ tuổi của quần đảo nghiêng về độ tuổi lao động (20–60). Nam giới đông hơn nữ giới (53 so với 47 phần trăm), và sự khác biệt này nổi bật nhất trong nhóm tuổi 20–60.[134] Trong điều tra nhân khẩu năm 2006, hầu hết dân quần đảo tự nhận là tín đồ Cơ Đốc giáo (67,2%), tiếp đến là những người từ chối trả lời hoặc không liên kết tôn giáo (31,5%). 1,3% còn lại (39 người) là tín đồ của các đức tin khác.[134]
Giáo dục tại Quần đảo Falkland dựa theo hệ thống giáo dục Anh, miễn phí và bắt buộc đối với các dân cư trong độ tuổi từ 5 đến 16.[141] Giáo dục tiểu học hiện diện tại Stanley, RAF Mount Pleasant (cho trẻ của các nhân viên) và một số khu dân cư nông thôn. Giáo dục trung học chỉ hiện diện tại Stanley, tại đây có các tiện nghi nội trú và giảng dạy 13 môn học theo trình độ GCSE. Học sinh 16 tuổi hoặc lớn hơn có thể học tại các học viện ở Anh để đạt trình độ tiên tiến GCE hoặc học nghề. Chính phủ Quần đảo Falkland chi trả cho các sinh viên theo học giáo dục bậc đại học, thường là tại Anh Quốc.[141]

Văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]


Những Gaucho từ Nam Mỹ đại lục, như hai nam giới này đang thưởng thức mate tại Hope Place trên đảo Đông Falkland, có ảnh hưởng đến phương ngôn địa phương
Văn hóa Quần đảo Falkland dựa trên văn hóa Anh Quốc, là thứ văn hóa được đưa đến cùng với những người định cư từ quần đảo Anh, song nó chịu ảnh hưởng từ văn hóa Nam Mỹ Tây Ban Nha.[138] Một số thuật ngữ và địa danh do các cựu dân cư Gaucho của quần đảo từng sử dụng hiện vẫn còn được sử dụng trong khẩu ngữ địa phương.[142] Ngôn ngữ chiếm ưu thế và chính thức của Quần đảo Falkland là tiếng Anh, phương ngôn tối trọng yếu là tiếng Anh-Anh; tuy nhiên, các dân cư cũng có thể nói tiếng Tây Ban Nha và các ngôn ngữ khác.[138] Theo nhà tự nhiên học Will Wagstaff, Quần đảo Falkland là một nơi có tính xã hội cao, và dừng lại để tán gẫu là một kiểu sinh hoạt.[142]
Quần đảo có hai tuần báo: Teaberry Express và The Penguin News,[143] và đài truyền hình và phát thanh thường phát chương trình từ Anh Quốc.[138]Wagstaff mô tả ẩm thực địa phương mang đặc điểm rất Anh Quốc với việc sử dụng nhiều món làm từ rau nhà, thịt cừu non, thịt cừu, thịt bò và cá địa phương. Điều thường thấy giữa các bữa ăn chính là bánh ngọt và bánh quy nhà làm với trà hoặc cà phê.[144] Theo Wagstaff, các hoạt động xã hội trên quần đảo mang đặc trưng của một đô thị nhỏ Anh Quốc với nhiều câu lạc bộ và tổ chức bao trùm nhiều khía cạnh của sinh hoạt cộng đồng.[145]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Ước tính không bao gồm những nhân viên quân sự phục vụ tại Quần đảo Falkland cùng những người phụ thuộc họ.[1]
  2. ^ Dựa theo các phân tích của mình về những tuyên bố phát hiện Quần đảo Falkland, sử gia John Dunmore kết luận rằng "[a] một số quốc gia có thể nhờ đó mà đưa ra một số yêu sách đối với quần đảo dựa theo việc là bên phát hiện đầu tiên: Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh Quốc, và thậm chí là Ý và Bồ Đào Nha – mặc dù hai quốc gia yêu sách sau cùng có thể lạm dụng những việc này một chút."[18]
  3. ^ Năm 1764, Bougainville tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo nhân danh Louis XV của Pháp. Năm 1765, John Byron tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo nhân danh George III của Anh.[20][21]
  4. ^ Theo phân tích viên pháp luật người Argentina Roberto Laver, Anh Quốc không để ý đến các hành động của David Jewett do chính phủ mà ông ta đại diện "không được công nhận bởi Anh hay bất kỳ thế lực ngoại quốc nào vào đương thời" và "không có hành động chiếm đóng sau nghi thức tuyên bố quyền chiếm hữu".[30]
  5. ^ Trước khi dời đến Quần đảo Falkland, Luis Vernet đóng dấu lên khế ước ban quyền cho mình tại Lãnh sự quán Anh Quốc, lặp lại việc này khi Buenos Aires mở rộng quyền ban cho ông vào năm 1828.[31] Quan hệ thân mật giữa Lãnh sự quán và Vernet khiến ông bày tỏ "hy vọng rằng, trong trường hợp Anh Quốc trở lại quần đảo, chính phủ của quân chủ điện hạ sẽ đưa khu định cư của ông nằm dưới sự bảo hộ của họ".[32]
  6. ^ Nhật ký hàng hải của "Lexington" chỉ tường trình về việc phá hủy vũ khí và một kho thuốc súng, song Vernet ra yêu sách bồi thường đối với Chính phủ Hoa Kỳ và nói rằng toàn bộ khu định cư bị phá hủy.[36]
  7. ^ Như thảo luận với Roberto Laver, Rosas không những không đoạn tuyệt quan hệ với Anh Quốc do tính "thiết yếu" của "hỗ trợ kinh tế từ Anh Quốc", mà còn đề nghị quần đảo Falkland "như một con bài mặc cả... để đổi lấy việc xóa nợ triệu bảng của Argentina với ngân hàng Anh Quốc Baring Brothers".[40] Năm 1850, chính phủ của Rosas phê chuẩn Hiệp định Arana–Phương Nam, trong đó đặt "đặt dấu chấm hết cho những khác biệt hiện tại, và khôi phục lại các quan hệ hữu nghị vốn hoàn hảo" giữa Anh Quốc và Argentina.[41]
  8. ^ Argentina kháng nghị vào các năm 1841, 1849, 1884, 1888, 1908, 1927 và 1933, và tiến hành kháng nghị thường niên đến Liên Hiệp Quốc kể từ 1946.[43]
  9. ^ Sĩ quan Hải quân Hoàng gia Anh Henry Smith đã bắt giữ những sát nhân và tiếp tục quản lý lợi ích thương vụ của Vernet, song do Vernet liên kết với Argentina trong tranh chấp nên tiếp xúc bị tuyệt giao.[45]
  10. ^ Có các căng thẳng liên tục với chính phủ thuộc địa xoay quanh thất bại của Lafone trong việc thiết lập bất kỳ khu định cư thường xuyên nào, và xoay quanh giá thịt bò cung cấp cho khu định cư. Ngoài ra, mặc dù Lafone được yêu cầu phải đưa người định cư từ Anh Quốc đến nhượng địa của mình, song hầu hết người định cư được ông đưa đến là những gaucho từUruguay.[49]
  11. ^ Stanley nhanh chóng trở thành một điểm quan trọng đối với thương mại len giữa quần đảo Falkland và Anh Quốc.[53]
  12. ^ Năm 1976, Nam tước Shackleton trình một báo cáo về tương lai kinh tế của quần đảo; tuy nhiên, những kiến nghị của ông không được thực hiện do Anh Quốc tìm cách tránh đối đầu với Argentina trên vấn đề chủ quyền.[67] Nam tước Shackleton lại được giao nhiệm vụ vào năm 1982, để viết một báo cáo về phát triển kinh tế của quần đảo. Báo cáo mới của ông phê phán các công ty nông nghiệp lớn, và đề nghị chuyển quyền sở hữu các trang trại từ những địa chủ trang trại vắng mặt cho địa chủ địa phương. Shackleton cũng đề nghị đa dạng hóa kinh tế sang ngư nghiệp, thăm dò dầu mỏ, và du lịch; hơn nữa, ông đề nghị thiết lập một hệ thống đường bộ, và các biện pháp bảo tồn nhằm duy trì tài nguyên tự nhiên của quần đảo.[67]
  13. ^ Roberto Laver tranh luận rằng đây có thể là kết quả từ các chính sách của chính phủ, theo đó giảm bớt số dân cư phi Anh Quốc từng một thời cũng cư trú trên quần đảo. Laver nói rằng "quy định nhập tịch" trong những thập niên đầu tiên thời thuộc địa Anh Quốc là "cho thấy một sự đa dạng về những người định cư đến từ nhiều nơi tại châu Âu, Bắc, và Trung Mỹ, và một cặp đến từ Argentina".[133]
  14. ^ Khi tiến hành điều tra nhân khẩu năm 2012, có 91 dân cư Quần đảo Falkland sống tại hải ngoại.[1]


