mardi 27 mars 2012

ĐẬU NÀNH TRONG LÃNH VỰC Y KHOA



Sữa đậu nành nên uống sau khi ăn sáng, không uống lúc đói

ĐẬU NÀNH TRONG LÃNH VỰC Y KHOA

Hiện nay, trước tình trạng bệnh nan y đang lan tràn trên thế giới, các
khoa học gia đã nghiên cứu đủ mọi phương pháp để phòng chống kể cả áp
dụng phương pháp dưỡng sinh, y thuật Đông Phương và dược thảo. Trong
quá trình nghiên cứu, các khoa học gia đã để ý tới hai nước Trung Hoa
và Nhật Bản.
Phần đông dân chúng trong hai quốc gia này có thói quen tiêu thụ đậu
nành và những sản phẩm của đậu nành trong các bữa ăn thường nhật. Nên
tỷ số những người mắc bệnh nan y rất thấp so với các nước Tây Phương và
Hoa Kỳ.
Vì thế, họ đổ xô nhau đi nghiên cứu về đặc tính của đậu nành để xem có
thể ứng dụng vào y dược để điều trị một số bệnh tật hay không.Tháng 9
năm 1996, hội nghị quốc tế lần thứ hai nhằm tổng kết các thành quả
nghiên cứu của khoa học gia về công dụng của đậu nành trong lãnh vực y
học đã được diễn ra trong 5 ngày liền tại Brussels . Hơn 80 khoa học
gia đến từ khắp nơi trên thế giới đã lần lượt thuyết trình về những kết
quả sưu tầm mới nhất mà họ đã thu đạt được trong lãnh vực y khoa trị
liệu. Sau đây chúng tôi xin tóm tắt những thành quả đó và coi như là
những tin vui để cống hiến quý vị độc giả.

1. Đậu Nành Có Khả Năng Chữa Được Bệnh Tim Mạch
Hiện nay
, nhiều bằng chứng cụ thể cho thấy đậu nành có khả năng làm
giảm lượng cholesterol của những người bị bệnh cao mỡ
. Những bệnh nhân
này nếu để lâu sẽ dẫn đến bệnh tim trầm trọng và có nguy cơ bị chết bất
đắc kỳ tử vì mạch máu bị nghẽn hay tim bị kích ngất. Thực ra chất
Protein trong đậu nành có khả năng làm hạ mức độ hai độc tố LDL
Cholesterol và Triglyceride, tác nhân gây ra bệnh cao mỡ. Kết quả này
rất khả quan và công hiệu hơn hẳn việc trị liệu bằng phương pháp ăn
uống theo qui thức do các chuyên gia y tế ấn định, kể cả việc chữa được
các chứng bệnh cao mỡ trầm trọng và bệnh cao mỡ ở trẻ con.
Thêm vào đó, đậu nành còn có khả năng làm tăng lượng HDL cholesterol,
một chất hữu ích trong cơ thể có tác dụng đề kháng lại hai chất LDL
Cholesterol và Triglyceride độc hại kể trên. Ngoài ra đậu nành cũng còn
có công hiệu ngăn chận sự oxýt hóa của chất LDL Cholesterol, không cho
chúng có cơ hội chuyển hóa thành những nguyên tố độc hại khác, và phòng
ngừa được chứng nghẽn các mao huyết quản.
Isoflavones là một hợp chất thiên nhiên hàm chứa trong đậu nành có cấu
trúc hóa học tương tợ như kích thích tố nữ oestrogen. Hiện thời người
ta chưa chứng minh được chính protein trong đậu nành hay chỉ riêng chất
Isoflavones trong protein của đậu nành là có công hiệu chữa các chứng
bệnh trên. Tuynhiên các khoa học gia đều đồng quan điểm rằng đậu nành
nói chung có khả năng trị được bệnh tim mạch, đặc biệt là chứng cao
Cholesterol trong máu.

2. Đậu Nành Chữa Được Bệnh Của Xương
Xưa nay, các chuyên gia y tế đều công nhận calcium có khả năng phòng

