mardi 11 décembre 2018

Little Saigon: Đông kín người xem triển lãm và hội thảo Trương Vĩnh Ký tại báo Người Việt 08-12

Little Saigon: Đông kín người xem triển lãm và hội thảo Trương Vĩnh Ký tại báo Người Việt

Bác Sĩ Quách Nhất Trí chỉ con trai Ben vị danh nhân ông nội Nhất Danh thường nói. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)
Đằng-Giao/Người Việt
WESSTMINSTER, California (NV) – Vừa mở cửa lúc 10 giờ sáng Thứ Bảy, 8 Tháng Mười Hai, phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt, Westminster đã chật kín với 200 khách tham dự Triển Lãm và Hội Thảo Tưởng Niệm ông Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898).

Hai bên tường là một bộ sưu tập công phu, gồm nhiều chân dung của Trương Vĩnh Ký và một số hình ảnh sinh hoạt của ông.
Giữa một rừng tóc trắng râm ran thăm hỏi nhau, có lác đác vài mái đầu đen lặng lẽ tìm chỗ ngồi.
Anh Hào Nguyễn, cư dân Garden Grove, cho biết anh có mặt tại buổi hội thảo vì muốn tìm hiểu hơn về văn hóa Việt.
“Tôi quan niệm rằng mình là người gốc Việt không phải vì có tên họ Việt Nam. Qua đây, người mình càng phải hiểu biết thật rõ về văn hóa, lịch sử  Việt để còn biết mà truyền đạt cho thế hệ kế tiếp,” anh chia sẻ, “Những chương trình hội thảo như hôm nay rất cần thiết cho sinh hoạt hải ngoại.”
Cũng còn rất trẻ, anh Hải Ngô, ở Irvine, nói: “Tôi đọc rất nhiều sách báo của ông Trương Vĩnh Ký. Tuy nhiên, tôi vẫn muốn tìm hiểu nhiều hơn nữa. Đọc sách Trương Vĩnh Ký viết về Trương Vĩnh Ký nhiều rồi, tôi muốn nghe người khác nói về ông.”
Cô Tracy Đào, ở Westminster, nở nụ cười duyên dáng nói: “Em có ông chú năm nay 72 tuổi, cứ than là trong đời chú có một hối hận duy nhất là không thi đậu vào trường Petrus Ký được. Ba em, hồi còn sống cũng thường nói về những hãnh diện của ông khi còn là học sinh trường này. Em có cảm tưởng như trung học Petrus Ký đối với người Việt Nam cũng ‘tầm cỡ’ như Đại Học Harvard bên này. Bởi vậy em muốn biết về ông, ngoài những gì ba em kể.”
Rất nhiều người muốn biết về học giả Trương Vĩnh Ký. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)
Ông Nguyễn Chí Kham, ở Santa Ana, nói như reo: “Chương trình hôm nay quý quá. Chỉ người mình ở đây mới có thể tổ chức được. Tôi cầu sao cho người trong nước được nghe buổi hội thảo này để biết sự thật.”
Ông Nguyễn Văn Kha, từ Đức sang, nói: “Tôi qua đây thăm hỏi bạn bè. Không ngờ may mắn lại được dịp dự một buổi nói chuyện quí báu như hôm nay.”
Cũng như phần đông người hiện diện, ông là cựu học sinh Petrus Ký.
Mọi người rất cảm động khi thấy Giáo Sư Lê Xuân Khoa tuổi già lại vừa yếu sức mà vẫn cố gắng tham dự.
Thay mặt ban tổ chức, Giáo Sư Nguyễn Trung Quân cho biết rằng nhà báo Đỗ Quý Toàn, nhà báo Phạm Phú Minh và bản thân ông cùng tổ chức buổi hội thảo.
Tuổi nào cũng thích hình ảnh hiếm thấy về cụ Trương Vĩnh Ký. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)
Sau đó, ông cùng nhà báo Phạm Phú Minh mời Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm, cựu giáo viên Petrus Ký, nói về góc nhìn của ông về danh nhân Petrus Trương Vĩnh Ký.
Ông Sâm cho biết, theo tài liệu sưu tập của ông Nguyễn Văn Tố, Trương Vĩnh Ký thông thạo nhiều ngôn ngữ, như tiếng Hán, tiếng Latinh, Pháp, Anh, Trung Hoa, Xiêm, Miến Điện, Nhật, Ấn Độ, Hy Lạp…
Vì học giả đã được Toàn Quyền Paul Bert sắp xếp để vừa làm gạch nối giữa triều đình Việt Nam và nước Pháp, vừa dạy tiếng Pháp cho vua Đồng Khánh và được vua phong là Nam Trung Ẩn Sĩ.
Theo ông Quân, Petrus Ký là người có ba đức tính: Khoa học, lương tâm và khiêm cung. Cả đời ông dược dùng vào việc kêu gọi nhân nghĩa và tình đồng bào.
Di cảo quí hiếm vừa tìm được của cụ Petrus Ký. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)
Ông Quân nhắc nhở rằng Petrus Ký nhà nghèo, từng đóng cửa tòa soạn vì không đủ tiền trang trải và cả đời không hề có tước vị gì cả. “Như vậy, không có chứng cớ gì cho thấy ông cấu kết với Pháp để làm hại quê hương, dân tộc,” ông khẳng định. “Ngược lại, Petrus Ký là một người yêu nước vô cùng, đến cả người Pháp còn biết.”
Ông kết: “Bốn mươi năm sau khi ông mất, Petrus Ký mới được vinh danh. Thử hỏi nếu không phải là người thực lòng yêu nước thì sao ông không bị chìm vào quên lãng?”
Diễn giả kế tiếp là Giáo Sư Trần Văn Chi. Ông nói về tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam: Gia Định Báo.
Dù phải có người Pháp đứng tên theo luật thời đó, ông Trương Vĩnh Ký vẫn là người dùng báo này để phát triển ngôn ngữ Việt hiện đại, theo ông.
Có nhiều ý kiến chống đối việc học chữ quốc ngữ, nhưng Petrus Ký vẫn một lòng thúc đẩy việc này vì ông biết đây là cách duy nhất để giảm thiểu nạn mù chữ ở Việt Nam, ông Chi cho biết.
Để thay đổi không khí, nhạc sĩ Nghiêm Phú Phát trình diễn bài hành khúc của của trường Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác năm 1939 với lời tiếng Pháp của ông Le Jeannic, hiệu trưởng của trường lúc bấy giờ.
Ông Phát cho biết rất ngạc nhiên khi nhà báo Phạm Phú Minh sưu tìm được nhạc phẩm này. Đại khái, bài hát thay lời Petrus Ký kêu gọi học sinh nên sống cho quê hương, “mảnh đất đáng quý này,” với lời lẽ chứa chan tình thầy trò và dân tộc.
Một cô chiêm ngưỡng bước chân tiền nhân. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)
Buổi chiều, các diễn giả tiếp nối chương trình trong sự háo hức của người nghe.
Nhà bình luận văn học Bùi Vĩnh Phúc chia sẻ một số nhận định sâu sắc về vài nét đặc thù thú vị của Trương Vĩnh Ký trong những đóng góp lớn lao cho văn hóa Việt Nam.
Ông Phúc chia sẻ, qua bản phiên âm truyện Kiều từ chữ Nôm qua chữ quốc ngữ, ông Trương Vĩnh Ký đã cho đông đảo quần chúng được thưởng thức cách sử dụng chữ Nôm thần diệu của của cụ Nguyễn Du.
Qua truyện Kiều chữ Nôm, chữ quốc ngữ cổ, Nguyễn Du đã làm cho văn hóa Việt thêm dồi dào, phong phú, và qua bản phiên âm này, Trương Vĩnh Ký, với chữ quốc ngữ mới, đã có công to lớn là cho đông đảo quần chúng cái quyền hãnh diện vì có một nhà thơ Việt, dùng tiếng Việt một cách thần tình với những điều tuyệt vời đến thế.
Ông Phúc nhấn mạnh, Petrus Ký là người đi tiên phong trong việc làm giàu đẹp cho tiếng Việt, cả về ngữ âm và ngữ nghĩa.
Ông đã phải rất giỏi chữ Nôm để nắm bắt hồn thơ óng ánh mượt mà của Nguyễn Du và chuyển tải một cách tài tình qua chữ quốc ngữ, một thứ tiếng còn quá mới mẻ, chưa hoàn chỉnh, ông Phúc nói.
Ngày nay, có được những dòng thơ với thủ pháp tuyệt vời của Nguyễn Du trong truyện Kiều mà chúng ta vẫn mãi hoài suy ngẫm là nhờ công Petrus Ký.
Ngoài ra, ông còn phiên âm bộ Minh Tâm Bửu Giám, Tứ Thư và biên soạn tự điển Pháp-Việt, Việt-Pháp cùng nhiều sách giáo khoa để giúp cả người Việt lẫn người Pháp.
Những cuốn sách như Kim Vân Kiều, Phan Trần, Lục Vân Tiên, Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Tân Hợi 1876, Chuyện Đời Xưa, Chuyện Khôi Hài, Lục Súc v.v., lần đầu tiên được in bằng chữ quốc ngữ và xuất bản trong nửa sau của thế kỷ 19.
Luật Sư Winston Phan Đào Nguyên khẳng định rằng Trương Vĩnh Ký là người đi trước thời đại hơn cả trăm năm, ông có suy nghĩ rộng hơn, khác hơn và cao hơn người khác. Có lẽ vì vậy, nhiều người không hiểu kịp ông nên nảy sinh ra nhiều sai lầm khi bàn luận về ông.
Ông bàn về một câu Latinh đã gắn liền với Petrus Ký gần 60 năm qua là “Sic vos non vobis” và gây rất nhiều tranh cãi cho đến hôm nay.
Một dấu hiệu tốt khi giới trẻ muốn biết về nhà văn hóa Trương Vĩnh Ký. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)
Trong thư gởi một người bạn ở Pháp là Bác Sĩ Alexis Chavanne năm 1887, ông có dùng câu “Sic vos non vobis” và sau này, Khổng Xuân Thu dịch thành “Ở với họ mà không theo họ.”
Sự hiểu lầm ghê gớm bắt đầu khi đoạn thư bị dịch sai lạc là: “Điều duy nhất và đơn độc (về chính trị) mà tôi tìm kiếm là có lợi, đúng như câu châm ngôn Latinh “Sic vos non vobis” (ở với họ mà không theo họ). Đó là định mệnh của tôi và điều tự nhủ chính bản thân tôi.”
Ông Wilston vạch rõ, thực ra, “Sic vos non vobis” là từ những vần thơ của thi hào Virgil. Nghĩa đen chỉ là “như vậy, các anh không phải cho các anh,” hiểu theo nghĩa thông dụng, câu này là “ không phải cho tôi.”
“Bank of England” cũng dùng nghĩa này làm phương châm phục vụ.
Do đó, để thực sự hiểu Petrus Ký, đoạn thư trên phải dịch là “Điều duy nhất mà tôi theo đuổi là làm sao cho có lợi, tuy phải nói thêm rằng (lợi ích đó) không phải cho tôi. Đó là số phận và là niềm an ủi của tôi.”
Ông kết luận, hiểu lầm về Petrus Ký thì có rất nhiều, vì mấy mươi năm trước, ông đã bộc lộ suy nghĩ bằng tiếng Latin, một thứ tiếng không mấy người hiểu. Ngày nay, với phương tiện internet, bổn phận của chúng ta là tìm hiểu chính xác hơn về nhân vật có một không hai của lịch sử Việt Nam.
Nhà báo Phạm Phú Minh, vị diễn giả sau cùng, nói về lối viết “An Nam ròng” của cụ Trương Vĩnh Ký.
Ông là người đầu tiên viết văn xuôi bằng chữ quốc ngữ. Tiêu biểu nhất là hai quyển “Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi” và “Chuyện Đời Xưa.”
Trong cuốn đầu, ông ghi chép mọi chuyện trong chuyến đi bằng lời văn bình dân, ai đọc cũng hiểu; và do đó, đã đạt đến lối viết tiêu chuẩn của ngày nay.
Nhưng trong cuốn thứ nhì thì lại khác, ông viết theo lối kể chuyện với một văn phong riêng, cách dùng từ ngữ riêng, ông Minh trình bày.
Một cách tóm tắt, học giả Petrus Ký đã làm cho tiếng Việt đa dạng, phong phú, cầu kỳ và tinh tế hơn với chủ trương gần gũi với quần chúng bình dân.
Lần đọc những dòng chữ quốc ngữ đầu tiên của dân tộc. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt)
Cả năm diễn giả cùng đến với lòng kính mến cụ Petrus Trương Vĩnh Ký một cách sâu đậm, và phần diễn thuyết của từng vị đều vô cùng công phu, có thể đúc kết thành một tài liệu quý báu.
Nhà báo Phạm Phú Minh cho hay, trong 20 năm qua, tại Little Saigon này đã có các cuộc hội thảo với các đề tài về văn học, văn hóa như: Phạm Quỳnh (1999), Văn Học Hải Ngoại (2007), Tự Lực Văn Đoàn (2013), Văn Học Miền Nam (2014), Phan Thanh Giản (2017),… và lần này, cuộc triển lãm cùng hội thảo về Petrus Trương Vĩnh Ký với số đông diễn giả và người hưởng ứng như vậy phải được coi là lớn lao. (Đằng-Giao)
KLiên sưu tầm


dimanche 9 décembre 2018

Nữ đạo diễn gốc Việt gây Caroline Guiela Nguyen gây tiếng vang ở Pháp với vở kịch 'Sài Gòn'

Nữ đạo diễn gốc Việt gây tiếng vang ở Pháp với vở kịch 'Sài Gòn'

Caroline Guiela Nguyen, mang trong mình dòng máu Việt và Pháp, mượn sân khấu để kể những câu chuyện đời giản dị mà có sức mạnh lay động lòng người.

Người Việt trẻ ở Pháp níu giữ thế hệ thứ hai với nguồn cội



Đạo diễn vở kịch "Sài Gòn" Caroline Guiela Nguyen. Ảnh: Viện Pháp tại TP HCM.


Sinh năm 1981 trong một gia đình có mẹ là người Việt Nam xa xứ và cha là người Pháp hồi hương từ Alegria, Caroline Guiela Nguyen sở hữu khuôn mặt của một nữ minh tinh với đôi mắt hút hồn và mái tóc dài đen tuyền. Là con lai, cô không được biết về quá khứ của gia đình và bị từ chối nói về cội rễ của mình vì cha mẹ hy vọng nhờ vậy cô sẽ hội nhập tốt hơn vào xã hội Pháp. Chỉ còn ẩm thực, những món ăn Việt Nam là mối liên hệ duy nhất mà họ chia sẻ với nhau và truyền lại cho các thế hệ sau. "Dấu ấn mà cha mẹ để lại trong tôi là tình yêu ẩm thực. Tôi có thể không nói được tiếng Việt nhưng tôi nấu các món ăn Việt Nam rất khá", nữ đạo diễn mở đầu cuộc phỏng vấn với VnExpress.