************************************************************************


Falkland Islands

From Wikipedia, the free encyclopedia
"Falklands" and "Malvinas" redirect here. For other uses, see Falklands (disambiguation) and Malvinas (disambiguation).
Falkland Islands
FlagCoat of arms
Motto: "Desire the Right"
Anthem: "God Save the Queen(official)
"Song of the Falklands"[a]
Location of the Falkland Islands
Location of the Falkland Islands
StatusBritish Overseas Territory
Capital
and largest settlement
Stanley
51°42′S 57°51′W
Official languagesEnglish
DemonymFalkland Islander
GovernmentParliamentarydependency under aconstitutional monarchy
 • MonarchElizabeth II
 • GovernorColin Roberts
 • Chief ExecutiveKeith Padgett
 • UK ministerresponsibleHugo Swire MP
LegislatureLegislative Assembly
Establishment
 • British rule reasserted1833 
 • Crown colony1841 
 • British Dependent Territory1981 
 • British Overseas Territory2002 
 • Current constitution2009 
Area
 • Total12,200 km2 (157th)
4,700 sq mi
 • Water (%)0
Population
 • 2012 estimate2,932[1] (220th)
 • Density0.26[1]/km2 (241st)
0.65/sq mi
GDP (PPP)2007 estimate
 • Total$164.5 million[2](222nd)
 • Per capita$55,400[2] (10th)
Gini (2010)34.17[3]
medium · 64th
HDI (2010)0.874[4]
very high · 20th
CurrencyFalklands pound[b](FKP)
Time zoneFKST[c] (UTC−3)
Drives on theleft
Calling code+500
ISO 3166 codeFK
Internet TLD.fk
a.^ "Song of the Falklands" is used as the islands' anthem at sporting events.
b.^ Fixed to the pound sterling (GBP).
c.^ The Falklands has been on FKST year-round since September 2010.[5]
The Falkland Islands (/ˈfɔːlklənd/SpanishIslas Malvinas [malˈβinas]) are an archipelago in the South Atlantic Ocean on the Patagonian Shelf. The principal islands are about 300 miles (480 km) east of South America's southern Patagonian coast, at a latitude of about 52°S. The archipelago, with an area of 4,700 square miles (12,000 km2), comprises East FalklandWest Falkland and 776 smaller islands. As aBritish overseas territory, the Falklands have internal self-governance, and the United Kingdom takes responsibility for their defence and foreign affairs. The islands' capital is Stanley on East Falkland.
Controversy exists over the Falklands' discovery and subsequent colonisation by Europeans. At various times, the islands have had French, British, Spanish, and Argentine settlements. Britain reasserted its rule in 1833, although Argentina maintains its claim to the islands. In April 1982, Argentine forces temporarily occupied the islands. British administration was restored two months later at the end of the Falklands War.
The population (2,932 inhabitants in 2012)[A] primarily consists of native-born Falkland Islanders, the majority of British descent. Other ethnicities include French, Gibraltarian and Scandinavian. Immigration from the United Kingdom, the South Atlantic island of Saint Helena, and Chile has reversed a population decline. The predominant (and official) language is English. Under the British Nationality (Falkland Islands) Act 1983, Falkland Islanders are British citizens.
The islands lie on the boundary of the subantarctic oceanic and tundra climate zones, and both major islands have mountain ranges reaching 2,300 feet (700 m). They are home to large bird populations, although many no longer breed on the main islands because of competition from introduced species. Major economic activities include fishing, tourism and sheep farming, with an emphasis on high-quality wool exports. Oil exploration, licensed by the Falkland Islands Government, remains controversial as a result of maritime disputes with Argentina.

Etymology

The Falkland Islands take their name from the Falkland Sound, a straitseparating the archipelago's two main islands.[6] The name "Falkland" was applied to the channel by John Strong, captain of an English expedition which landed on the islands in 1690. Strong named the strait in honour of Anthony Cary, 5th Viscount of Falkland, the Treasurer of the Navy who sponsored their journey.[7] The Viscount's title originates from the town of Falkland, Scotland, whose name comes from "folkland" (land held by folk-right).[8] The name was not applied to the islands until 1765, when British captain John Byron of the Royal Navy, claimed them for King George III as "Falkland's Islands".[9] The term "Falklands" is a standard abbreviation used to refer to the islands.
The Spanish name for the archipelago, Islas Malvinas, derives from the French Îles Malouines — the name given to the islands by Frenchexplorer Louis-Antoine de Bougainville in 1764.[10] Bougainville, who founded the islands' first settlement, named the area after the port of Saint-Malo (the point of departure for his ships and colonists).[11] The port, located in the Brittany region of western France, was in turn named after St. Malo (or Maclou), the Christian evangelist who founded the city.[12]
At the twentieth session of the United Nations General Assembly, the Fourth Committee determined that, in all languages other than Spanish, all UN documentation would designate the territory as Falkland Islands (Malvinas). In Spanish, the territory was designated as Islas Malvinas (Falkland Islands).[13] The nomenclature used by the United Nations for statistical processing purposes is Falkland Islands (Malvinas).[14]

History

Although Fuegians from Patagonia may have visited the Falkland Islands in prehistoric times,[15] the islands were uninhabited at the time of their discovery by Europeans.[16] Claims of discovery date back to the 16th century, but no consensus exists on whether these early explorers discovered the Falklands or other islands in the South Atlantic.[17][18][B] The first recorded landing on the islands is attributed to English captain John Strong, who, en route toPeru's and Chile's littoral in 1690, discovered the Falkland Sound and noted the islands' water and game.[20]
The Falklands remained uninhabited until the 1764 establishment of Port Louis on East Falkland by French captainLouis Antoine de Bougainville, and the 1766 foundation of Port Egmont on Saunders Island by British captain John MacBride.[C] Whether or not the settlements were aware of each other's existence is debated by historians.[23] In 1766, France surrendered its claim on the Falklands to Spain, which renamed the French colony Puerto Soledad the following year.[24] Problems began when Spain discovered and captured Port Egmont in 1770. War was narrowly avoided by its restitution to Britain in 1771.[25]
Both the British and Spanish settlements coexisted in the archipelago until 1774, when Britain's new economic and strategic considerations led it to voluntarily withdraw from the islands, leaving a plaque claiming the Falklands for King George III.[26] Spain's Viceroyalty of the Río de la Plata became the only governmental presence in the territory. West Falkland was left abandoned, and Puerto Soledad became mostly a prison camp.[27] Amid the British invasions of the Río de la Plata during the Napoleonic Wars in Europe, the islands' governor evacuated the archipelago in 1806; Spain's remaining colonial garrison followed suit in 1811, except for gauchos and fishermen who remained voluntarily.[27]
Thereafter, the archipelago was visited only by fishing ships; its political status was undisputed until 1820, when Colonel David Jewett, an American privateer working for the United Provinces of the River Plate, informed anchored ships about Buenos Aires' 1816 claim to Spain's territories in the South Atlantic.[28][D] Since the islands had no permanent inhabitants, in 1823 Buenos Aires granted German-born merchant Luis Vernet permission to conduct fishing activities and exploit feral cattle in the archipelago.[E] Vernet settled at the ruins of Puerto Soledad in 1826, and accumulated resources on the islands until the venture was secure enough to bring settlers and form a permanent colony.[32] Buenos Aires named Vernet military and civil commander of the islands in 1829,[33] and he attempted to regulate sealing to stop the activities of foreign whalers and sealers.[27] Vernet's venture lasted until a dispute over fishing and hunting rights led to a raid by the American warship USS Lexington in 1831,[34][F] when United States Navy commander Silas Duncan declared the dissolution of the island's government.[35]
Three men in horseback examine a pastoral settlement
Depiction of a Falklands settlement in 1849; painting by Royal Navy Admiral Edward Fanshawe
Buenos Aires attempted to retain influence over the settlement by installing a garrison, but a mutiny in 1832 was followed the next year by the arrival of British forces who reasserted Britain's rule.[36] The Argentine Confederation(headed by Buenos Aires Governor Juan Manuel de Rosas) protested Britain's actions,[37][G] and Argentine governments have continued since then to register official protests against Britain.[40][H] The British troops departed after completing their mission, leaving the area without formal government.[42]Vernet's deputy, the Scotsman Matthew Brisbane, returned to the islands that year to restore the business, but his efforts ended after, amid unrest at Port Louis, gaucho Antonio Rivero led a group of dissatisfied individuals to murder Brisbane and the settlement's senior leaders; survivors hid in a cave on a nearby island until the British returned and restored order.[42] In 1840, the Falklands became a Crown colony, and Scottish settlers subsequently established an official pastoral community.[43]Four years later, nearly everyone relocated to Port Jackson, considered a better location for government, and merchant Samuel Lafone began a venture to encourage British colonisation.[44]
Stanley, as Port Jackson was soon renamed, officially became the seat of government in 1845.[45] Early in its history, Stanley had a negative reputation due to cargo-shipping losses; only in emergencies would ships rounding Cape Horn stop at the port.[46] Nevertheless, the Falklands' geographic location proved ideal for ship repairs and the "Wrecking Trade", the business of selling and buying shipwrecks and their cargoes.[47] Aside from this trade, commercial interest in the archipelago was minimal due to the low-value hides of the feral cattle roaming the pastures. Economic growth began only after the Falkland Islands Company, which bought out Lafone's failing enterprise in 1851,[I] successfully introduced Cheviot sheep for wool farming, spurring other farms to follow suit.[49]The high cost of importing materials, combined with the shortage of labour and consequent high wages, meant the ship repair trade became uncompetitive. After 1870, it declined as the replacement of sail ships by steamships was accelerated by the low cost of coal in South America; by 1914, with the opening of the Panama Canal, the trade effectively ended.[50] In 1881, the Falkland Islands became financially independent of Britain.[45] For more than a century, the Falkland Islands Company dominated the trade and employment of the archipelago; in addition, it owned most housing in Stanley, which greatly benefited from the wool trade with the UK.[49]
Two battling ships, with one sinking
Naval confrontation during the 1914Battle of the Falkland Islands; painting by William Lionel Wyllie
In the first half of the 20th century, the Falklands served an important role in Britain's territorial claims to subantarctic islands and a section of Antarctica. The Falklands governed these territories as the Falkland Islands Dependencies starting in 1908, and retained them until their dissolution in 1985.[51] The Falklands also played a minor role in the two world wars as a military base aiding control of the South Atlantic. In the First World War Battle of the Falkland Islands in December 1914, a Royal Navy fleet defeated anImperial German squadron. In the Second World War, following the December 1939 Battle of the River Plate, the battle-damaged HMS Exetersteamed to the Falklands for repairs.[16] In 1942, a battalion en route to India was redeployed to the Falklands as a garrison amid fears of a Japanese seizure of the archipelago.[52] After the war ended, the Falklands economy was affected by declining wool prices and the political uncertainty resulting from the revived sovereignty dispute between the United Kingdom and Argentina.[46]
Simmering tensions between the UK and Argentina increased during the second half of the century, when Argentine President Juan Perón asserted sovereignty over the archipelago.[53] The sovereignty dispute intensified during the 1960s, shortly after the United Nations passed a resolution on decolonisation which Argentina interpreted as favourable to its position.[54] In 1965, the UN General Assembly passed Resolution 2065, calling for both states to conduct bilateral negotiations to reach a peaceful settlement of the dispute.[54] From 1966 until 1968, the UK confidentially discussed with Argentina the transfer of the Falklands, assuming its judgement would be accepted by the islanders.[55] An agreement on trade ties between the archipelago and the mainland was reached in 1971 and, consequently, Argentina built a temporary airfield at Stanley in 1972.[45] Nonetheless, Falklander dissent, as expressed by their strong lobby in the UK Parliament, and tensions between the UK and Argentina effectively limited sovereignty negotiations until 1977.[56]
Concerned at the expense of maintaining the Falkland Islands in an era of budget cuts, the UK again considered transferring sovereignty to Argentina in the early Thatcher government.[57] Substantive sovereignty talks again ended by 1981, and the dispute escalated with passing time.[58] In April 1982, the disagreement became an armed conflictwhen Argentina invaded the Falklands and other British territories in the South Atlantic, briefly occupying them until a UK expeditionary force retook the territories in June.[59] After the war, the United Kingdom expanded its military presence, building RAF Mount Pleasant and increasing the size of its garrison.[60] The war also left some 117 minefields containing nearly 20,000 mines of various types, including anti-vehicle and anti-personnel mines.[61] Due to the large number of deminer casualties, initial attempts to clear the mines ceased in 1983.[61][J]
Based on Lord Shackleton's recommendations, the Falklands diversified from a sheep-based monoculture into an economy of tourism and, with the establishment of the Falklands Exclusive Economic Zone, fisheries.[63][K] The road network was also made more extensive, and the construction of RAF Mount Pleasant allowed access to long haulflights.[63] Oil exploration has also begun, with indications of possible commercially exploitable deposits in the Falklands basin.[64] Landmine clearance work restarted in 2009, in accordance with the UK's obligations under theOttawa Treaty, and Sapper Hill Corral was cleared of mines in 2012, allowing access to an important historical landmark for the first time in 30 years.[65][66] Argentina and the UK re-established diplomatic relations in 1990; relations have since deteriorated as neither has agreed on the terms of future sovereignty discussions.[67] Disputes between the governments have led "some analysts [to] predict a growing conflict of interest between Argentina and Great Britain ... because of the recent expansion of the fishing industry in the waters surrounding the Falklands".[68]

Government

Large, rambling house with greenhouse and white fence
Government House in Stanley is the Governor's official residence.
The Falkland Islands are a self-governing British Overseas Territory.[69] Under the 2009 Constitution, the islands have full internal self-government; the UK is responsible for foreign affairs, retaining the power "to protect UK interests and to ensure the overall good governance of the territory".[70] The Monarch of the United Kingdom is the head of state, and executive authority is exercised on the monarch's behalf by the Governor, who in turn appoints the islands' Chief Executive on the advice of members of the Legislative Assembly.[71] Both the Governor and Chief Executive serve as the head of government.[72] GovernorColin Roberts was appointed in April 2014;[73] Chief Executive Keith Padgettwas appointed in March 2012.[74] The UK minister responsible for the Falkland Islands since 2012, Hugo Swire, administers British foreign policy regarding the islands.[75]
The Governor acts on the advice of the islands' Executive Council, composed of the Chief Executive, the Director of Finance and three elected members of the Legislative Assembly (with the Governor as chairman).[71] The Legislative Assembly, a unicameral legislature, consists of the Chief Executive, the Director of Finance and eight members (five from Stanley and three from Camp) elected to four-year terms by universal suffrage.[71] All politicians in the Falkland Islands are independent; no political parties exist on the islands.[76] Since the 2013 general election, members of the Legislative Assembly have received a salary and are expected to work full-time and give up all previously held jobs or business interests.[77]
Due to its link to the UK, the Falklands are part of the overseas countries and territories of the European Union.[78]The islands' judicial system, overseen by the Foreign and Commonwealth Office, is largely based on English law,[79]and the constitution binds the territory to the principles of the European Convention on Human Rights.[70] Residents have the right of appeal to the European Court of Human Rights and the Privy Council.[80][81] Law enforcement is the responsibility of the Royal Falkland Islands Police (RFIP),[79] and military defence of the islands is provided by the United Kingdom.[82] A British military garrison is stationed on the islands, and the Falkland Islands government funds an additional company-sized light infantry Falkland Islands Defence Force.[83] The territorial waters of the Falklands extend to 200 nautical miles (370 km) from its coastal baselines, based on the United Nations Convention on the Law of the Sea; this border overlaps with the maritime boundary of Argentina.[84]

Sovereignty dispute

The United Kingdom and Argentina both claim the Falkland Islands. The UK's position is that the Falklanders have not indicated a desire for change, and that there are no pending issues to resolve concerning the islands.[85][86] The UK bases its position on its continuous administration of the islands since 1833 (except for 1982) and the islanders' "right to self-determination as set out in the UN Charter".[87] Argentine policy maintains that Falkland Islanders do not have a right to self-determination, claiming that in 1833 the UK expelled Argentine authorities (and settlers) from the Falklands with a threat of "greater force" and, afterwards, barred Argentines from resettling the islands.[88][89]Argentina posits that it acquired the Falklands from Spain when it achieved independence in 1816, and that the UK illegally occupied them in 1833.[88]
In 2009, British prime minister Gordon Brown had a meeting with Argentine president Cristina Fernández de Kirchner, and said that there would be no further talks over the sovereignty of the Falklands.[90] In March 2013, the Falkland Islands held a referendum on its political status, with 99.8 percent of voters favoured remaining under British rule.[91][92] Argentina does not recognise the Falkland Islands as a partner in negotiations;[93] consequently, itdismissed the Falkland Islands' sovereignty referendum.[94]

Geography

Topographic image
Map of the Falkland Islands
The Falkland Islands have a land area of 4,700 square miles (12,000 km2) and a coastline estimated at 800 miles (1,300 km).[95] Two main islands, West Falkland and East Falkland, and about 776 smaller islands constitute the archipelago.[96] The islands are predominantly mountainous and hilly,[97] with the major exception the depressed plains of Lafonia (a peninsula forming the southern part of East Falkland).[98] The Falklands are continental crustfragments resulting from the break-up of Gondwana and the opening of the South Atlantic that began 130 million years ago. The islands are located in theSouth Atlantic Ocean, on the Patagonian Shelf, about 300 miles (480 km) east of Patagonia in southern Argentina.[99]
The Falklands are situated approximately at latitude 51°40′ – 53°00′ S and longitude 57°40′ – 62°00′ W.[100] The archipelago's two main islands are separated by the Falkland Sound,[101] and its deep coastal indentations form natural harbours.[102] East Falkland houses Stanley (the capital and largest settlement),[100] the UK military base at RAF Mount Pleasant, and the archipelago's highest point: Mount Usborne, at 2,313 feet (705 m).[101] Outside of these significant settlements is the area colloquially known as "Camp", which is derived from the Spanish term for countryside (Campo).[103]
The climate of the islands is cold, windy and humid maritime.[99] Variability of daily weather is typical throughout the archipelago.[104] Rainfall is common over half of the year, averaging 610 millimetres (24 in) in Stanley, and sporadic light snowfall occurs nearly all year.[97] The temperature is generally between 21.1 and −11.1 °C (70.0 and 12.0 °F) in Stanley, but can vary to 9 °C (48 °F) early in the year and −1 °C (30 °F) in July.[104] Strong westerly winds and cloudy skies are common.[97] Although numerous storms are recorded each month, conditions are normally calm.[104]

Biodiversity

The Falkland Islands are a biogeographical part of the mild Antarctic zone,[105] with strong connections to the flora and fauna of Patagonia in mainland South America.[106] Land birds make up most of the Falklands'avifauna; 63 species breed on the islands, including 16 endemic species.[107]There is also abundant arthropod diversity on the islands.[108] The Falklands' flora consists of 163 native vascular species.[109] The islands' only native terrestrial mammal, the warrah, was hunted to extinction by European settlers.[110]
The islands are frequented by marine mammals, such as the southern elephant seal and the South American fur seal, and various types ofcetaceans; offshore islands house the rare striated caracara. The Falklands are also home to five different penguin species and a few of the largest albatross colonies on the planet.[111] Endemic fish around the islands are primarily from the genus Galaxias.[108] The Falklands are treeless and have a wind-resistant vegetation predominantly composed of a variety of dwarf shrubs.[112]
Virtually the entire land area of the islands is used as pasture for sheep.[2] Introduced species include reindeer, hares, rabbits, Patagonian foxesbrown rats and cats.[113] The detrimental impact several of these species have caused to native flora and fauna has led authorities to attempt to contain, remove or exterminate invasive species such as foxes, rabbits and rats. Endemic land animals have been the most affected by introduced species.[114] The extent ofhuman impact on the Falklands is unclear, since there is little long-term data on habitat change.[106]

Economy

Aerial photograph of small seaside city
Stanley is the financial centre of the Falkland Islands' economy.[115]
The economy of the Falkland Islands is ranked the 222nd largest out of 229 in the world by GDP (PPP), but ranks 10th worldwide by GDP (PPP) per capita.[2] The unemployment rate was 4.1 percent in 2010, and inflation was last calculated at 1.2 percent rate in 2003.[2] Based on 2010 data, the islands have a high Human Development Index of 0.874[4] and a moderate Gini coefficient for income inequality of 34.17.[3] The local currency is the Falkland Islands pound, which is pegged to the British pound sterling.[116]
Economic development was advanced by ship resupplying and sheep farming for high-quality wool.[117] The main sheep breeds in the Falkland Islands arePolwarth and Corriedale.[118] During the 1980s, although synthetic fibres and ranch underinvestment hurt the sheep-farming sector, the government established a major revenue stream with the establishment of an exclusive economic zone and the sale of fishing licenses to "anybody wishing to fish within this zone".[119] Since the end of the Falklands War in 1982, the islands' economic activity has increasingly focused on oil field exploration and tourism.[120]
The port city of Stanley has regained the islands' economic focus, with an increase in population as workers migrate from Camp.[121] Fear of dependence on fishing licences and threats from overfishingillegal fishing and fish market price fluctuations have increased interest on oil drilling as an alternative source of revenue; exploration efforts have yet to find "exploitable reserves".[115] Development projects in education and sports have been funded by the Falklands government, without aid from the United Kingdom.[119]
The primary sector of the economy accounts for most of the Falkland Islands' gross domestic product, with the fishing industry alone contributing between 50% and 60% of annual GDP; agriculture also contributes significantly to GDP and employs about a tenth of the population.[122] A little over a quarter of the workforce serves the Falkland Islands government, making it the archipelago's largest employer.[123] Tourism, part of the service economy, has been spurred by increased interest in Antarctic exploration and the creation of direct air links with the United Kingdom and South America.[124] Tourists, mostly cruise ship passengers, are attracted by the archipelago's wildlife and environment, as well as activities such as fishing and wreck diving; the majority are based in accommodation found in Stanley.[125] The islands' major exports include wool, hides, venison, fish and squid; its main imports include fuel,building materials and clothing.[2]

Demographics

Photograph of two men and a cat standing next to a truck on the side of a road
Falkland Islanders are predominantly of Welsh and Scottish ancestry.[126]
The Falkland Islands are a homogeneous society, with the majority of inhabitants descended from Scottish and Welsh immigrants who settled the territory in 1833.[126][L] The 2006 census listed some Falklands residents as descendants of FrenchGibraltarians and Scandinavians.[127] That census indicated that one-third of residents were born on the archipelago, with foreign-born residents assimilated into local culture.[128] The legal term for the right of residence is "belonging to the islands".[71] The British Nationality Act of 1983 gave British citizenship to Falkland Islanders.[126]
A significant population decline affected the archipelago in the twentieth century, with many young islanders moving overseas in search of education, a modern lifestyle, and better job opportunities,[129] particularly to the British city of Southampton, which came to be nicknamed "Stanley north".[130] In recent years, the island's population decline has steadied, thanks to immigrants from the United Kingdom, Saint Helena, and Chile.[131] In the 2012 census, a majority of residents listed their nationality as Falkland Islander (59 percent), followed by British (29 percent), Saint Helenian (9.8 percent), and Chilean (5.4 percent).[1] A small number of Argentines also live on the islands.[132]
The Falkland Islands have a low population density.[133] According to the 2012 census, the average daily population of the Falklands was 2,932, excluding military personnel serving in the archipelago and their dependents.[M] A 2012 report counted 1,300 uniformed personnel and 50 British Ministry of Defence civil servants present in the Falklands.[123] Stanley (with 2,121 residents) is the most-populous location on the archipelago, followed by Mount Pleasant (369 residents, primarily air-base contractors) and Camp (351 residents).[1] The islands' age distribution is skewed towards working age (20–60). Males outnumber females (53 to 47 percent), and this discrepancy is most prominent in the 20–60 age group.[127] In the 2006 census most islanders identified themselves as Christian (67.2 percent), followed by those who refused to answer or had no religious affiliation (31.5 percent). The remaining 1.3 percent (39 people) were adherents of other faiths.[127]
Education in the Falkland Islands, which follows England's system, is free and compulsory for residents aged between 5 and 16 years.[134] Primary education is available at Stanley, RAF Mount Pleasant (for children of service personnel) and a number of rural settlements. Secondary education is only available in Stanley, which offers boarding facilitiesand 12 subjects to General Certificate of Secondary Education (GCSE) level. Students aged 16 or older may study at colleges in England for their GCE Advanced Level or vocational qualifications. The Falkland Islands government pays for older students to attend institutions of higher education, usually in the United Kingdom.[134]

Culture

Two men in front of a fireplace about to exchange a drink
Gauchos from mainland South America, such as these two men havingmate at Hope Place in East Falkland, influenced the local dialect
Falklands culture is "based on the British culture brought with the settlers from the British Isles", although it has been influenced by the cultures of Hispanic South America.[131] Some terms and place names used by the islands' former Gaucho inhabitants are still applied in local speech.[135] The Falklands' predominant and official language is English, with the foremost dialect beingBritish English; nonetheless, inhabitants also speak Spanish and other languages.[131] According to naturalist Will Wagstaff, "the Falkland Islands are a very social place, and stopping for a chat is a way of life".[135]
The islands have two weekly newspapers: Teaberry Express and The Penguin News,[136] and television and radio broadcasts generally feature programming from the United Kingdom.[131] Wagstaff describes local cuisine as "very British in character with much use made of the homegrown vegetables, local lamb, mutton, beef, and fish". Common between meals are "home made cakes and biscuits with tea or coffee".[137] Social activities are, according to Wagstaff, "typical of that of a small British town with a variety of clubs and organisations covering many aspects of community life".[138]

See also

Notes

Đôi tình nhân lãng mạn nhất thế giới ngày Valentine

HAPPY VALENTINE`S DAY




Cặp sóc đáng yêu cũng tặng nhau hoa hồng ngày lễ tình nhân.

Mới đây, tờ Mirror vừa chia sẻ bộ ảnh thú vị của một cặp sóc đang yêu khiến cả thế giới mạng bất ngờ và thích thú.

Bộ ảnh được thực hiện bởi nhiếp ảnh gia nổi tiếng Max Ellis (đến từ London) với ý nghĩa động vật khi yêu cũng rất lãng mạn. Hoa hồng đỏ biểu hiện cho tình yêu say mê và nồng thắm thay cho mọi thứ ngôn ngữ nào khác, anh chàng sóc láu cá nhận hoa từ nhiếp ảnh gia và tặng cô sóc mình yêu.

Image
Zoom in (real dimensions: 589 x 780)ImageZoom in (real dimensions: 589 x 803)ImageZoom in (real dimensions: 589 x 710)Image

'
Zoom in (real dimensions: 589 x 758)ImageZoom in (real dimensions: 589 x 819)Image

KL chuyển

VƯỢT QUA NHỮNG THỬ THÁCH KHÓ KHĂN

Chúa Nhật II Mùa Chay  - Năm C
VƯỢT QUA NHỮNG THỬ THÁCH KHÓ KHĂN


Radio Veritas Asia
Chúng ta đang ở vào Mùa Chay, Chúa nhật thứ II. Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay thánh này với ngày Thứ Tư Lễ Tro. Điều gì chúng ta đã làm trong ngày Thứ Tư Lễ Tro này? Thưa rằng, chúng ta đã cho đại diện Giáo Hội xức tro lên trên đầu chúng ta, với dấu hiệu là chúng ta bởi đất, chúng ta sẽ trở về với đất.
Qua bài Phúc Âm Chúa nhật thứ I Mùa Chay tuần vừa qua, chúng ta lại đã nghe về cuộc hành trình của Chúa Giêsu trong sa mạc với những cám dỗ Ngài phải đương đầu. Những cám dỗ này chính là hình ảnh của những quyến rũ ma quỉ đặt trước chúng ta trong những ngày chay tịnh này, khi chúng ta sống trong bầu không khí của Mùa Chay. Việc biến hình của Chúa Giêsu với sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacôbê, Gioan; với Môisê và Êlia đại diện trong cùng bối cảnh của Mùa Chay. Từ đó chúng ta khám phá được một sự thật, Mùa Chay không phải là khoảng thời gian chúng ta phải đối đầu với những cám dỗ do ma quỉ sắp đặt đưa ra. Mùa Chay cũng không phải là khoảng thời gian người tín hữu phải tự buộc mình chịu đựng những sự đau khổ mà không tìm cách tránh né. Mùa Chay đầu tiên là một sự mạc khải về thân phận, về định mệnh, trong tiến trình tự nhiên của con người, và những kinh nghiệm phải có từ ý chí bề ngoài của cuộc sống. Một trong những kinh nghiệm đó chúng ta có được về việc biến hình của Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm theo thánh Luca hôm nay.
Như thế này, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, Gioan lên núi cầu nguyện. Cứ theo cách diễn tả của thánh sử Luca, thì chúng ta có thể hiểu rằng biến cố đã xảy ra vào lúc ban đêm. Vì thường thường như chúng ta biết, sau khi giảng dạy và làm các phép lạ, Chúa Giêsu ẩn mình vào các nơi thanh vắng để cầu nguyện vào ban tối. Và nhất là căn cứ vào thái độ của các môn đệ khi sự việc xảy ra đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Thời gian ban đêm trong bài Phúc Âm đồng hóa với bóng tối được diễn tả ở đây, có thể là biểu hiện cho khuynh hướng xấu, biểu hiện cho phần bóng tối trong tâm hồn của mỗi con người chúng ta. Nó cũng là một trong những điều mà Luca diễn tả, khiến cho quang cảnh dễ gây xúc động hơn.
Đang khi cầu nguyện, diện mạo của Chúa Giêsu biến đổi khác thường, chói lòa hào quang ánh sáng. Nhưng Ngài vẫn là Ngài. Ngài vẫn là Chúa Giêsu. Con của Thiên Chúa, có khác chăng là về diện mạo và quang cảnh chung quanh. Một quang cảnh huy hoàng của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môisê và Êlia, đến nỗi khi được chiêm ngắm, các môn đệ đã phải thốt lên như trong một cơn mê sảng: "Lạy Thầy, nếu chúng tôi được ở đây thì tốt lắm. Chúng tôi xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia". Họ không muốn lìa xa nơi họ đã được chứng kiến. Một Thầy chí thánh với vinh quang và ân sủng, một vinh quang và ân sủng có thể hoà quyện trong mơ ước trần thế con người của họ trong những dịp đi theo Chúa.
Như chúng ta biết, Môisê và Êlia là hai tiên tri Cựu Ước, Môisê là người đã được Chúa tuyển chọn để đưa dân Ngài ra khỏi ách nô lệ của nước Ai Cập. Êlia là tiên tri đã được kêu gọi để làm cố vấn cho giao ước, dân Do Thái đã gần như chối từ những ơn Chúa trong đời sống họ. Khi đề cập đến biến cố này, các thánh sử khác thì nói rằng: Có một cuộc đàm đạo giữa Chúa và hai vị tiên tri. Trong khi Luca còn đi xa hơn, diễn tả ngay cả nội dung của cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu, Môisê và Êlia. Họ nói về sự chết của Chúa Giêsu sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Một cái chết không phải là dấu hiệu kết thúc của công trình cứu chuộc, nhưng là một cái chết khơi mào cho sự sống lại trong vinh quang trong nước Ngài. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, sự chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giêsu được thể hiện cùng một lúc trong biến cố biến hình này. Sự chết trong thân xác hay chết của nhân tính của Chúa Giêsu là một sự sửa soạn cho sự vinh quang vĩnh cửu của một đời sống khác trong thiên tính của Chúa Giêsu.
Chịu đựng là vượt qua những thử thách khó khăn. Không phải chúng ta luôn luôn đương đầu với mọi cám dỗ và hoạt động của ma quỉ. Nhưng trong chính thời gian này, sự vinh quang của Thiên Chúa vẫn còn thể hiện trong chính các sinh hoạt của chay tịnh, sự thống hối, ăn năn, tha thứ trong 40 ngày. Lời phán từ trong đám mây minh chứng rằng Đức Giêsu biến hình ngày hôm nay, chính là Chúa Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa. Ngài đã lãnh nhận và thánh hóa bí tích Rửa tội nơi sông Giođan với Gioan Tẩy Giả, Ngài là Con của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa nói với nhân loại và nhân loại phải đón nhận Ngài: "Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".
Chúng ta cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình và cùng được dự phần vào việc đàm phán của Chúa với hai tiên tri. Từ đó, chúng ta có thể được dự phần vào việc khổ nạn và cuộc Phục sinh của Chúa trong những ngày sắp tới. Đó là một cách thế chúng ta tham dự trong bất toàn nhân tính, trong con người của Chúa Giêsu và chúng ta cũng sẽ được tham dự vào thiên tính bất diệt của Con Chúa trong ngày tới.
Điểm cuối cùng của biến cố biến hình của Chúa ngày hôm nay không phải chỉ mạc khải cho chúng ta về chương trình hành động của Thiên Chúa trong việc cứu rỗi con người. Biến cố này cho chúng ta thấy ngày lịch sử, nhân loại nhận biết sự xấu hổ của đời sống trần thế và ý nghĩa của sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu trong nhiệm vụ cứu rỗi. Biến cố này còn nhắc lại cho chúng ta một cách sống trọn vẹn và những hy sinh cay đắng trong cuộc sống. Chúng ta còn được dự phần trong sự vinh quang của Thiên Chúa là kết quả của việc chay tịnh, thống hối và tha thứ.

2 kỹ sư Mỹ gốc Việt sáng chế bê tông tự động làm tan băng an toàn

Những con đường đóng băng tuyết trong thời tiết lạnh giá là thủ phạm gây ra nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng, đặc biệt là tại khu vực đèo dốc, cầu vượt, ngã tư, đường vào ra xa lộ… Trước thực trạng đó, 2 kỹ sư gốc Việt đã sáng chế ra một loại bê tông có thể tự động làm tan băng an toàn.


Giáo sư Kỹ thuật Christ Tuan thử độ an toàn trên một tấm bê tông dẫn điện.
Thống kê cho thấy, 10 đến 15% tại nạn đường bộ ở Mỹ liên quan trực tiếp tới thời tiết. Tỷ lệ này tương đương hàng ngàn người bị thương và tử vong mỗi năm.
Trước thực trạng mặt đường phải làm tan được băng trong mùa đông, 2 kỹ sư gốc Việt là Chris Tuan và Lim Nguyen đến từ Đại học Nebraska-Lincoln đã sáng chế ra một loại bê tông dẫn điện đặc biệt. Nó có thể tự động làm tan băng an toàn, không sử dụng hóa chất, không gây ăn mòn và ưu việt hơn cả những xe dọn tuyết truyền thống ở Mỹ.

Christ Tuan nói, ông bắt đầu nghiên cứu loại bê tông chống băng từ thời kỳ còn làm việc cho một nhà thầu của không quân Mỹ. Mục tiêu khi đó của Chris Tuan là phải làm sao để loại bỏ băng và ngăn chặn trơn trượt trong quá trình máy bay hạ cánh.
Cho đến năm 2001, với sự giúp đỡ của Lim Nguyen cùng 2 đồng nghiệp khác là Sherif Yehia và Bing Chen, bê tông tự động làm tan băng mới được hoàn thiện. Họ cùng được cấp bằng sáng chế cho phát minh này. Trước đó, phương pháp chống đóng băng phổ biến nhất ở Mỹ là sử dụng hóa chất, điển hình là muối. Các công nhân sẽ lái một chiếc xe đặc biệt và rải muối hoặc nước mặn trên mặt đường. Nhiệt độ đóng băng thấp hơn của nước muối sẽ giúp mặt đường duy trì trạng thái tới -18oC.
Tuy nhiên, kỹ thuật sử dụng hóa chất có rất nhiều nhược điểm. Nó làm ô nhiễm môi trường, gây ăn mòn những bộ phận kim loại của xe hơi và đặc biệt hạn chế sử dụng cho những cây cầu thép.
Chính vì vậy, cùng năm 2001, Sở Đường bộ Nebraska quyết định sử dụng bê tông dẫn điện của Christ Tuan cho cây cầu của họ, biến nó thành cây cầu đầu tiên trên thế giới sử dụng cách mới này. Cầu Roca Spur được trải 52 tấm bê tông chống băng trên suốt chiều dài của nó. Mỗi tấm có giá 300 USD thay vì 120 USD của bê tông thường.
“Cầu luôn là địa hình giao thông đóng băng đầu tiên, bởi nó chịu tiếp xúc cả trên mặt đường và dưới gầm cầu”, Christ Tuan nói. “Sẽ rất tốn tiền khi trải toàn bộ mặt cầu bằng bê tông dẫn điện, nhưng bạn có thể sử dụng nó ở những vị trí quan trọng như ổ gà hoặc nơi hiểm yếu”.

Mặt đường sử dụng bê tông của Christ Tuan sẽ tự động chống đóng băng.
Vậy bí quyết của Christ Tuan dành cho loại bê tông này là gì? Rất đơn giản, về căn bản nó giống như bê tông thường, nhưng sẽ được pha thêm 20% dăm thép nhỏ và các hạt carbon. Hỗn hợp này làm nhiệm vụ dẫn điện và chuyển hóa thành nhiệt năng để làm tan băng. Trong khi đó, nó vẫn bảo đảm bề mặt bê tông đủ an toàn để chạm vào.
“Loại bê tông của chúng tôi có khả năng chống đóng băng”, Chris Tuan nói. “Bạn chỉ cần giữ lõi và bề mặt của nó ấm áp. Khi tuyết rơi trên đó, nó sẽ tan chảy”.
Nguồn điện cung cấp cho những tấm bê tông là nguồn 3 pha 600 A, 220V, có thể tận dụng được từ ngay những trạm điện gần đường. Các cảm biến sẽ giúp hệ thống tự động bật khi nhiệt độ ngoài trời xuống dưới 4oC và tắt khi trên 10oC.
Hiện nay, sản phẩm của Chris Tuan và nhóm nghiên cứu đang được đánh giá bởi Cục Quản lý Hàng không Liên bang. Họ có thể có dự án thử nghiệm nó trên một đường băng lớn.
Tuy nhiên, Christ Tuan nói “Cục Quản lý Hàng không đã khiến tôi rất ngạc nhiên, bê tông chống băng sẽ ít có khả năng được ứng dụng cho đường băng. Tuy nhiên, địa điểm họ cần nhất lại là khu vực cổng. Đây là nơi có rất nhiều xe vận tải, là địa điểm phục vụ dịch vụ hành lý và nhiên liệu. Cả khu vực không có băng sẽ khiến sự chậm trễ của nhiều chuyến bay giảm xuống. Chúng tôi rất lạc quan”.
Chưa dừng lại ở đó, Christ Tuan còn pha thêm vào bê tông của mình một loại quặng từ magnetite. Ông nói nó sẽ giúp ngăn chặn sóng điện từ. Cách này sẽ rất hấp dẫn đối với những nhà sản xuất muốn xây dựng một quy trình bảo mật chống gián điệp ăn cắp kỹ thuật.
Christ Tuan đã thử nghiệm loại bê tông ngăn sóng điện từ ngay tại phòng thí nghiệm của mình. “Chúng tôi mời rất nhiều khách hàng tiềm năng tới và bảo họ cố gắng sử dụng điện thoại di động”, ông nói. “Họ luôn nhận được những cảnh cáo là không có dịch vụ cung ứng”.
Trong khi những loại bê tông mà Christ Tuan phát triển sẽ đem lại nhiều ứng dụng lớn lao trong tương lai, ông vẫn khiến nó có mặt ở những lợi ích rất gần gũi nhất của mình. “Tôi có một khu vườn sau nhà lát đầy bê tông dẫn điện”, Christ Tuan nói với một nụ cười. “Bạn thấy đấy, tôi ứng dụng những gì tôi giảng ở trường đại học và thuyết phục mọi người”.

Tuyết Loan chuyển

Nguyễn Cao Kỳ Duyên và cuộc tình li kỳ với 3 người đàn ông

(Giải trí) - Nguyễn Cao Kỳ Duyên phiên bản gốc không chỉ là một luật sư tài danh, 1 MC nổi tiếng mà còn là người đàn bà li kỳ với những cuộc tình li kỳ.


Xuất thân đặc biệt

Ít ai biết, Nguyễn Cao Kỳ Duyên phiên bản gốc - người phụ nữ là thần tượng của biết bao công chúng, trong đó có bố mẹ của Hoa hậu Nguyễn Cao Kỳ Duyên - vốn là một công chức của chính quyền Sài Gòn.

Nguyễn Cao Kỳ Duyên quê gốc tại thị xã Sơn Tây tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội). Cô sinh ngày 30 tháng 6 năm 1965 trong một gia đình quan chức cấp cao của chính quyền Sài Gòn. 

Cha của cô - ông Nguyễn Cao Kỳ - từng là người đứng đầu Không lực Việt Nam Cộng Hòa kiêm Thủ tướng (1965-1967) và sau đó là Phó Tổng thống (1967 - 1971) Việt Nam Cộng hòa.

Ông Nguyễn Cao Kỳ từng kết hôn với một phụ nữ Pháp tại Maroc và có 4 trai 1 gái (Nguyễn Cao Kỳ Vân). 2 năm sau khi li hôn, ông gặp bà Đặng Tuyết Mai, tiếp viên của hãng hàng không Air Vietnam và trúng tiếng sét ái tình. Theo miêu tả của ông Nguyễn Cao Kỳ, chưa bao giờ ông gặp một người con gái nào có những nét đẹp cổ kính tuyệt sắc nhường vậy. 

Chân dung bà Đặng Tuyết Mai - tuyệt sắc giai nhân Sài Thành thập niên 60

Ông Nguyễn Cao Kỳ kết hôn với bà Đặng Tuyết Mai và sinh ra duy nhất 1 người con, chính là Nguyễn Cao Kỳ Duyên. Tuy nhiên, hai người chỉ ở với nhau được 25 năm. Năm 1989, cả hai li hôn. Sau đó, ông tiếp tục kết hôn với bà Lê Hoàng Kim Nicole cho đến khi qua đời đột ngột vào năm 2011.

Nguyễn Cao Kỳ Duyên ngay khi ra đời đã thừa hưởng trọn vẹn những nét đẹp của mẹ cô, tuyệt sắc giai nhân Sài Gòn thập niên 60 Đặng Tuyết Mai. Cô lại thửa hưởng đầy đủ trí tuệ và sự hài hước của người cha cùng những nét tinh túy nhất của một người gốc Bắc. Do đó, ngay khi đặt chân vào làng giải trí hải ngoại, Kỳ Duyên đã tỏa sáng trong chớp mắt. Nhưng không phải là may mắn ngẫu nhiên.

Nguyễn Cao Kỳ Duyên bên mẹ khi còn nhỏ

Nguyễn Cao Kỳ Duyên học đàn piano từ lúc 5 tuổi. 13 tuổi, cô được học thanh nhạc chuyên nghiệp, khiêu vũ và hội họa. Bà Đặng Tuyết Mai chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của cô công chúa. Bất kỳ lúc nào rảnh rỗi, bà đều đưa con gái đến các bảo tàng mỹ thuật nổi tiếng, các nhà hát giao hưởng... Nhờ thế mà Kỳ Duyên dù học ngành luật tại đại học Western State (tốt nghiệp với tấm bằng loại danh dự) nhưng vẫn sở hữu một tâm hồn giàu chất nghệ thuật.

Lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng của Kỳ Duyên trong vai trò MC là tại cuộc thi Hoa hậu áo dài ở Long Beach, California. Năm 1984 đĩa hát đầu tiên của cô đã được Tùng Giang Studio ghi âm. Năm 1985 cô xuất hiện lần đầu như một ca sĩ tại Seattle, Washington. Nguyễn Cao Kỳ Duyên thường biểu diễn tại Las Vegas, California (Mỹ) và Paris (Pháp).

Ban đầu, Nguyễn Cao Kỳ Duyên đi làm MC và đi hát chỉ để kiếm tiền trang trải cho học phí đại học đắt đỏ. Ra trường cô vẫn hành nghề luật sư và chỉ thi thoảng nhận show cho vui. Tuy nhiên, những hồ sơ giấy tờ kiện tụng của cuộc sống phức tạp khiến mỗi lần trở về nhà của cô đều nặng trĩu mệt mỏi. Trong khi làm MC vừa vui, vừa thư giãn lại thu nhập cao. "Người ta mời tôi đến để nói mấy câu hài hước vui vẻ. Thu nhập từ một đêm làm MC bằng 3 tháng lương luật sư. Thế thì sao tôi không bỏ nghề luật sư đi làm MC" - đó là chia sẻ của cô.

Hiện Nguyễn Cao Kỳ Duyên là một người dẫn chương trình cho Trung tâm Thúy Nga Paris. Người bạn dẫn ăn ý của cô là nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn - một đồng hương Hà Tây của cô.

Ba cuộc tình với ba người đàn ông

Tài sắc vẹn toàn, nhưng cuộc sống riêng tư của Nguyễn Cao Kỳ Duyên thì không suôn sẻ. Nó đa đoan đúng như câu Kiều "Tài tình chi lắm cho trời đất ghen".

Nguyễn Cao Kỳ Duyên kết hôn lần đầu với bác sĩ nổi tiếng Nguyễn Quang Li. Cuộc hôn nhân được cho là vô cùng môn đăng hộ đối này cho ra đời hai cô con gái là Yenli và Maili. Chồng bác sĩ, vợ luật sư, cuộc sống sung túc, giàu có tưởng là không còn gì bằng. Thế nhưng nó đã kết thúc sau nhiều năm tháng bất đồng mệt mỏi.

Mặc dù Nguyễn Cao Kỳ Duyên chưa từng chia sẻ gì về cuộc hôn nhân đầu tiên, nhưng bà Đặng Tuyết Mai có nói trong cuốn hồi ký rằng, bác sĩ Nguyễn Quang Li quá vô tâm, không đồng điệu được với tâm hồn giàu cảm xúc và phóng khoáng của Kỳ Duyên. Thậm chí, ông còn nhiều lần thoái thác đưa vợ đi diễn xa. Những mâu thuẫn nhỏ nhặt đó cứ tích tụ cho đến 1 ngày tình cảm mòn nhạt hết, Kỳ Duyên quyết định đâm đơn li hôn. Cô trở về thời độc thân với hai cô con gái nhỏ còn quá bé bỏng.













P.Anh chuyển

vendredi 12 février 2016

NGƯỜI LÀ BỤI TRO



NGƯỜI LÀ BỤI TRO


Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro 

Một mai người sẽ trở về bụi tro” (Thánh ca)

Bài thánh ca đã trở thành quen thuộc mỗi khi Mùa Chay về.  Lời ca đơn sơ mà da diết, bi ai mà thiết thực, nhắc chúng ta nhớ về thân phận con người. 

          Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu công giáo, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu.  Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, hết thảy đều nhận mình là thân phận bụi đất, hư vô.  Nghi thức này thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của mình.  Bụi tro xem ra đơn giản là thế mà lại gợi ý suy tư với bao điều sâu sắc.


1- Bụi tro nhắc nhở chúng ta sự mỏng giòn của kiếp người 


Tro là phần còn lại của một số chất liệu sau khi đã bị lửa thiêu rụi.  Tiền thân của tro có thể là những đồ vật một thời quý giá, sang trọng, có thể là những bông hoa một thời kiêu sa, rực rỡ.  Thế rồi, với tác động của ngọn lửa, những gì là rực rỡ không còn, những gì là kiêu sa đã mất, còn lại chỉ là nắm tro tàn vô dụng.  Phụng vụ khuyên đốt những cành lá sử dụng trong Chúa nhật lễ Lá năm trước để lấy tro dùng trong nghi thức làm phép và xức tro.  Những cành lá nhắc lại lời tung hô của người dân thành Giêrusalem khi Đức Giêsu tiến vào thành thánh.  Như những cành lá xanh tươi mau khô héo do tác động của thời gian, những lời ca tụng con người dành cho nhau sớm bị lãng quên vì chỉ nhất thời.  Nếu có rất nhiều người tung hô Đức Giêsu khi Người vào thành thánh ngày Chúa nhật lễ Lá, thì cũng có khá đông những cánh tay giơ lên chiều thứ Sáu để đòi lên án tử cho Người.  Khoảng cách cho một cành lá từ lúc xanh tươi đến lúc héo tàn mỏng manh là thế. 
          Khi tham dự nghi thức hỏa táng một người thân, chúng ta cảm nghiệm cách sâu xa sự mỏng giòn của thân phận con người.  Chỉ sau vài giờ đồng hồ, ngọn lửa đã biến thân xác con người trở thành tro bụi.  Vẻ đẹp đẽ xinh tươi sẽ không còn; giàu sang phú quý sẽ biến mất.  Những hộp hài cốt đặt để gần nhau trong ngôi “nhà tưởng niệm” cho thấy, sau khi chết, con người chẳng còn chi khác biệt.  Giàu sang, nghèo hèn có cùng một địa chỉ; yêu thương thù ghét cùng một chốn đi về. 
          Như một đoá hoa vô thường, cuộc đời mỏng manh, nay còn mai mất.  Mỗi ngày qua đi, thân xác con người thay đổi, rồi đến mùa thu cuộc đời, họ trở nên tàn tạ. 
          Vượt lên thân phận mỏng giòn chóng qua của kiếp con người, đức tin công giáo hướng chúng ta về những giá trị vĩnh cửu.  Quả vậy, nếu thân xác con người như đoá phù dung sớm nở tối tàn, thì linh hồn con người lại trường tồn bất tử.  Nếu cuộc sống thế gian dừng lại khi con người nhắm mắt xuôi tay, thì cuộc sống vĩnh cửu lại khởi đầu lúc con người giã biệt trần thế.  Phủ nhận linh hồn bất tử, con người sẽ bất hạnh, vì sau khi chết, họ trở về với hư vô.  Không tin Thiên Chúa hiện hữu, người ta sẽ sống trong vô vọng, vì không tìm đâu được lý tưởng cuộc đời.


2- Bụi tro nhắc nhở chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng Vĩnh cửu 


Tác giả sách Sáng thế nói với chúng ta, thân xác con người được tạo thành từ bùn đất, rồi con người sẽ trở về với đất, vì từ đất mà ra.  “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật” (St 2, 7).  “Con người” chỉ khác với đất là có hơi thở.  Chính Thiên Chúa đã “thổi hồn” cho đất để đất trở nên người.  Đất với người từ đó mà có duyên nợ, luôn gắn liền với nhau.  Con người sống nhờ đất khi thọ hưởng biết bao hoa màu từ đó, rồi cũng chết vì đất khi đổ mồ hôi trán để tồn tại và mưu sinh.  Đất là chỗ đứng chắc chắn cho bước chân người khi họ còn sống; Đất mở rộng vòng tay đưa con người trở về an nghỉ khi họ từ giã cuộc đời.  Hành trình con người khởi đi từ đất, qua một chuỗi những tháng ngày vui tươi đau khổ, hân hoan, thất vọng, rồi con người lại trở về với… đất.  Cách trình bày của tác giả sách Sáng thế cho ta thấy tình thương bao la của Thiên Chúa.  Con người là một tác phẩm do chính Chúa tạo nên.  Ngài như một người thợ thủ công lành nghề, khéo léo nhào nắn đất để tạo nên hình dạng con người.  Với tình yêu thương, Ngài chăm sóc và ban cho con người hơi thở.  Hơi thở ấy chính là hơi thở của Ngài.  Thật kỳ diệu khi được biết sự sống của chúng ta chính là hơi thở của Thiên Chúa.  Nhờ hơi thở của Chúa mà con người trở nên cao cả, tuy được nắn từ bùn đất.  Sau cuộc đời lo toan giữa nhân tình thế thái, con người trước khi về với đất “trút linh hồn”, trả lại “hơi thở” cho Chúa, trong tâm tình biết ơn trìu mến, như người con phó thác trọn vẹn nơi Cha mình.


3- Bụi tro nhắc chúng ta sống tốt cuộc đời tạm này 

        
Khi ý thức được sự mỏng giòn chóng qua của thân phận con người, chúng ta chọn lựa và gắn bó với những giá trị trường tồn vĩnh cửu.  Của cải vật chất chỉ là phương tiện Chúa ban để chúng ta sống xứng với phẩm giá con người và để giúp đỡ anh chị em.  Chúng ta không thể mang theo chúng khi giã biệt cõi đời.  Cánh tay buông thõng của người vừa trút hơi thở cuối cùng cho thấy, con người đến thế gian với hai bàn tay trắng, nay trở về với cát bụi cũng chỉ là tay không.  Thật bất hạnh cho những ai coi tiền bạc của cải như những chiếc “phao cứu hộ” vào lúc cuối đời. 
          Vì những lợi lộc trần gian mà không thiếu người dùng mọi mưu mô mánh lới.  Vì vinh quang nhất thời mà có người đã coi nhẹ lương tâm.  Bụi tro nhắc chúng ta những vinh quang trần thế cũng chỉ như đoá hoa rực rỡ hôm nay, ngày mai sẽ trở thành tro bụi.  Chỉ có tình Chúa tình người mới lâu bền tồn tại, mãi đến thiên thu.
          Nếu bàn bay buông thõng của người vừa nằm xuống chẳng mang theo được gì khi tạm biệt cõi đời, thì những công phúc họ đã thực hiện ở đời này lại theo họ mãi mãi (x. Kh 14, 13).  Vì vậy, trong cuộc đời quá ngắn ngủi này, chúng ta được kêu gọi tận dụng thời gian để sống tình nhân ái với nhau. Hãy thôi những bon chen lừa lọc vì cuộc đời chẳng là mấy.  Hãy dừng những toan tính nhỏ nhen vì chẳng ai sống mãi trên đời.  Thấy rõ cuộc sống chóng qua giúp ta thiện chí sống bao dung quảng đại. “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng”. “Tiếng” đây là lòng nhân hậu, là đạo đức của con người.  Một người sống tốt lành, khi thân xác của họ đã an nghỉ trong lòng đất, cái đức của họ vẫn còn.  Họ vẫn được lưu danh với thời gian. 
                                         “Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro 
                                         Một mai người sẽ trở về bụi tro” 
          Lời ca đơn sơ mà da diết, bi ai mà thiết thực, nhắc chúng ta nhớ về thân phận con người, hướng chúng ta về với Đấng Vĩnh Cửu qua những thực hành cụ thể của cuộc sống hôm nay.

GM Giuse Vũ Văn Thiên 

Ngọc Nga- PAnh sưu tầm