ngừa được bệnh xương xốp (osteoporosis), thường xảy ra trong giới phụ
nữ trọng tuổi. Bệnh này cũng có xảy ra cho nam giới nhưng với một tỷ lệ
thấp hơn.
Ngoài ra sự ăn uống theo quy thức cũng có khả năng làm cho xương được
rắn chắc. Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy những người thường
ăn đậu nành như dân chúng Nhật Bản cũng ít khi mắc phải bệnh xương xốp.
Người ta thí nghiệm trên loài chuột bằng cách cho chúng ăn toàn đậu
nành không những ngăn chận được chứng thoái hóa calcium của xương mà
còn làm cho xương được rắn chắc. Isoflavones trong đậu nành là một chất
có tính năng động có tác dụng giống như oestrogen ngăn ngừa được chất
men tyrosin kinase làm cho xương bị xốp và dễ gãy
. Nó cũng còn trợ giúp
cho tế bào xương hình thành vững vàng.
Một cuộc thí nghiệm khác được thực hiện bằng cách cắt bỏ noãn sào
(buồng trứng) của chuột cái để cho nó không sản xuất ra kích thích tố
oestrogen nữa, rồi cho chúng ăn toàn bằng đậu nành. Chất Isoflavones
trong đậu nành vẫn ngăn chận được sự thoái hóa của xương và làm cho
xương luôn luôn khỏe mạnh.
Những nghiên cứu gần đây cho biết những phụ nữ sau thời kỳ tắt kinh,
mỗi ngày dùng bột hay sữa đậu nành thường xuyên thì mật độ khoáng chất
trong xương vẫn duy trì ở mức độ bình thường. Hiện nay tại Úc Châu
xưởng bào chế dược phẩm đã sản xuất ra thuốc bằng đậu nành để cho người
phụ nữ trong tuổi tắt kinh sử dụng hằng ngày rất tiện lợi.

3. Đậu Nành Có Thể Phòng Chống Được Bệnh Ung Thư
Qua những nghiên cứu gần đây, các khoa học gia ghi nhận những người

thường dùng đậu nành hoặc các sản phẩm của đậu nành trong khẩu phần ăn
uống hằng ngày ít có nguy cơ bị bệnh ung thư nhũ hoa, tử cung, ruột già
và nhiếp hộ tuyến. Các nghiên cứu khác được thực hiện trên cơ thể súc
vật bằng cách gây cho chúng bị nhiễm bệnh ung thư rồi dùng chất
genistein hàm chứa trong đậu nành để chữa trị thì thấy nó ngăn chận
được sự phát triển của bịnh ung thư ruột
già, gan và vú.Người ta còn nghiên cứu bằng cách giả tạo một sự sống như thể trạng
thật của một con người đang bị nhiễm bệnh ung thư và đặt trong ống
nghiệm. Sau đó họ trích các hợp chất từ đậu nành để chữa trị và đạt
được kết quả hữu hiệu. Những hợp chất này còn có khả năng ngăn chận sự
cung cấp máu
để nuôi dưỡng một loại tế bào đặc biệt có khuynh hướng hình
thành các bướu ung thư.
Hiện nay các thí nghiệm được thực hiện trên cơ thể của loài thú về khả
năng chống bệnh ung thư của đậu nành đã thành công một cách tốt đẹp..
Tuy nhiên đối với con người cần phải thực hiện thêm nhiều cuộc thí
nghiệm khác nữa để xác dịnh mức độ hữu hiệu và an toàn rồi mới công bố
để sử dụng.
Gần đây khoa học gia Yehudith Birk của trường Đại học Hebrew ở
Jerusalem đã thực hiện được một vài phương pháp đáng khích lệ, có thể
chữa được bệnh ung thư ở nhiều cấp độ trầm trọng và trong nhiều bộ phận
cơ thể khác nhau mà không cần biết bệnh đã phát sinh vì nguyên do gì.
Hiện nay Cơ quan Quản Trị Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ đang cho phép
áp dụng phương pháp này để điều trị một số bệnh nhân tình nguyện trong
bệnh viện để thí nghiệm và kiểm chứng
. Saponin và những hợp chất khác
của đậu nành cũng đang được nghiên cứu và áp dụng.
Mong rằng cuộc thí nghiệm này được sớm thành công và sẽ mang lại một
tin vui cho nhân loại trên toàn thế giới.

4. Đậu Nành Và Bệnh Thận
Trong lãnh vực này, người ta nghiên cứu một cách lẻ tẻ và hiện chưa có
một kết quả thỏa đáng nào. Song vài thí nghiệm cho thấy đậu nành cũng
có ích lợi trong việc chữa trị bệnh thận. Các khoa học gia của Ấn Độ đã
chứng minh quy thức ăn uống bằng cách tiêu thụ rất ít chất béo và chất
protein rồiphối hợp thêm đậu nành trong khẩu phần hằng ngày có công
hiệu giảm được chất cholesterol trong máu.
Các cuộc thí nghiệm khác trên loài chuột chứng minh được chất Genistein
trong đậu nành có thể làm cho mạch máu được thư dãn và giảm chế được
tốc độ lọc máu của thận, nên tránh được bệnh tiểu đường. Người ta đã
trích hợp chất trong đậu nành để tiêm cho những con bò đã bị gây bệnh
tiểu đường thì thấy tốc độ lọc máu của chúng trở lại mức độ bình thường.