Ở tuổi 37, Caroline Guiela Nguyen, hiện là thành viên thường trực của Nhà hát quốc gia Odéon, có hơn 10 năm kinh nghiệm làm nghề. Tác phẩm mới nhất của cô, vở "Sài Gòn", sau khi gây tiếng vang lớn tại Liên hoan sân khấu Avignon 2017, đã được trình diễn tại 14 thành phố trên thế giới, sẽ ra mắt công chúng Việt Nam vào ngày 21 và 22/9 tại TP HCM. "Tên của vở kịch đã nói lên tất cả", Caroline Guiela Nguyen cho biết cô đặc biệt xúc động khi mang vở "Sài Gòn" về quê mẹ.

'Nhân dạng Việt Nam'



Đạo diễn Caroline Guiela Nguyen trong buổi phỏng vấn qua mạng thực hiện tại Tổng lãnh sự quán Pháp ở TP HCM ngày 7/9. Ảnh: Hạnh Phạm.


Lấy bối cảnh là một nhà hàng Việt Nam với căn bếp nằm ở bên trái, phòng hát karaoke nằm ở bên phải, sân khấu của vở "Sài Gòn" đưa khán giả vượt thời gian về Paris năm 1996 và Sài Gòn năm 1956. "Đây là hai mốc thời gian rất quan trọng", đạo diễn nói.

Năm 1956 là thời hạn chót người Pháp buộc phải rút khỏi Việt Nam sau thất bại ở trận Điện Biên Phủ. Đi cùng những lính Pháp cuối cùng là nhiều người Việt Nam rời quê hương. Họ ra đi mà không biết rằng phải đợi 40 năm trôi qua mới có thể trở về. Năm 1996 là thời điểm Mỹ và Việt Nam bình thường hóa quan hệ. "Lúc đó, trong gia đình tôi, câu hỏi đặt ra là chúng tôi có nên trở về hay không", nữ đạo diễn nhớ lại.

Và Caroline Guiela Nguyen, khi đó 15 tuổi, đã cùng mẹ và bà ngoại đã trở về Sài Gòn. Lần đầu tiên đến Việt Nam, cô cảm thấy mọi thứ "hoàn toàn xa lạ". Cảm giác này choáng ngợp đến mức cô ở trong nhà suốt hai tuần và không dám bước ra ngoài.

Cô cảm thấy một phần nào đó mình là người Việt Nam nhưng cảm giác này chỉ rõ ràng khi cô ở Pháp. Còn khi về đến Việt Nam, cô không cảm thấy mình giống người Việt Nam vì "tôi cao lớn hơn người Việt và tôi không nói được tiếng Việt". Nữ đạo diễn giải thích cha mẹ cô không muốn dạy tiếng Việt cho các con - thế hệ con lai sinh ra và lớn lên ở Pháp- "bởi vì họ muốn chúng tôi hội nhập với xã hội bên này".

"Tôi gặp những người họ hàng có khuôn mặt giống mẹ tôi, dì tôi nhưng cuộc sống và điều kiện kinh tế của họ rất khác biệt, chính điều đó làm cho tôi thấy đáng nhẽ Việt Nam phải là nơi rất thân thuộc lại trở nên xa lạ. Và tôi cảm thấy không thoải mái trong một thời gian dài khi sống trong sự nhập nhằng đó", cô tâm sự.

Vở "Sài Gòn" kể câu chuyện về niềm khắc khoải không nguôi của những người sống xa xứ như cha mẹ của Caroline Guiela Nguyen. Cô cho biết cha cô không bao giờ nhắc lại giai đoạn ông sống ở Algeria. Những người như cha cô, được gọi là "pied noir" (bàn chân đen), là những thực dân Pháp da trắng sống tại Algerie trước khi đất nước này giành được độc lập.

Nhiều người Pháp trong nước đổ lỗi cho đồng bào sống trên lục địa đen về sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân Pháp và không chào đón họ quay trở về. Trong khi đó, những người này cũng không thể sống ở Algerie bởi sự thù địch của dân bản xứ. Những người như cha của Caroline Guiela Nguyen bị giằng xé giữa quê hương và mảnh đất nơi họ sinh sống.

Tuy nhiên, nữ đạo diễn nhấn mạnh vở "Sài Gòn" không phải là tự truyện của gia đình cô. "Đây không chỉ là câu chuyện một nhóm người tha hương, về cộng đồng Việt kiều sống ở Pháp, mà là về một phần lịch sử quan trọng của nước Pháp. Câu chuyện này thuộc về tất cả mọi người".

"Sài Gòn" kể câu chuyện về cuộc đời của những người Pháp và Việt Nam bị đưa đẩy theo dòng lịch sử trải dài suốt 40 năm. Đó là câu chuyện giữa Mai và Hào. Họ yêu nhau nhưng buộc phải chia ly. Năm 1956, Hào phải rời Việt Nam để sang Pháp, bỏ lại phía sau tình yêu lớn nhất của cuộc đời mình. Bốn mươi năm sau, lúc đã có tuổi, Hào cùng con gái của mình quay trở lại Sài Gòn. Ông tưởng như bắt gặp lại hình bóng của người xưa ở đâu đó.

Đó là câu chuyện giữa Linh và Édouard. Họ quen nhau trong giai đoạn chiến tranh Đông Dương. Anh lính người Pháp đã đưa Linh sang Pháp. Cô gái trẻ ngây thơ tưởng rằng một cuộc sống hạnh phúc đang chờ đợi họ ở đó.

Đó là câu chuyện giữa Linh về già và cậu con trai tên là Antoine. Antoine không hiểu ngôn ngữ cũng như vẻ bề ngoài lạnh lùng của mẹ. Anh không thể nào hiểu được quá khứ của bà.

Đó là câu chuyện về Marie-Antoinette, chủ một nhà hàng tốt bụng, người phụ nữ Việt Nam được cha mẹ đặt tên theo tên của "Bà hoàng Pháp". Marie-Antoinette nhận được tin con trai mình không còn nữa sau khi nhập ngũ năm 1939. Đằng sau vẻ bề ngoài luôn niềm nở với thực khách, bà lặng lẽ khóc vào mỗi tối trong góc bếp. Hàng năm, bà mặc bộ đầm đẹp nhất vào ngày sinh nhật của con trai.



Video Player is loading.
Dừng
Hiện tại 0:20
/
Thời lượng 2:25
Đã tải: 0%

Tiến trình: 0%
Bỏ tắt tiếng
Toàn màn hình



Phóng sự của kênh truyền hình Arte về vở kịch “Sài Gòn” trong đợt công diễn tại nhà hát Odéon vào tháng 1 và 2.

Vở kịch dài gần 4 tiếng không chỉ đưa khán giả du hành từ thời kỳ này đến thời kỳ khác mà còn từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Những tưởng việc các diễn viên đan xen thoại bằng tiếng Pháp và tiếng Việt, sẽ gây khó khăn cho người xem nhưng vở kịch đã được đón nhận nồng nhiệt ở nhiều nước như Thụy Điển, Trung Quốc và Italy, nơi khán giả hoàn toàn không hiểu cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt.

Theo nữ đạo diễn, khán giả quốc tế không có mối liên hệ với Việt Nam vẫn cảm thấy kết nối với những chuyện đời trong vở kịch. "Sài Gòn cộng hưởng với trí tưởng tượng của khán giả", cô nói.

'Con đường đẫm nước mắt ở Sài Gòn'

Bằng phong cách dàn dựng tinh tế và lối kể chuyển khơi gợi trí tưởng tượng, Caroline Guiela Nguyen nhẹ nhàng đưa lên sân khấu nỗi đau thầm kín của những con người bình thường. Khi xây dựng vở kịch, cô và ê-kíp sản xuất không có chủ đích tạo ra một vở bi kịch. "Cụm từ này là do khán giả và báo chí nhận xét", cô nói. "Với tôi, có lẽ nếu gọi đây là 'vở kịch tình cảm' thì phù hợp hơn vì cảm xúc lan tỏa từ từ nhờ vào sự ứng diễn của diễn viên".

Nữ đạo diễn kể trong thời gian ở Việt Nam tìm chất liệu cho vở "Sài Gòn", cô cảm thấy mọi thứ ở Sài Gòn "đều dẫn dắt tới con đường đẫm nước mắt" như những bản tình ca da diết hay những câu chuyện buồn cô được lắng nghe. Do vậy, khi dựng vở kịch, cô muốn tái hiện những thứ đã cảm nhận được ở Sài Gòn. "Đây là cách kể chuyện ở Việt Nam với thật nhiều nước mắt", theo lời tự sự của nhân vật trong vở kịch.

Kể từ lần đầu tiên về Việt Nam năm 1996, nữ đạo diễn trở về quê mẹ mỗi năm một lần. Để dựng vở "Sài Gòn", trong suốt hai năm, Caroline Guilea Nguyen đã đi lại nhiều lần giữa Việt Nam và Pháp, giữa Paris và TP HCM. Và khi quay trở lại Paris, cô đã viết vào sổ tay một dòng ngắn gọn "Không được quên Sài Gòn" để nhắc bản thân "không được quên những gì đã cảm nhận ở nơi đó".

Cô cho biết khi có mặt ở Sài Gòn, cô có thể hiểu về thành phố, nắm bắt bầu không khí ở đây và cân đong đo đếm đến từng chi tiết mà cô quan sát được thông qua "việc lắng nghe âm nhạc, gặp gỡ mọi người, ăn các món ăn Việt Nam trong thứ không khí nóng ẩm". Cùng các cộng sự âm thanh, ánh sáng, thiết kế sân khấu và phục trang, cô "đã ngắm tất cả bằng một con mắt nghệ thuật, không phải trần thuật để từ đó sáng tạo vở diễn trong sự tưởng tượng".

Cô nhớ hình ảnh người tài xế taxi sụt sùi khi nghe bài hát buồn về tình yêu, những quán karaoke nơi người ta thì thầm hát và khóc rất nhiều. "Và chúng tôi bị nhiễm cái tinh thần đó", nữ đạo diễn nói. Vở kịch khiến người ta nhỏ nước mắt về một phần lịch sử Pháp mà không nhiều người biết đến và những câu chuyện gắn với một giai đoạn di dân ít được kể lại.

Hai năm chuẩn bị cho vở kịch còn giúp Caroline Guilea Nguyen hiểu một cách sâu sắc về Việt Nam. Ấn tượng của cô về đất nước gọi lên bằng từ "lãng quên". "Bà ngoại tôi có 9 người con và mẹ tôi là con cả nhưng bà luôn gọi mẹ tôi là 'Hai', nghĩa là đứa con thứ hai. Tôi đã không hiểu nổi vì rõ ràng mẹ tôi là người con thứ nhất. Và sau khi ở Việt Nam một thời gian dài, tôi mới biết mọi người gọi như thế vì họ quan niệm luôn có một đứa con bị lãng quên ở đâu đó. Như vậy, ngay trong ngôn ngữ sự quên lãng đã ngự trị rồi", cô giải thích.

Trên sân khấu của "Sài Gòn", những diễn viên người Việt, cùng các cộng sự chuyên nghiệp người Pháp và các diễn viên không chuyên Việt kiều, kể lại những mất mát, những đấu tranh nội tâm của những con người tha hương và những mảnh ký ức về chiến tranh Đông Dương.

"Câu chuyện thật giản dị, không từ ngữ đao to búa lớn, không bạo lực, không bi kịch, không đam mê thái quá. Mà chỉ là một câu chuyện buồn. Buồn một cách tuyệt vọng. Và tuyệt đẹp. Caroline Guilea Nguyen đã bắt được tinh thần ấy", như tờ Télérama nói về nữ đạo diễn mang trong mình dòng máu Việt.

Hạnh Phạm
Anh Thư sưu tầm

Trương Vĩnh Ký – Nhà Giáo dục yêu nước của Việt Nam


Trương Vĩnh Ký – Nhà Giáo dục yêu nước của Việt Nam


Tác giả: Nguyễn Quang Duy
.Với hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật, Trương Vĩnh Ký khẳng định mình là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học và khảo cứu văn hóa nổi tiếng, tài năng của Việt Nam (thế kỷ 19). Ông cũng được coi là người đi tiên phong của nền báo chí (chữ quốc ngữ), người sáng lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên mang tên Gia định báo.
.Trương Vĩnh Ký một nhà văn hóa lớn của nước Việt. Nhưng bài viết này tác giả chỉ tập trung vào những “nỗ lực giáo dục và cải cách ngôn ngữ tiếng Việt” của ông
.Xin đăng bài viết để bạn đọc chia sẻ
NGUỒN
——————  
Trương Vĩnh Ký, người tạo nền móng cho giáo dục và cải cách ngôn ngữ Việt Nam vào thế kỷ 19, là nhà bác học nhiều năm qua vẫn chưa được hậu sinh hiểu một cách tận tường.
Bài viết này muốn nhắc lại nỗ lực giáo dục và cải cách ngôn ngữ tiếng Việt của ông nhân kỷ niệm 181 năm ngày sinh của ông, vào ngày 6/12/1837 tại ấp Cái Mơn, tỉnh Vĩnh Long.
Sau 30/4/1975, khi ngôi trường trung học Petrus Trương vĩnh Ký bị đổi tên và bức tượng bán thân giữa sân trường bị dời đi, học sinh chúng tôi thường tranh luận về “công và tội” của Petrus Ký khi mượn tay người Pháp giúp nền văn học nước nhà.
Chúng tôi thường kết thúc bằng ngạn ngữ được Pétrus Ký dùng nhiều lần khi viết thư “Sic vos non vobis”.
Hồi ấy chúng tôi hiểu câu ngạn ngữ trên là “Ở với họ mà không theo họ”, vừa tránh dẫn đến chuyện bị quy kết “phản động”, vừa tỏ bày tâm sự “Ở với cộng sản mà không theo cộng sản”.
Gần đây tôi mới biết câu ngạn ngữ tiếng La Tinh “Sic vos non vobis” có 2 nghĩa và dịch như trên là hoàn toàn sai ý Pétrus Ký.
Winston Phan Đào Nguyên phổ biến trên trang Nghiên Cứu Lịch Sử bài “Minh oan cho Pétrus Trương Vĩnh Ký về câu ‘ở với họ mà không theo họ’ ”, theo tác giả thì Pétrus Ký dùng một nghĩa khác của ngạn ngữ là “Làm điều lợi cho người khác chứ không cho chính mình.”
Tác giả đã trình bày rất rõ và rất thuyết phục triết lý sống của Pétrus Ký là mỗi người phải làm tròn vai trò hay số phần trong đời để làm cho xã hội của mình tốt đẹp hơn.
Cuộc đời của Pétrus Ký đã chứng minh triết lý sống này đặc biệt là sự cống hiến ông dành cho chữ Quốc ngữ và nền Quốc văn hiện tại.
Hoàn cảnh xã hội…
Pétrus Ký sinh ra cuối triều vua Minh Mạng, khi ấy nhà vua dầu muốn nhưng thất bại trong việc canh tân đất nước, triều thần chỉ toàn những nhà Nho biết làm thơ phú chứ không có ai có khả năng trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật.
Vua Minh Mạng lại thường hành xử thiếu công minh, nhất là đối với kẻ công thần, nhiều người giỏi đâm ra chán nản, trái lại phe gian nịnh nẩy nở mỗi ngày một nhiều, quan tham mỗi ngày một tăng.
Các vua nhà Nguyễn còn ra lệnh bế môn tỏa cảng không giao thương với nước ngoài, cấm đạo Công giáo, dân tình đói khổ, loạn lạc khắp nơi, để cuối cùng đất nước lọt vào tay Pháp cả trăm năm.
Petrus Ký là người công giáo, Pétrus là tên Thánh, theo học trường dòng ở Mã Lai về nước đúng lúc thực dân Pháp đem quân sang xâm chiếm nước ta.
Pháp tấn công Đà Nẵng ngày 1/9/1858 không thành nên chuyển sang tấn công 3 tỉnh miền Đông Nam Phần. Ngày 18/2/1859 Pháp chiếm thành Gia định.
Việc cấm đạo Công giáo trở nên gay gắt hơn. Petrus Ký phải trốn lên Sài Gòn và được Giám mục Dominique Lefèbre giới thiệu làm thông ngôn cho Pháp, nên từ đó bị kết tội là tay sai cho giặc.
Pétrus Ký, nỗi oan thế kỷ …
Sau 30/4/1975, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn giữ độc quyền đánh giá “công và tội” của Petrus Ký.
Năm 1993, ông Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên Cộng sản từ hồi 1930, được Ban Khoa học xã hội thành ủy Tp HCM cho phép phát hành quyển “Trương Vĩnh Ký, Con Người Và Sự Thật” nhưng sách đã bị tịch thu sau khi in mà không biết lý do.
Đầu tháng 1/2017, cuốn “Petrus Ký, nỗi oan thế kỷ” do nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu soạn đã được Cục Xuất bản cho phép lưu hành, nhưng chỉ ít ngày trước khi phát hành thì một “lệnh miệng” được ban xuống yêu cầu hủy bỏ buổi ra mắt sách.
Ông Nguyễn Đình Đầu cho trang BBC tiếng Việt biết ông đã phát hiện một tư liệu nói về sự hợp tác của ông Trương Vĩnh Ký với người Pháp từ đầu đã không có suôn sẻ như người ta vẫn tưởng:
Trong những lời đối đáp khi chính quyền Pháp yêu cầu Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn, có những văn thơ chứng tỏ là Trương Vĩnh Ký rất bất mãn trong chuyện người Pháp cư xử với người Việt Nam, cho nên ông không muốn hợp tác.“.
Bức thư giả ký tên Petrus Key…
Còn ở hải ngoại từ năm 1996, nhà nghiên cứu sử Vũ Ngự Chiêu cho phổ biến nhiều bài viết về một lá thư ông Chiêu cho là do chính Petrus Ký viết, bằng tiếng Pháp, với chữ ký là Petrus Key.
Trong lá thư Petrus Key cầu khẩn quân Pháp đến giải cứu cho những người An Nam theo đạo Thiên Chúa ở Nam Kỳ.
Mặc dù kết tội Petrus Ký nhưng ông Chiêu chưa bao giờ cho công bố lá thư gốc bằng tiếng Pháp nên không thuyết phục được nhiều người.
Nhưng nhiều nhà nghiên cứu sử trong nước lại dựa vào các bài viết không chứng cớ của ông Vũ Ngự Chiêu để tiếp tục kết tội Petrus Ký là tay sai cho Pháp.
Cũng trên trang Nghiên Cứu Lịch Sử, Winston Phan Đào Nguyên cho phổ biến một công trình nghiên cứu sử với tựa đề “Petrus Key và Petrus Ký – Chuyện một lá thư mạo danh Trương Vĩnh Ký vào thế kỷ 19”, gồm 3 bài viết.
Trong bài thứ nhất ông Nguyên cho biết đã tìm thấy lá thư ký tên Petrus Key, mà ông Vũ Ngự Chiêu bấy lâu nay giữ kín, tại Văn Khố Service Historique De La Defense ở Chateau Vincennes, Paris, Pháp.
Ông Nguyên so sánh văn phong, nội dung, hình thức, chữ viết, chữ ký… để kết luận rằng đây không phải là bức thư của Pétrus Trương Vĩnh Ký và đã có người mạo danh Petrus Ký viết lá thư này.
Trong bài thứ hai ông Nguyên cho biết kiếm thấy một lá do chính tay Petrus Trương Vĩnh Ký viết cho các bạn học ở Penang vào ngày 4/2/1859 bằng tiếng Latin khi Petrus Ký đã vào tới Sài Gòn lánh nạn cấm đạo.
Trong lá thư Petrus Ký đã kể về việc ông trốn quan quân nhà Nguyễn truy lùng và cho biết quan điểm về việc cấm đạo cũng như quan điểm về cuộc xâm lăng của liên quân Pháp và Tây Ban Nha.
Theo Petrus Ký, sự bắt đạo, tuy rất tàn ác, nhưng lại là một điều tất yếu phải xảy ra, cũng như một cơn mưa bão trước một sự yên bình, hay nói cách khác, là một thử thách của Chúa.
Nhưng ông hoàn toàn phản đối sự can thiệp bằng vũ lực của Pháp. Với ông, cách dùng vũ khí và bạo lực để can thiệp của quân Pháp là một giải pháp còn tệ hơn là bạo lực bắt đạo của vua quan nhà Nguyễn.
Trong bài thứ 3, Winston Phan Đào Nguyên chứng minh chính bà Pauline Jaricot người sáng lập ra Hội Truyền Bá Đức Tin đã mạo danh Pétrus Trương Vĩnh Ký để viết thư lá thư ký tên Petrus Key.
Công trình nghiên cứu của Winston Phan Đào Nguyên bổ sung cho một cách nhìn khác về việc truyền đạo Công giáo vào Việt Nam và cả việc thực dân Pháp xâm chiếm Đông Dương.
Công trình nghiên cứu còn cho thấy ngay từ ban đầu Trương vĩnh Ký đã không có ý định theo Pháp nhưng vì hoàn cảnh không thể tránh được.
Chữ Quốc ngữ giữ văn hóa nước nhà
Về việc giữ gìn tiếng Việt trong sách giáo khoa sử An Nam bằng tiếng Pháp xuất bản tại Sài Gòn năm 1875 (Cours d’histoire annamite à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine, Impr. du Gouvernement, Saigon, 1875) trang 13 Pétrus Trương Vĩnh Ký đã nhận xét (được dịch) như sau:
“Sĩ Nhiếp đã du nhập toàn bộ văn học Trung Hoa, cùng đạo lý Khổng Tử, ép buộc dân An Nam phải tiếp nhận làm văn hóa của mình, và cấm dân An Nam dùng thứ chữ viết phiên âm đặc biệt riêng của người An-nam.
Vì biện pháp nghiệt ngã ấy mà người An-nam đã hoàn toàn mất đi thứ chữ viết riêng của mình”.
Sĩ Nhiếp (137–226) là một người Việt gốc Hán được triều đình Trung Hoa phong Thái Thú cai trị Quận Giao Chỉ.
Sĩ Nhiếp được sử sách chính thống các triều đại Việt Nam đánh giá rất cao vì đã dạy cho dân ta chữ Hán, văn hóa, phong tục và văn minh Trung Hoa.
Vừa là sử gia vừa là nhà ngôn ngữ học Trương Vĩnh Ký đã đánh giá Sỹ Nhiếp là người hủy diệt chữ viết cổ của người Việt, đồng thời áp đặt cách cai trị và văn hóa của người Hán giết chết văn hóa cổ của người Việt Nam.
Điều này cho thấy ông hiểu rất rõ khi phải mượn tay người Pháp phổ biến chữ Quốc ngữ để cạnh tranh và loại bỏ ảnh hưởng tiếng Hán và cả tiếng Pháp, để giữ gìn văn hóa, phong tục và ngôn ngữ Việt Nam.
Pétrus Ký tổ báo chí Việt ngữ.
Năm 1864, Pétrus Ký được cử là Hiệu trưởng trường Thông ngôn (Collège des Interprètes) và theo lời đề nghị của ông người Pháp cho lập tờ Gia Định báo bằng tiếng Việt.
Để phân biệt với tiếng Pháp, tiếng Hán và tiếng Nôm, Pétrus Ký gọi cách viết tiếng Việt theo kiểu La Tinh là chữ Quốc ngữ còn văn học thì được gọi là Quốc văn.
Gia Định báo phát hành số đầu tiên ngày 15/4/1865 tại Sài Gòn dưới hình thức một tờ Công Báo do ông Ernest Potteaux làm chánh tổng tài (chủ nhiệm hay tổng biên tập) và ông Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.
Ngày 16/9/1869, thống đốc Nam Kỳ G. Ohier ký quyết định số 189 giao tờ Gia Định Báo cho ông Trương Vĩnh Ký làm chánh tổng tài và ông Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.
Gia định báo gồm các văn kiện và quyết định của nhà cầm quyền bằng tiếng Pháp do Nha nội vụ cung cấp và được ông Trương Vĩnh Ký dịch ra chữ Quốc ngữ. Và những bài viết tiếng Việt về thời sự, về lịch sử, về luân lý dân gian giúp truyền bá chữ Quốc ngữ.
Trên Gia Định báo và nhiều tài liệu khác ông lấy bút hiệu là Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Trong số 11 ra ngày 8/4/1870 ông kêu gọi cộng tác viên như sau:
Lời cùng các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập… đặng hay: Nay việc làm Gia Định Báo tại Sài Gòn ở một chỗ nên không có lẽ mà biết các việc mới lạ các nơi trong sáu tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi tuần hay là nửa tháng hãy viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở như: ăn trộm, ăn cướp, bệnh hoạn, tai nạn, rủi ro, hùm tha, sấu bắt, cháy chợ, cháy nhà, mùa màng thể nào, tại sở nghề nào thạnh hơn…“.
Cũng như đoạn văn trên, đa số các bài viết tiếng Việt trên Gia Định báo đều bằng văn xuôi, ngắn gọn, đơn giản, dễ đọc, dễ hiểu, viết theo cách nói của người miền Nam, viết một cách đàng hoàng theo lễ giáo Việt Nam.
Ông giữ vai trò chánh tổng tài đến năm 1872 thì giao lại cho ông Ernest Potteaux không rõ vì lý do gì.
Như vậy, Trương Vĩnh Ký chính là chủ nhiệm báo Việt ngữ đầu tiên và theo cách ông hướng dẫn làm báo thì ai cũng có thể làm báo, không khác gì cách làm báo mạng ngày nay.
Năm 1888, Trương Vĩnh Ký cho xuất bản tạp chí Thông Loại Khóa Trình, như vậy ông cũng là chủ báo tư nhân đầu tiên tại Việt Nam.
Thông Loại Khóa Trình là một tạp chí văn học sưu tập nhiều văn thơ, câu đối, câu hò, câu hát dân gian, nhằm cổ vũ phong tục cổ truyền, phổ biến văn hóa dân tộc có cả thơ văn chống Pháp và lịch sử Việt Nam.
Thông Loại Khóa Trình cho thấy tinh thần yêu nước của Petrus ký với nhiều bài viết về các nhân vật lịch sử có tài chống ngoại xâm của Việt Nam, như Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt, Mạc Đĩnh Chi, Châu Văn Tiếp, Phan Thanh Giản…
Thông Loại Khóa Trình còn phổ biến những bài thơ chống Pháp của Bùi Hữu Nghĩa, những bài vè như vè Khâm sai và cả hịch chống Pháp của Nguyễn Tri Phương.
Cộng tác với Thông Loại Khóa Trình có các ông Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký, Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh, và nhiều người yêu nước khác.
Những người đọc báo biết chữ quốc ngữ khi ấy đều là công chức Pháp hay học sinh trường Pháp nên nhà cầm quyền Pháp tìm cách tẩy chay, báo không bán được.
Thiếu vốn, Thông Loại Khóa Trình chỉ ra được 18 số đến tháng 10/1889 thì đóng cửa. Trong số báo này Trương Vĩnh Ký cho biết: “Nay vì bởi không có vốn cho đủ in luôn Thông Loại Khóa Trình nữa nên ta cực chẳng đã, phải đình in”.
Petrus Trương vĩnh Ký ông Tổ báo chí Việt Nam qua đời 1/9/1889 trong nghèo khó và nợ nần.
Tạo nền tảng Quốc văn và giáo dục…
Ngay từ năm 1866 Trương Vĩnh Ký đã cho in ấn phẩm văn xuôi đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ là cuốn Chuyện Đời Xưa.
Từ đó ông không ngừng viết và để lại một di sản văn học với ít nhất 119 tác phẩm cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp.
Các tác phẩm đều là những công trình soạn thảo một cách cẩn thận và khoa học nhưng dễ hiểu, dễ quảng bá, bao trùm mọi thể loại từ ngôn ngữ, tự điển, sách giáo khoa lịch sử, địa lý, pháp luật, dân tộc học, kinh tế, chính trị, sinh học và văn học.
Kho tàng văn học này là căn bản định hình cho một nền Quốc văn với chủ trương gìn giữ đạo lý văn hóa dân tộc nhưng học hỏi văn minh Tây Phương để cải cách đất nước, mở mang dân trí giúp nước nhà độc lập và giàu mạnh.
Để truyền bá chữ Quốc ngữ và tư tưởng canh tân, Trương Vĩnh Ký còn chọn việc dạy tiếng Việt và đào tạo hằng ngàn thanh niên theo tân học tạo nền tảng cho Phong trào Duy Tân và Đông Du sau này.
Ảnh hưởng triết lý và tư tưởng của Trương Vĩnh Ký đến nền văn hóa và giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là lấy nhân bản, dân tộc và khai phóng làm căn bản.
Nỗ lực ‘thoát Hán’ của các vua nhà Nguyễn…
Trong chuyến đi sứ sang Pháp cùng Phan Thanh Giản năm 1863, Petrus Ký gặp và làm quen với nhà bác học Paul Bert.
Ông Paul Bert là giáo sư khoa học đại học Bordeaux và Paris, ông tham gia cách Mạng Pháp năm 1870 và trở thành Tổng trưởng Giáo dục và Nghị sĩ Quốc hội Pháp.
Tháng 2/1886, ông được bổ nhiệm Thống sứ triều đình Huế. Ông chủ trương tiến bộ và muốn thực hiện cải cách nên đã đích thân thăm và mời Trương vĩnh Ký ra Huế giúp vua Đồng Khánh.
Nhà vua phong Petrus Ký chức Hàn lâm viện thị giảng học sĩ và dạy cho vua Đồng Khánh tiếng Pháp.
Năm 1887, Petrus Ký có dâng vua Đồng Khánh 24 điều để đối phó với Pháp. Trong đó ông có đề cập việc cải cách giáo dục, bỏ dạy chữ Hán, dạy chữ Quốc ngữ và học hỏi văn minh Tây phương.
Đến cuối thời vua Thành Thái các đề nghị của Petrus Ký mới được nhà vua ban sắc lệnh cho thi hành.
Chính sắc lệnh này đã dẫn tới phong trào Duy Tân, dùng chữ quốc ngữ để thoát Hán được trình bày khá rõ trong bài viết trước “Quốc ngữ và nỗ lực ‘thoát Hán’ của các vua nhà Nguyễn”.
Nhà giáo dục Trương Vĩnh Ký với triết lý sống chẳng vì mình nên không cần chúng ta phải “minh oan”.
Ngược lại chúng ta cần tìm ra sự thật, cần hiểu biết sự thật và cần phổ biến sự thật để qua đó chúng ta có thể ghi nhận ân đức cũng như học hỏi từ Trương Vĩnh Ký và những bậc tiền bối những người đã có công đóng góp cho nền văn học nước nhà.
Đồng thời chúng ta cần tiếp tục giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, văn hóa và phong tục để truyền lại cho con cháu chúng ta.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
6/12/2018
Winston Phan Đào Nguyên, 2017, Minh oan cho Pétrus Trương Vĩnh Ký về câu ‘ở với họ mà không theo họ’ , Nghiên Cứu Lịch Sử.
Winston Phan Đào Nguyên, 2018, “Petrus Key và Petrus Ký – Chuyện một lá thư mạo danh Trương Vĩnh Ký vào thế kỷ 19”, gồm 3 bài viết trên Nghiên Cứu Lịch Sử.
Nguyễn Quang Duy, 2018, Quốc ngữ và nỗ lực ‘thoát Hán’ của các vua nhà Nguyễn, BBC tiếng Việt.

Quốc ngữ và nỗ lực ‘thoát Hán’ của các Vua nhà Nguyễn.

Nguyễn Quang Duy
Tìm hiểu lịch sử là công việc vô cùng thiết yếu vì có hiểu người xưa, có hiểu được lịch sử mới hiểu được vận mệnh nước nhà mà khôi phục lại.
Trên Diễn đàn BBC nhà báo Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ để ghi công và đánh giá những nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ.
Các vị truyền giáo có công tạo ra bộ mẫu chữ, nhưng việc này không có gì quá độc đáo hay quá khó khăn và giả sử nếu không có họ thì việc đó cũng có thể làm được sau này.
Ý kiến cũng nói rằng Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác đều đã có những văn tự bằng tiếng La Tinh nhưng chưa bao giờ trở thành chữ Quốc ngữ của họ.
Cũng theo nhà báo Nguyễn Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ xóa hàng rào cản tâm lý quá lạc hậu để giới sỹ phu yên tâm dùng chữ Quốc ngữ.
Và rằng chính nỗ lực tiên phong quảng bá Quốc ngữ là của trí thức miền Nam và nhờ chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa.
Nhưng tôi nghĩ cũng lạ tại sao ba nước Việt, Miên và Lào có chung hoàn cảnh, đều là thuộc địa của Pháp mà Miên và Lào lại không sử dụng La Tinh làm chữ Quốc ngữ.
Ở đây cần xem công lao các vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, dù họ không thực sự nắm quyền thời Pháp thuộc. 
Sắc lệnh của Vua Thành Thái
Theo sử gia Liam Kelley (2016) vào đầu thế kỷ XX cả người Pháp lẫn những nhà cách mạng đều không đủ quyền lực để chữ Quốc Ngữ có thể lan sâu rộng xuống đến tận cấp độ làng quê.
Qua nghiên cứu những nguồn tài liệu trong giai đoạn này, sử gia Liam kết luận chính nhà Nguyễn mới đi đầu trong công cuộc cải cách giáo dục.
Trong bài “Emperor Thành Thái’s Educational Revolution”, sử gia Liam Kelley (2016) đã công bố sắc lệnh của vua Thành Thái được lưu trữ trong sách Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên.
Bài viết được Nguyễn Hồng Phúc lược dịch có đoạn như sau:
“Hoàng đế Thành Thái đã tuyên bố trong một sắc lệnh rằng vào năm trị vì thứ 18 của ông (năm 1906), cha mẹ có thể quyết định việc cho con theo học một trường ấu học Hán văn hoặc một chương trình giảng dạy Nam âm (Quốc ngữ).
Với những người học theo chương trình Hán văn, sẽ có một cuốn sách giáo khoa được soạn ra nhằm giới thiệu những từ chữ Hán theo cấp độ khó dần. Nó cũng bao gồm một danh mục các Hán tự kèm theo phiên âm và định nghĩa bằng quốc ngữ được dùng trong tài liệu.
…Trong khi, một cuốn sách giáo khoa bằng quốc ngữ khác sẽ được soạn ra để dạy những người theo chương trình học ‘Nam âm’ nhằm giới thiệu cho họ những thông tin cơ bản về xứ Đông Dương, thiết chế cai trị của nó, những phong tục tập quán…
Thêm vào đó, cũng có thêm một cuốn sách nữa được dịch từ Hán văn sang Nam âm nhằm cung cấp những loại thông tin mà học viên đang luyện thi khoa cử cần biết. Bản dịch này được soạn ra cho những người không muốn thi khoa cử, nhưng nó vẫn được đưa vào chương trình để cho họ biết thêm về những gì mà những người đang luyện thi khoa cử phải học…”
Sắc lệnh này vô cùng quan trọng vì khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đã công khai ý định muốn thấy tầng lớp quan lại và sỹ phu phải thoát khỏi ảnh hưởng Trung Hoa trong giáo dục, văn hóa, và nhất là tư tưởng. 
Vừa thoát Trung vừa chống Pháp
Xin nhắc lại về cuộc đời vị vua trẻ tuổi.
Vua Thành Thái lên ngôi năm 1889, đến năm 1907 bị Pháp ép thoái vị. Ngài bị quản thúc ở Vũng Tàu rồi đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion.
Vua là người cầu tiến, học tiếng Pháp, có hiểu biết khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc âu phục, phong cách của người theo tân học.
Nhà Vua thường xuyên tiếp xúc với sỹ phu và dân chúng, đồng thời trọng dụng nhiều nhân tài, thanh liêm, đức độ với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước.
Sắc lệnh cho dạy quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ quốc ngữ.
Cắt tóc ngắn trở thành một dấu hiệu của người theo tân học.
Nhiều thanh niên lúc ấy sắm cho mình một cái kéo, đi tuyên truyền, vận động cắt tóc và vận động canh tân.
Đến khi Vua bị người Pháp ép thoái vị năm 1907 hình ảnh một vị vua yêu nước, chống Pháp, cắt tóc ngắn nhanh chóng lan tỏa xuống đến tầng lớp nông dân.
Tháng 3 năm 1908, bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam, nông dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến các phủ huyện đòi giảm sưu giảm thuế.
Tất cả đều hớt tóc ngắn đi thành đoàn, phong trào mở rộng vào Nam đến Bình Định, Phú Yên và ra Bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh.
Pháp và triều Nguyễn gọi cuộc biến động này là Giặc cắt tóc, ở Bình Định gọi là Giặc đồng bào, sau nầy được đổi lại là cuộc Dân biến Trung kỳ.
Đây là cuộc đấu tranh bất bạo động đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đoàn biểu tình lấy biểu tượng là Vua Thành Thái một vị vua yêu nước, theo tân học và chống Pháp.
Như vậy ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, người Việt đã công khai thực hành phương pháp đấu tranh bất bạo động với biểu tượng vua Thành Thái, có tổ chức, có chiến thuật, có mục tiêu và có chiến lược một cách rất rõ ràng.
Cuộc đấu tranh bất bạo động bị Pháp đàn áp dã man. Nhiều người tổ chức và tham dự bị bắt, phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục bị dập tắt.
 Các vị Vua tiếp tục cải cách
Năm 1907 vua Duy Tân tiếp nối việc cải cách giáo dục bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm cai quản việc học hành và thi cử.
Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục là một nhà giáo dục cổ vũ thực học, thực tài, bỏ đi kiểu học từ chương, xa rời thực tế và chủ trương phát triển nền giáo dục “không học vì bằng cấp” mà phải học lấy thực tài để ra giúp dân, giúp nước.
Đáng tiếc ông lại hết sức bài bác chữ Quốc ngữ, nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc ngữ bị đưa ra khỏi nền giáo dục.
Theo Trần Gia Phụng từ năm 1909, chương trình thi Hương bắt buộc thí sinh phải làm các đề thi luận văn bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ.
Ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28/12/1918) vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử kiểu Hán học.
Năm 1919 là năm cuối mở khoa thi Hương ở Huế, từ đó chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của người Việt Nam.
 Vai trò của các ông giáo trường làng
Bên cạnh các trường công do triều đình và người Pháp lập ra là một hệ thống trường tư do các thầy đồ sau chuyển thành thầy giáo làng giảng dạy.
Mỗi làng có khi lên đến vài ba trường, hoặc dạy ở nhà thầy, hoặc ở nhà người giàu có nuôi thầy cho con ăn học và cho con các nhà lân cận trong làng theo học.
Thầy đồ đa số là những người có học, có người đỗ tú tài, có người là quan hồi hưu mở lớp dạy học.
Thầy đồ hoàn toàn tự do không chịu sự giám sát của triều đình.
Mặc dầu được tự do mở lớp giảng dạy giới thầy đồ vẫn giữ lòng trung với các vua nhà Nguyễn và với sách Thánh hiền.
Các thầy đồ quyết liệt chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ của các nhà truyền giáo.
Với họ, chữ Hán giáo dục về luân lí, về lịch sử, là chữ Thánh hiền còn Quốc ngữ chỉ để đọc báo, đọc Kinh Thánh, những sản phẩm của quân xâm lược, biết đọc chẳng ích lợi gì.
Nhưng khi sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ của vua Thành Thái được ban ra thì chính các thầy đồ đã thay đổi đã tự học chữ Quốc ngữ để truyền dạy lại cho học sinh.
Ba lớp Đồng ấu học trước khi học sinh vào tiểu học đều do các thầy giáo trường làng dạy hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ.
Nhờ thế chữ Quốc ngữ trở thành phổ thông đại chúng.
Những bộ sách giáo khoa như Sử ký địa dư giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn giáo khoa thư, được học giả Trần Trọng Kim và các cộng sự biên soạn để dạy lớp ấu học trường làng.
Bộ sách giáo khoa ‘Việt Nam Sử lược’ được học giả Trần Trọng Kim soạn để dạy các lớp cao hơn và đã hoàn toàn chỉ cho những người đã biết Quốc ngữ.
Lên lớp nhì và lớp nhất ở trường chính phủ, mỗi tuần chỉ dạy chữ Quốc ngữ một giờ rưỡi và bậc trung học chỉ dạy ba giờ.
Thời gian còn lại học sinh được dạy bằng tiếng Pháp và hầu hết do người Pháp dạy.
Từ đó ta thấy được căn bản tiếng Việt, sử địa, luân lý, văn hóa về Việt Nam của học sinh hầu như đều thu nhận được từ các thầy giáo trường làng.
Vua Bảo Đại là người Tây Học
Tốt nghiệp trường Khoa học Chính trị Paris về nước, vua Bảo Đại bắt tay ngay vào việc cải cách đất nước, mong từng bước khôi phục lại chủ quyền quốc gia.
Ngày 10/12 năm 1932, vua Bảo Đại cho công bố đạo dụ nước ta theo chế độ Quân chủ Lập hiến, nhà vua sẽ trực tiếp điều khiển nội các và cho cải cách hành chính, giáo dục và tư pháp.
Một nội các mới đã được thành lập gồm những người trẻ theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ…
Bộ Học được đổi tên thành Bộ Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh từng là chủ nhiệm báo Nam Phong một người luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ điều hành.
Các cuộc cải cách của vua Bảo Đại đều bị người Pháp cản trở, riêng cải cách về giáo dục nhờ Phạm Quỳnh được người Pháp tin nên ít bị cản trở.
Chữ Quốc ngữ được tăng giờ dạy ở các trường công.
Nhờ thế sau khi Nhật đảo chánh Pháp, trao trả độc lập cho Việt Nam, chỉ trong vòng 5 tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện thành công cuộc cải cách lấy chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ chính trong giáo dục.
Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn có công lao lớn khi soạn cả sách toán và kỹ thuật bằng tiếng Việt Quốc ngữ để dạy ngay trong niên học 1945-46 tại miền Bắc và miền Trung.
Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam tiếp tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy đến hết bậc trung học. 
Bắt đầu từ chuyển biến tư tưởng thời Thành Thái
Học tiếng Pháp, theo tân học thoát khỏi tư tưởng Trung Hoa nên vua Thành Thái đã hiểu rõ những khái niệm về tự do, dân chủ, quốc gia, dân tộc, quân chủ, cộng hòa… hiểu từ sách Pháp không phải từ sách Trung Hoa.
Thay đổi quan trọng nhất của nhà vua là về mặt tư tưởng, về ý thức đất nước không còn của nhà vua nữa mà là của quốc gia của dân tộc.
Quốc gia là một thực thể độc lập có chủ quyền thoát khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu Trung Hoa.
Khái niệm ‘quốc gia’ bắt đầu được sử dụng đối nghịch với ‘thuộc địa’, ‘chư hầu’.
Mặc dù không có quyền lực trong tay các vua triều Nguyễn đã thực hiện thành công cải cách từ giáo dục, văn hóa, đến chính trị đưa đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.
Bài học các vua triều Nguyễn đã thực hiện là nếu muốn cải cách giáo dục phải bắt đầu bằng thay đổi tư tưởng cho chính mình.
Vì thế, theo tôi, nhu cầu thiết yếu của đất nước ngày nay không phải là cải cách tủn mủn về phát âm, ký tự Quốc ngữ mà phải vừa thoát khỏi ý thức hệ cộng sản, vừa thoát Trung để khôi phục các nền tảng cơ bản cho Việt Nam.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
4/9/2018
Tài Liệu Tham Khảo
Liam Kelley (2016), Cải Cách Giáo Dục Của Vua Thành Thái, Nguyễn Hồng Phúc lược dịch.
Nguyễn Giang, Những người giúp chữ Quốc ngữ ‘làm nên’, BBC World Service
Trần Gia Phụng, Lịch sử chữ Quốc Ngữ.