5. Đậu Nành Và ảnh Hưởng Sinh Lý Của Phụ Nữ
Aedin Cassidy và các khoa học gia của Anh Quốc đã ngiên cứu biết được
đậu nành điều hòa chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ và kềm chế được sự phát
triển quá mức kích thích tố oestrogen của phụ nữ trẻ tuổi
. Vì khi kích
thích tố này phát triển quá nhiều, người phụ nữ sẽ có sát suất dễ bị
bệnh ung thư nhũ hoa hơn.
Đối với những phụ nữ sau thời kỳ tắt kinh, dùng đến 40% đậu nành trong
khẩu phần ăn uống hàng ngày sẽ không cần phải uống thuốc hồi phục kích
thích tố mà vẫn có thể phòng ngừa được bệnh xương xốp. Nếu cảm thấy ăn
uống bất tiện thì có thể dùng oestrogen thiên nhiên được bào chế thành
thuốc viên từ đậu nành hiện có bày bán hợp pháp tại các tiệm dược phẩm.

6. Đậu Nành Và Sức Khỏe Của Trẻ ConTại New Zealand , người ta thí nghiệm bằng cách nuôi những con vẹt bằng
bột đậu nành theo công thức sữa nuôi trẻ con và báo cáo rằng không có
ảnh hưởng gì xấu đối với sự sinh sản và cơ quan sinh thực của chúng
.
Tuy nhiên thí nghiệm ở loài vật có kết quả chưa hẳn sẽ trùng hợp với
thí nghiệm ở loài người.Trong thập niên qua, ông Kenneth Setchel,
chuyên gia nghiên cứu về đậu nành đã báo cáo rằng trẻ con được nuôi
dưỡng với sữa đậu nành có công thức Isoflavones cao vẫn được an toàn.
Trong nhiều năm nuôi dưỡng như vậy cũng không có ảnh hưởng gì xấu cho
đứa bé cả.
Khoa học gia Alercreutz bảo rằng người Á Châu thường ăn uống nhiều đậu
nành hơn không có ảnh gì bất lợi cho việc sinh sản của họ cả. Chất
Isoflavones tập trung trong thủy dịch bao bọc chung quanh bào thai
tương đồng với mức độ Isoflavones trong máu của một người mẹ bình
thường.
Ở Nhật Bản, trẻ con khoảng 4 tháng tuổi là đã cho dứt sữa mẹ và được
thay thế bằng sữa đậu nành, được bảo đảm rằng nó sẽ có đầy đủ sức khỏe
trong tương lai vào thời kỳ khôn lớn. Lamartinière đã thí nghiệm bằng
cách cho chuột ăn chất Genistein của đậu nành sẽ tránh được bệnh ung
thư vú về sau.
Hiện thời người ta vẫn còn nghiên cứu để xác định rõ ràng vai trò của
đậu nành trong việc nuôi dưỡng trẻ con quan trọng như thế nào.
Tóm lại, qua sự trình bày trên đây, chúng ta thấy quả thật đậu nành đã
có công hiệu đối với việc phòng ngừa và chữa trị một số bệnh tật. Tuy
nhiên vì bản thân nó xuất xứ từ một loại thảo mộc tầm thường nên trong
dân gian ít ai để ý tới. Tại Hoa Kỳ, người ta đang nghiên cứu dể nắm
vững các chứng minh cụ thể về công dụng của đậu nành rồi mới chính thức
đưa vào y khoa trị liệu. Tại Úc Châu tầm mức của đậu nành có khả năng y
dược chưa được đặt thành đề tài nghiên cứu quan trọng. Tuy nhiên trong
thời gian gần đây người ta đã bắt đầu sử dụng đậu nành để sản xuất chất
oestrogen nhân tạo và được bày bán trong các nhà thuốc tây một cách hợp
pháp để cho các phụ nữ trong tuổi tắt kinh sử dụng hàng ngày rất tiện
lợi.
Mong rằng trong tương lai, những công dụng khác của đậu nành trong lãnh
vực y dược sẽ còn được quảng bá rộng rãi hơn nữa và sẽ mang lại nhiều
hữu ích thiết thực trong việc bảo vệ sức khỏe của con người.
Người Á Châu mình đã biết dùng đậu nành để chế biến nhiều loại thức ăn.
Tuy không nghiên cứu rõ ràng, nhưng may mắn ngẫu nhiên trùng hợp về giá
trị dinh dưỡng đặc biệt của nó.

TRẦN ANH KIỆT

PvP sưu tầm

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire