lundi 21 avril 2014

Tình trường bí mật của Khánh Ly thời con gái

Default Tình trường bí mật của Khánh Ly thời con gái
Click image for larger version Name: 1382833868522.jpg Views: 1401 Size: 174.4 KB ID: 602335 
  Click image for larger version Name: 1382833868497.jpg Views: 1397 Size: 73.7 KB ID: 602336   Click image for larger version Name: 1382833868512.jpg Views: 1397 Size: 43.7 KB ID: 602337  
Trong lịch sử cận đại VN, chỉ có tướng và ca sĩ là vọt nhanh nhất !!! Nhưng đặc biệt người chồng yêu dấu cuả Khánh Ly lại chết oan khiên tại cưả biển Đà Nẵng.
 

Suốt thời son trẻ của bà toàn lận đận với chuyện tình yêu và chưa bao giờ được sống trọn vẹn với mơ ước của mình.
Có một quãng thời gian, nguồn tin nữ ca sĩ Khánh Ly ở tuổi ngấp nghé 70 (bà sinh năm 1945 tại Hà Nội) sẽ về Việt Nam biểu diễn theo lời mời của chủ nhân phòng trà Đồng Dao, TP.HCM đã gây xôn xao dư luận. Cuối cùng, Khánh Ly đã không về. Một vài người trong giới ca hát tiết lộ: Nhà tổ chức và Khánh Ly chưa đạt được thỏa thuận về giá cả (cát-sê) và cách chi trả. Thế là chìm xuồng!
Sau khi sang Hoa Kỳ định cư năm 1975, giọng hát của bà vẫn đứng đầu ở hải ngoại. Từ đó đến nay, bà đã hai lần về Việt Nam với tư cách thăm viếng người nhà. Lần sau cùng vào tháng 5.2000. Tài danh là thế, nhưng đường tình cảm của Khánh Ly không được may mắn như sự nghiệp ca hát. Suốt thời son trẻ của bà toàn lận đận với chuyện tình yêu và chưa bao giờ được sống trọn vẹn với mơ ước của mình, và mối tình với hai người đàn ông Đà Nẵng thì ít người biết đến.

 
Ông đại úy tay chơi
Sau khi chia tay với người chồng đầu tiên và đã có với nhau hai mặt con, chẳng bao lâu, Khánh Ly gặp người chồng thứ hai, một đại úy biệt kích và là một tay chơi có hạng của đất Sài Gòn thời đó.
Ông ta tên là Mai Bá Trác, con trai thứ trong một gia đình giàu có và tiếng tăm ở Đà Nẵng, từng chỉ huy một trại biệt kích biên phòng ở biên giới Tây Ninh vào những năm cuối thập niên 60. Là một người đàn ông có thân hình to lớn, không thuộc thành phần đẹp trai, học giỏi, nhưng ông ta có dáng dấp của một kẻ phong trần, bụi bặm và lì lợm.
Vốn con nhà giàu, lại nắm chức vụ hái ra tiền, nên mang danh là lính biên giới, nhưng tháng nào Mai Bá Trác cũng có mặt ở Sài Gòn mấy ngày để ăn chơi xả láng với nhiều người đẹp. Dạo đó, ông ta đã sắm xe du lịch Mustang mui trần để sẵn ở hậu phương làm phương tiện di chuyển thì ít mà để tán tỉnh các em thì nhiều. Mai Bá Trác tỏ ra rất hào phóng với em út, nên ít cô nào từ chối lời tỏ tình có điều kiện đi kèm của ông ta. Nhưng đến khi gặp Khánh Ly thì Trác chết mê, chết mệt.


Mai Bá Trác – người chồng thứ hai của Khánh Ly
Thật ra, lúc bấy giờ, chàng trai nào được là bạn của Khánh Ly thôi, cũng đã hãnh diện lắm rồi, nói chi đến người tình. Thế là Mai Bá Trác, bỏ tất cả để dồn hết khả năng vào việc chinh phục mục tiêu duy nhất. Phải công bằng mà nói, thời vàng son của Khánh Ly, những người đeo đuổi bà tầm cỡ như ông Trác, hoặc nhỉnh hơn đều không thiếu. Nhưng dầu sao, bà là một nghệ sĩ nên không thiếu chất lãng mạn và dễ xiêu lòng nhưng Khánh Ly cũng đủ cảm nhận Mai Bá Trác quá chân tình. Ngược lại, ông Trác cũng yêu Khánh Ly tha thiết lắm, vì thế mà đồng ý làm đám cưới để thành vợ, thành chồng với nhau.
Năm 1972, họ cho ra đời một bé gái. Ông Mai Bá Trác lấy tên thật của Khánh Ly (là Nguyễn Thị Lệ Mai, bạn bè thường gọi là “Mai đen” bởi làn da không được trắng) làm chữ lót, đặt tên con là Mai Mai Misa như để bày tỏ hết lòng yêu thương của ông ta. Đến khi ván đã đóng thuyền, biết chắc là của mình rồi, ông Trác lại ngựa quen đường cũ, không có ý bỏ vợ, nhưng lại lén lút trăng hoa với nhiều người phụ nữ khác.
Cũng vào năm 1972, ông Mai Bá Trác viện dẫn lý do bận rộn việc nhà binh nên thường xuyên vắng nhà. Thật ra, ông đang chung sống với một người con gái khác, tên là Thơ, còn rất trẻ và đẹp hơn Khánh Ly nhiều. Chuyện vụng trộm này rồi cũng đến tai Khánh Ly. Trong lòng đã nguội lạnh nhiều rồi, nhưng bà vẫn nhờ người theo dõi và biết rõ chỗ ở của ông Trác với tình nhân.
Không làm ồn ào, Khánh Ly đã âm thầm nhờ văn phòng Thừa Phát Lại ập vào bắt quả tang để có chứng cứ ly dị. Thế là chia tay, ông Mai Bá Trác vẫn thường xuyên về thăm con và rất muốn nối lại tình xưa, nhưng Khánh Ly cương quyết từ chối. Chính vì thế mà sau này đã xảy ra trận đánh ghen của ông Mai Bá Trác dành cho tình địch của mình. Và, cho đến bây giờ, hơn 40 năm trời trôi qua, Khánh Ly đã có chồng khác, và Mai Bá Trác cũng đã trải qua không biết bao nhiêu mối tình theo kiểu “già nhân ngãi, non vợ chồng”, nhưng lúc nào ông ta cũng nhắc đến Khánh Ly một cách yêu quý và tỏ ra thích thú khi có ai đó gọi mình bằng “ông Khánh Ly”.
Hiện Mai Bá Trác định cư ở Mỹ và rất thường về Việt Nam để thăm nhà. Lần về nào ông cũng lên Thủ Đức ghé thăm bà chị ruột của Khánh Ly đang sinh sống tại đó.
“Mối tình tuyệt vời” của Khánh Ly
Năm 1972, sau khi nói lời chia tay với Mai Bá Trác, trong một lần ra Huế hát phục vụ cho binh sĩ, Khánh Ly đã gặp Đỗ Hữu Tùng trong một bữa tiệc khao quân.
Sinh ra và lớn lên tại Đà Nẵng, sau khi học xong tú tài, Đỗ Hữu Tùng đã tình nguyện vào học khóa 16, trường Võ bị Đà Lạt. Ra trường với cấp bậc Thiếu úy, ông xin về Thủy quân Lục chiến và trở thành một sĩ quan nổi tiếng của binh chủng được coi là thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Dáng người thấp nhưng chắc chắn và có làn da ngăm đen, khuôn mặt hiền lành, không có vẻ gì là người của trận mạc. Ông ta lại ít nói, có vẻ hơi thâm trầm.
Khi gặp Khánh Ly, Đỗ Hữu Tùng đã 32 tuổi, mang hàm Trung tá, giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6, rồi sau đó lên Quyền Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến. Lúc bấy giờ, ông ta đã có vợ và 1 con. Người đàn bà này tên Nguyễn Thị Lan, vốn là một cô gái Huế nhưng lớn lên tại Đà Nẵng và là bạn của Tùng từ thời mới lớn.
Sau đó, ông Tùng mải theo đơn vị hành quân, ít có thời gian ở nhà với vợ. Không biết có phải là định mệnh hay không mà ngay phút đầu gặp nhau, Đỗ Hữu Tùng và Khánh Ly đã bị tiếng sét ái tình đánh trúng trái tim. Họ dường như không còn biết đất trời là gì.
Dù đã có vợ con nhưng ông Tùng tâm sự đây mới đích thực là mối tình đầu và ông đã yêu một cách say đắm. Còn Khánh Ly cho đến mãi sau này, bà vẫn xác định, mối tình với Đỗ Hữu Tùng là tuyệt vời hơn cả mà suốt đời không dễ gì quên!
 
Khánh Ly, (thứ 2 từ trái qua) trong buổi biểu diễn văn nghệ 1972
 
Khi chuyện tình của Đỗ Hữu Tùng và Khánh Ly đã đi đến chỗ mặn nồng, ông Tùng có ý sẽ đi đến hôn nhân, thì bạn bè hỏi: “Còn bà Lan và thằng con trai thì sao?”. Ông Tùng không trả lời thẳng câu hỏi mà kể, có lần ông về Sài Gòn, ghé vào bệnh viện Từ Dũ tìm vợ thì bắt gặp bà ta đang tình tứ với viên bác sĩ trực. Chuyện này có vẻ khó tin, vì khi đã muốn thay lòng, đổi dạ, người ta phải viện dẫn một lý do nào đó để tự bào chữa cho mình. Bởi lẽ, ông Tùng đến bệnh viện Từ Dũ thì lúc nào cũng được, nhưng xông thẳng vào phòng trực mà không ai biết thì hơi lạ! Hơn nữa, ngay khi chứng kiến tận mắt, tại sao ông Tùng lại không có phản ứng gì, để rồi sau này mới nói cho bạn bè biết.
Suốt năm 1973 cho đến ngày Mai Bá Trác đánh ghen, Khánh Ly thường xuyên bay ra chung sống với Đỗ Hữu Tùng tại vị trí đóng quân. Hầu như tất cả sĩ quan và thuộc cấp của Đỗ Hữu Tùng đều biết, ông ta đã đặt cho Khánh Ly một cái tên được mật mã hóa là Kí-Lô, để tránh tai vách mạch rừng. Lần cuối cùng Kí-Lô ra tìm Tùng và ở lại mấy ngày là giữa năm 1974, khi bộ chỉ huy hành quân Lữ đoàn của Tùng đang đóng tại Mỹ Chánh. Vài tháng sau, Đỗ Hữu Tùng được nghỉ phép về Sài Gòn thì đụng đầu với Mai Bá Trác.
Trận đánh ghen chớp nhoáng
Biết chắc sau khi chia tay, Khánh Ly đã dan díu với Đỗ Hữu Tùng nên Mai Bá Trác hết sức ghen tức. Nhưng lúc bấy giờ, Trác đã bị thuyên chuyển lên Buôn Ma Thuột nên không biết làm cách nào để đối mặt tình địch. Chẳng may thời gian Đỗ Hữu Tùng về phép thì Mai Bá Trác cũng có mặt tại Sài Gòn. Ông ta theo dõi và biết Tùng thường xuyên có mặt tại phòng trà Khánh Ly, nên rủ thêm vài chiến hữu, lặng lẽ mở cuộc đột kích.
Khi Đỗ Hữu Tùng xuất hiện, mới bước vào bên trong, Trác đã bám theo và đánh Tùng hai tát tai. Trước khi định móc súng ra để xiết cò, thì mọi người kịp thời can ngăn. Đỗ Hữu Tùng đã nhanh chóng rút lui, nhưng ông đâu có chịu nhục, nhất là khi Mai Bá Trác và Khánh Ly đã không còn là chồng vợ. Ông ta vội huy động một số đàn em Thủy Quân Lục Chiến ở hậu cứ ra trả đũa, nhưng Mai Bá Trác cũng đoán được ý đồ đó của Tùng nên cũng vội biến khỏi đấu trường.
Mọi chuyện không dừng ở đó. Nắm được vụ việc này, như bắt được vàng, ngày hôm sau nhật báo Trắng Đen đã chạy tít 8 cột trang nhất, mô tả lại trận đánh ghen mà họ đã vẽ rắn thêm chân cho ly kỳ hấp dẫn. Kết quả, Đỗ Hữu Tùng thay vì đang chờ được cất nhắc lên Đại tá thì bị ngưng lại và mất luôn chức Lữ Đoàn Trưởng 147, phải về làm Lữ Đoàn Phó 258 cho người bạn cùng khóa là Nguyễn Xuân Phúc. Cả Đỗ Hữu Tùng và Nguyễn Xuân Phúc đều tử trận vì đạn pháo kích ngày 29.3.1975 tại bờ biển Đà Nẵng.
Năm 1991, nhân kỷ niệm 30.4 trong một bài viết về chiến trường Đà Nẵng những ngày cuối cùng trên báo Công An thành phố, có nhắc đến cái chết của 2 Trung tá Thủy Quân Lục Chiến là Nguyễn Xuân Phúc và Đỗ Hữu Tùng. Sau khi đọc bài báo này, bà Lan, vợ ông Tùng đã đến tòa soạn dò hỏi, với hy vọng sẽ tìm được hài cốt của chồng mình. Bởi theo bà thì dầu ai có phụ bạc ai đi nữa, thì một ngày cũng là nghĩa vợ chồng.
kp
 
MT chuyển

samedi 19 avril 2014

Hãy Thắp Lên Một Que Diêm



19 Tháng Tư
Hãy Thắp Lên Một Que Diêm
Một bữa nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại vận động trường Los Angeles bên Hoa Kỳ. Ðang diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".

Ðèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: Ðã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên những tiếng kêu: "Ðã thấy!".

Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.

Ông John Keller kết luận: "Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta".

Hòa bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng chiến tranh. Hòa bình không chỉ là cuộc sống chung im tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, đàn áp và bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.

Ngoài ra, hòa bình không chỉ được xây dựng trong những văn phòng của các nhà lãnh đạo. Hòa bình không chỉ được xây dựng qua những cuộc họp, qua những buổi thảo luận, mặc cả của các nhà chính trị. Mọi người chúng ta phải trở thành những người thợ xây dựng hòa bình. Bởi lẽ nguồn gốc của hòa bình xuất phát từ phẩm chất của các mối liên lạc giữa người với người.

Người biết yêu mến là người thợ xây dựng hòa bình. Kẻ biết giúp đỡ là kẻ xây đắp hòa bình. Những ai biết tha thứ, những ai biết phục vụ tha nhân, những ai biết luôn khước từ hận thù, bạo lực là những người thợ xây dựng hòa bình. Những ai biết chia sớt của cải mình cho người túng thiếu hơn, những ai có lòng nhân từ, có lòng khoan dung và thông cảm đều là những kẻ giúp cho hòa bình nảy nở giữa loài người.

Tóm lại, cách thức tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm cho thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm đối với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua đuổi bóng tối của những đau khổ và sự dữ.
P.A chuyển

Lễ Vọng Phục Sinh tại Vatican và Giêrusalem, Lễ Vượt Qua ở Vatican và Giêrusalem 2013

Lễ Vọng Phục Sinh tại Vatican và Giêrusalem 2013



  Lễ Vượt Qua ở Vatican và Giêrusalem 2013

vendredi 18 avril 2014

Lễ Phục Sinh

 

Lễ Phục Sinh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tranh "Victory over the Grave" (Chiến thắng sự chết), của Bernhard Plockhorst, thế kỷ 19

Lễ Phục Sinh thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Kitô giáo, thường diễn ra vào tháng 3 hoặc 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện sự chếtphục sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá (xem Thứ Sáu Tuần Thánh), được người Kitô hữu tin là đã xảy ra vào khoảng năm 3033 CN. Phục Sinh cũng được dùng để chỉ một mùa trong năm phụng vụ Công giáo gọi là Mùa Phục Sinh, kéo dài đúng 50 ngày, từ Chúa Nhật Phục Sinh đến Lễ Hiện Xuống.

Lễ Phục sinh dựa nhiều vào nguồn gốc lễ Vượt qua của Do Thái giáo. Người Kitô hữu tin rằng cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu đã hoàn thành những gì mà biến cố Xuất Hành đã tiên báo: giải phóng con người khỏi tội lỗi và đưa họ vào cuộc sống do Thiên Chúa trao ban.
Việc mừng Chúa Giêsu sống lại vẫn được cử hành vào mỗi ngày Chủ Nhật. Tân Ước không có đoạn nào nói về lễ Phục sinh của Kitô giáo. Điều này chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau công nguyên. Các Giáo hội Đông phương thuộc miền Tiểu Á như Ephesus (Êphêxô), Smyrne... (từ chuyên môn Latinh gọi nhóm này là Quartodecimans = thứ 14) theo sát với truyền thống Do thái giáo, và họ mừng lễ Phục sinh theo ngày 14 tháng Nisan, cho dù ngày này rơi vào một ngày trong tuần chứ không bắt buộc phải là ngày Chủ nhật. Họ tưởng niệm ngày Chúa Giêsu chịu chết.
Ngược lại Giáo hội Tây phương tại Rôma, Palestine, Ai cập, Hy Lạp và xứ Gaule (Pháp) lại mừng lễ Phục sinh vào ngày Chủ nhật vì tin rằng Chúa Giêsu sống lại ngày Chủ nhật. Ngày Chủ nhật này có thể rơi vào ngày 14 Nisan của Do thái, hay là Chủ nhật kế tiếp nếu như ngày 14 Nisan không là một ngày Chủ nhật. Một tuần lễ trước lễ Phục Sinh, được gọi là Tuần Thánh, tính từ ngày Chúa nhật Lễ Lá (hay Chúa nhật Thương Khó) cho đến hết ngày Thứ bảy Tuần Thánh (hay Canh thức Vượt Qua).

Ngày của lễ Phục Sinh

Ngày Chúa Nhật Phục Sinh, 2000–2020
2000: 23 tháng 4 (Tây phương); 30 tháng 4 (Đông phương) 2001: 15 tháng 4 2002: 31 tháng 3 (Tây phương); 5 tháng 5 (Đông phương) 2003: 20 tháng 4 (Tây phương); 27 tháng 4 (Đông phương) 2004: 11 tháng 4 2005: 27 tháng 3 (Tây phương); 1 tháng 5 (Đông phương) 2006: 16 tháng 4 (Tây phương); 23 tháng 4 (Đông phương) 2007: 8 tháng 4 2008: 23 tháng 3 (Tây phương); 27 tháng 4 (Đông phương) 2009: 12 tháng 4 (Tây phương); 19 tháng 4 (Đông phương) 2010: 4 tháng 4 2011: 24 tháng 4 2012: 8 tháng 4 (Tây phương); 15 tháng 4 (Đông phương) 2013: 31 tháng 3 (Tây phương); 5 tháng 5 (Đông phương) 2014: 20 tháng 4 2015: 5 tháng 4 (Tây phương); 12 tháng 4 (Đông phương) 2016: 27 tháng 3 (Tây phương); 1 tháng 5 (Đông phương) 2017: 16 tháng 4 2018: 1 tháng 4 (Tây phương); 8 tháng 4 (Đông phương) 2019: 21 tháng 4 (Tây phương); 28 tháng 4 (Đông phương) 2020: 12 tháng 4 (Tây phương); 19 tháng 4 (Đông phương)
Trong Kitô giáo Tây phương, ngày lễ Phục Sinh tất cả rơi vào một Chủ nhật giữa 22 tháng 325 tháng 4. Ngày kế tiếp, Thứ hai, được công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhưng không được quy định tại Hoa Kỳ, ngoại trừ trước kia ở một số tiểu bang, tất cả đã được bãi bỏ từ thập niên 1980.
Lễ Phục Sinh và các ngày nghỉ liên hệ tới nó là những ngày lễ di động, tức chúng không rơi vào một ngày cố định trong lịch Gregory hay lịch Julius (là những lịch dựa theo sự vận hành của mặt trời và mùa). Thay vào đó nó dựa trên lịch Mặt Trăng tương tự – nhưng không giống hệt – lịch Do Thái. Ngày chính xác của lễ Phục Sinh thường vẫn còn là đề tài tranh luận.
Vào Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325, lễ Phục Sinh được quyết định tổ chức vào cùng một chủ nhật trên toàn giáo hội, nhưng có lẽ chưa có phương pháp nào được chỉ định bởi Công đồng (không may là hiện không tìm thấy nguyên văn các quyết định của Công đồng). Thay vào đó, việc chọn ngày dường như tham khảo từ giáo hội ở Alexandria, một thành phố nổi danh về sự thông thái vào lúc đó. Thành phố này tổ chức lễ Phục Sinh vào chủ nhật đầu tiên sau ngày thứ 14 đầu tiên của tháng âm lịch xảy ra vào hoặc sau 21 tháng 3. Trong suốt thời Trung Cổ, cách tính này được diễn đạt ngắn gọn là Lễ Phục Sinh xảy ra vào chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên vào hoặc sau ngày xuân phân. Giáo hội Công giáo Rôma dùng cách riêng để tính ngày Phục Sinh cho đến thế kỉ 6, sau đó có lẽ họ chuyển sang phương pháp Alexandria khi đổi sang lịch Julius bởi Dionysius Exiguus (không có bằng chứng rõ ràng về việc này cho đến thế kỉ 9). Hầu hết giáo hội trên các đảo Anh dùng phương pháp Rôma cuối thế kỉ 3 cho đến khi họ áp dụng cách tính Alexandria vào Công đồng Whitby năm 664. Các giáo hội trên lục địa châu Âu ở phía tây dùng cách tính Rôma đến cuối thế kỉ 8 trong triều đại Charlemagne, và cuối cùng họ cũng chuyển sang dùng phương pháp Alexandria. Vì các giáo hội Tây phương hiện nay dùng lịch Gregory để tính ngày, còn các giáo hội Chính thống Đông phương dùng lịch Julius, nên ngày lễ Phục Sinh của họ thường không trùng nhau.
Tại hội nghị thượng đỉnh ở Aleppo, Syria năm 1997, Hội đồng các giáo hội thế giới đề nghị cải cách phương pháp tính ngày lễ Phục Sinh dựa trên các tính toán theo quan sát thiên văn trực tiếp; điều này giúp loại bỏ khác biệt giữa các giáo hội Tây phương và Đông phương. Cải cách này được đề nghị áp dụng từ năm 2001, nhưng cuối cùng nó không được các thành viên sử dụng.

Vị trí trong năm phụng vụ

Việc mừng Chúa Giêsu sống lại vẫn được cử hành vào mỗi ngày Chủ Nhật. Tân Ước không có đoạn nào nói về lễ Phục sinh của Kitô giáo. Điều này chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau công nguyên. Các Giáo hội Đông phương thuộc miền Tiểu Á như Ephesus (Êphêxô), Smyrne... (từ chuyên môn Latinh gọi nhóm này là Quartodecimans = thứ 14) theo sát với truyền thống Do thái giáo, và họ mừng lễ Phục sinh theo ngày 14 tháng Nisan, cho dù ngày này rơi vào một ngày trong tuần chứ không bắt buộc phải là ngày Chủ nhật. Họ tưởng niệm ngày Chúa Giêsu chịu chết.
Ngược lại Giáo hội Tây phương tại Rôma, Palestine, Ai cập, Hy Lạp và xứ Gaule (Pháp) lại mừng lễ Phục sinh vào ngày Chủ nhật vì tin rằng Chúa Giêsu sống lại ngày Chủ nhật. Ngày Chủ nhật này có thể rơi vào ngày 14 Nisan của Do thái, hay là Chủ nhật kế tiếp nếu như ngày 14 Nisan không là một ngày Chủ nhật.
Cuộc tranh cãi về việc mừng lễ Phục sinh chứng giám việc cử hành phụng vụ đa dạng tại các vùng khác nhau và nêu lên sự hiểu biết khác biệt về lễ Phục sinh. Khi mừng lễ Phục sinh vào ngày 14 Nisan, các giáo hội Đông phương cũng mừng Chúa Giêsu chết và sống lại, nhưng họ đánh dấu trọng tâm vào cái chết của ông, trong khi đó bên Tây Phương nhấn mạnh vào sự sống lại của ông.
Cuộc tranh luận suýt gây ra đổ vỡ giữa hai bên. Vào năm 192, Giáo hoàng Victor quyết định ra vạ tuyệt thông các Giáo hội miền Tiểu Á. Thánh Irênê can thiệp ôn hoà và giáo hoàng này đã rút lại vạ tuyệt thông.
Tại Công đồng Nicêa năm 325 do hoàng đế Constantin triệu tập, các Giáo hội Kitô giáo đồng ý tách biệt lễ Vượt qua Do thái giáo và lễ Phục sinh Kitô giáo. Các nghị phụ chấp thuận mừng lễ Phục sinh vào ngày Chúa nhật tiếp theo tuần trăng tròn (14 Nisan) sau ngày Phân xuân.

Kitô giáo Tây phương

Trong Kitô giáo Tây phương, lễ Phục Sinh đánh dấu việc kết thúc 40 ngày chay tịnh – giai đoạn ăn kiêng và sám hối để chuẩn bị cho lễ Phục Sinh bắt đầu vào Thứ tư Lễ Tro và chấm dứt vào khuya Thứ bảy Tuần Thánh.
Tuần trước ngày Phục Sinh là tuần rất đặc biệt trong truyền thống Kitô giáo gọi là Tuần Thánh: Chủ Nhật trước đó là Chúa nhật Lễ Lá, và ba ngày cuối cùng trước ngày Phục Sinh gọi là Tam Nhật Thánh, bao gồm: Thứ năm Tuần Thánh (Thứ năm Rửa Chân), Thứ sáu Tuần Thánh (Thứ sáu Tốt Lành) và Thứ bảy Tuần Thánh (Thứ bảy Yên Tĩnh). Chúa nhật Lễ Lá, Thứ năm Tuần Thánh và Thứ sáu Tuần Thánh tập chú và việc tưởng nhớ đến các sự kiện Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, bữa Tiệc Ly và Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập tự giá. Thứ sáu Tuần Thánh, Thứ bảy Tuần Thánh và Chúa nhật Phục Sinh đôi khi được gọi là Tam Nhật Phục Sinh (hay Tam Nhật Vượt Qua). Ở một số nước, lễ Phục Sinh kéo dài 2 ngày, với ngày thứ hai gọi là "Thứ hai Phục Sinh". Nhiều giáo hội bắt đầu lễ Phục Sinh vào cuối buổi tối ngày Thứ bảy Tuần Thánh với lễ Vọng Phục Sinh hay Canh thức Vượt Qua.
Mùa Phục Sinh bắt đầu từ Chúa Nhật Phục Sinh và kéo dài đến lễ Hiện xuống vào 50 ngày sau đó. Trong Kitô giáo Tây phương, ngày lễ Phục Sinh tất cả rơi vào một Chủ nhật giữa 22 tháng 3 và 25 tháng 4. Ngày kế tiếp, thứ Hai, được công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhưng không được quy định tại Hoa Kỳ, ngoại trừ trước kia ở một số tiểu bang, tất cả đã được bãi bỏ từ những năm 1980. Lễ Phục Sinh và các ngày nghỉ liên hệ tới nó là những ngày lễ di động, tức là chúng không rơi vào một ngày cố định trong lịch Gregorian hay lịch Julian (là những lịch dựa theo sự vận hành của mặt trời và mùa). Thay vào đó nó dựa trên lịch Mặt Trăng tương tự — nhưng không giống hệt — lịch Do Thái. Ngày chính xác của lễ Phục Sinh thường vẫn còn là đề tài tranh luận.Vào Công đồng Nicaea thứ nhất năm 325, lễ Phục Sinh được quyết định tổ chức vào cùng một Chủ nhật trên toàn giáo hội, nhưng có lẽ chưa có phương pháp nào được chỉ định bởi Công đồng (không may là hiện không tìm thấy nguyên văn các quyết định của Công đồng). Thay vào đó, việc chọn ngày dường như tham khảo từ giáo hội ở Alexandria, một thành phố nổi danh về sự thông thái vào lúc đó. Thành phố này tổ chức lễ Phục Sinh vào Chủ nhật đầu tiên sau ngày thứ 14 đầu tiên của tháng âm lịch xảy ra vào hoặc sau 21 tháng 3. Trong suốt thời Trung Cổ, cách tính này được diễn đạt ngắn gọn là Lễ Phục Sinh xảy ra vào Chủ nhật đầu tiên sau ngày trăng tròn đầu tiên vào hoặc sau ngày xuân phân. Giáo hội Công giáo Rome dùng cách riêng để tính ngày Phục Sinh cho đến thế kỉ 6, sau đó có lẽ họ chuyển sang phương pháp Alexandria khi đổi sang lịch Julius bởi Dionysius Exiguus (không có bằng chứng rõ ràng về việc này cho đến thế kỉ 9). Hầu hết giáo hội trên các đảo Anh dùng phương pháp Rome cuối thế kỉ 3 cho đến khi họ áp dụng cách tính Alexandria vào Công đồng Whitby năm 664. Các giáo hội trên lục địa châu Âu ở phía Tây dùng cách tính Rôma đến cuối thế kỉ 8 trong triều đại Charlemagne, và cuối cùng họ cũng chuyển sang dùng phương pháp Alexandria. Vì các giáo hội Tây phương hiện nay dùng lịch Gregory để tính ngày, còn các giáo hội Chính thống Đông phương dùng lịch Julius, nên ngày lễ Phục Sinh của họ thường không trùng nhau.
Tại hội nghị thượng đỉnh ở Aleppo, Syria năm 1997, Hội đồng các giáo hội thế giới đề nghị cải cách phương pháp tính ngày lễ Phục Sinh dựa trên các tính toán theo quan sát thiên văn trực tiếp; điều này giúp loại bỏ khác biệt giữa các giáo hội Tây phương và Đông phương. Cải cách này được đề nghị áp dụng từ năm 2001, nhưng cuối cùng nó không được các thành viên sử dụng.Ngoài những truyền thống tôn giáo có liên quan đến hoạt động kỷ niệm sự phục sinh của chúa Jesus, người theo Kitô giáo còn có truyền thống trao nhau những quả trứng Phục sinh, thường được làm từ chocolate. Trứng là biểu tượng từ xưa về sự sinh sản. Có một truyền thống là vào buổi sáng lễ Hiện xuống (một phần của lễ Phục sinh), người ta thức dậy sớm để ngắm mặt trời lên và dùng bữa trưa đặc biệt, như tổ chức một chuyến giã ngoại cho cả gia đình.

Kitô giáo Đông phương


Biểu tượng Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô của Giáo hội Chính thống Nga vào thế kỉ 16

Trong Kitô giáo Đông phương, sự chuẩn bị bắt đầu với mùa Đại Chay. Theo sau chủ nhật thứ năm của mùa Đại Chay là Tuần Lá, kết thúc vào Thứ Bảy Lazarus. Thứ Bảy Lazarus chính thức bế mạc mùa Đại Chay, mặc dù việc ăn kiêng vẫn tiếp tục cho tuần kế tiếp đó. Sau Thứ Bảy Lazarus đến Chúa Nhật Lá, Tuần Thánh và cuối cùng là lễ Phục Sinh hay lễ Vượt Qua (Pascha, Πασχα), và việc ăn kiêng chấm dứt ngay sau Phụng Vụ Thánh (Divine Liturgy). Lễ Phục Sinh theo ngay sau Tuần Sáng (Bright Week), không ăn kiêng trong tuần này kể cả thứ tư và thứ sáu.
Phụng Vụ Thánh Vượt Qua nói chung diễn ra vào khoảng nửa đêm, vào sáng sớm của ngày Vượt Qua. Việc đặt Phụng Vụ Thánh Vượt Qua vào nửa đêm bảo đảm rằng không có Phụng Vụ Thánh khác vào buổi sáng, khiến lễ này trở thành "Lễ của mọi lễ" trong năm phụng vụ.

Phong tục và lễ nghi

Một tuần lễ trước lễ Phục Sinh, được gọi là Tuần Thánh, tính từ ngày Chúa nhật Lễ Lá (hay Chúa nhật Thương Khó) cho đến hết ngày Thứ bảy Tuần Thánh (hay Canh thức Vượt Qua). Trong tuần này, các giáo hội Kitô giáo tưởng nhớ cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô, cử hành những mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng ở trần gian. Đối với Kitô hữu, mọi cử hành phụng vụ trong tuần này đều nói lên thái độ đau buồn, nhưng với tâm tình biết ơn vì Chúa đã thương trở nên con người để chịu đau khổ và chịu chết cho nhân loại tội lỗi.


Trứng Phục sinh tại Cộng hòa Séc

Tại nhiều quốc gia Tây Phương, Lễ Phục Sinh bao gồm chủ nhật và thứ hai là ngày nghỉ lễ chính thức. Tại châu Âu, như tại Đức, thêm ngày thứ Sáu Tuần Thánh cũng là ngày nghỉ lễ chính thức, vào ngày này, những nơi vui chơi, rạp hát, tiệm buôn đều đóng cửa để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa.
Theo một phong tục cổ từ những người Ai Cập, Ba Tư (Perse) vào ngày Xuân phân (21/03), bắt đầu một năm mới, bạn bè thường trao đổi cho nhau các quả trứng có tô điểm màu sắc, vì coi đó như là điều tốt lành, vì từ trứng xuất hiện lên sự sống.

Xem thêm

Tham khảo

Phương tiện liên quan tới Easter tại Wikimedia Commons

Tuần Thánh trước Lễ Phục Sinh
Chúa nhật Lễ Lá | Thứ hai Tuần Thánh | Thứ ba Tuần Thánh | Thứ tư Tuần Thánh Thứ năm Tuần Thánh | Thứ sáu Tuần Thánh | Thứ bảy Tuần Thánh

Ngày hôm trước Thứ bảy Tuần Thánh
(Canh thức Vượt Qua)

Những ngày lễ Công giáo Chúa Nhật Phục Sinh Emblem of the Papacy SE.svg Ngày hôm sau Thứ Hai trong Tuần Bát Nhật Phục sinh

jeudi 17 avril 2014

Tiệc Ly

 

Tiệc Ly

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chúa Giêsu
SermonOnTheMountcropped.jpg


Trở lại với “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci (1)

“Bữa tiệc ly” (The Last Supper1495-1498) của Leonardo da Vinci (1452-1519) - thể hiện bữa ăn tối cuối cùng của chúa Giêsu với các tông đồ trước giờ Người chịu khổ nạn - là một tác phẩm nghệ thuật vô cùng nổi tiếng.
Hầu như “ai cũng biết” đó là một kiệt tác hội họa, đánh dấu một bước phát triển hoàn mỹ của nghệ thuật nhân loại thời đại Phục Hưng, là tác phẩm đỉnh cao có nhiều ảnh hưởng nhất trong lịch sử nghệ thuật Thiên Chúa Giáo, và là tác phẩm được thực hiện bởi một “thiên tài nghệ thuật”…
Những cái “biết” trên chẳng có gì sai.
Nhưng, sẽ rất vô ích - thậm chí có hại - cho nhận thức, nếu không gắn liền với các diễn giải xác thực, có tính hệ thống…, và nếu không tiếp cận được với tác phẩm gốc, hoặc ít nhất là với phiên bản “đúng”.
Ở Việt Nam, cả hai vấn đề sau chữ “nhưng” vừa nêu, đều có vô số điều bất cập. Và chính vì những bất cập đó, mà tôi viết bài “trở lại” này.
Thứ nhất, về vấn đề diễn giải:
Gần như hầu hết các bài viết tiếng Việt về “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci đều chỉ xoay quanh việc mô tả sự kiện mang tính thời sự, đại khái:
Tác phẩm là một bức tranh tường, được vẽ trực tiếp lên tường phòng ăn ở tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, Italy, có kích thước khá lớn (450x870cm) và, được Leonardo da Vinci sáng tác trong khoảng thời gian từ 1495 đến 1498 theo yêu cầu của Công tước Ludovico Sforza.
Để thực hiện tác phẩm này, Leonardo da Vinci phải đi quan sát thực tế rất nhiều để nắm bắt các sắc thái điển hình (về dung mạo, hành vi, trang phục) cho từng nhân vật, và đã thực hiện rất nhiều khảo họa.
Tác phẩm ngay sau khi hoàn thành, đã gây choáng váng cho người mộ điệu đương thời vì dáng vẻ hiện thực sống động, vô cùng tinh tế trong cách thức thể hiện các nhân vật, vì sự thông minh bác học trong cách phối cảnh, và, vì sự hài họa tự nhiên trong cách bố cục, điều phối màu sắc…
Điều đáng tiếc, là tác phẩm nhanh chóng bị hư hại, một phần là do Leonardo da Vinci đã sai lầm khi dùng kỹ thuật vẽ trực tiếp trên nền thạch cao khô (chứ không phải trên nền thạch cao ướt được dùng phổ biến đương thời), và phần khác, nghiêm trọng hơn, là do sự phá hoại của con người trong các thời kỳ biến động của lịch sử sau đó. Tác phẩm cũng đã được phục chế nhiều lần, nhưng chính sự phục chế này, đã gây nên các tranh luận gay gắt về diện mạo chân thực của tác phẩm hiện tại!...
Cho đến ngày nay, “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci đã được xem là một kỳ quan thế giới do con người tạo nên…
Nhiều bài viết khác, chỉ xoay quanh các giai thoại, các câu chuyện đơm đặt chung quanh tác phẩm. Từ các “thông điệp bí mật” được tác giả giấu kín trong tác phẩm đến các câu chuyện về các nguyên mẫu cho từng nhân vật trong tranh. Trong đó, được nhắc đến nhiều nhất, được nhiều người tin (là thật) nhất, là giai thoại về nguyên mẫu hình tượng Chúa Giêsu và hình tượng Giuđa (1).
Chỉ một số rất ít tập trung mô tả tác phẩm như một sự kiện nghệ thuật. Tuy nhiên, sự mô tả này, cũng chỉ dừng lại ở sự mô tả chủ đề tác phẩm, chưa đủ cho một nhận thức thực sự về nghệ thuật. Ngay sau đây là đoạn văn tiêu biểu nhất:
“Đề tài tổng quát bức hoạ là bữa tiệc ly, bữa ăn cuối cùng Chúa dùng với các môn đệ trước khi lên đường khổ nạn. Leonardo đã thu gọn đề tài vào một thời điểm nhất định trong bữa tiệc: lúc Chúa vừa nói với 12 môn đồ: “Quả thật, Thày bảo cho các con biết, một người trong các con sẽ phản Thầy”. Nét mặt Chúa buồn rầu, đôi mắt nhìn xuống như muốn tránh cái nhìn của kẻ Người vừa tố giác. Hai tay buông xuôi tựa xuống mặt bàn, cử chỉ của Người vừa tiết lộ một điều quan trọng và bây giờ lặng thinh không nói nữa: một giây phút thinh lặng bi tráng!
Bỗng chốc, như một dòng điện, lời tố giác của Chúa truyền đi mau chóng, gây phản ứng đột ngột trên nét mặt và cử chỉ dáng điệu của 12 môn đồ. Mỗi ông phản ứng một cách tuỳ theo tính tình, tâm lý từng người.
Sát bên tay phải Chúa là Gioan, người môn đệ yêu quý có tâm hồn dễ cảm, biểu lộ sự đau đớn trầm lặng sâu xa. Tiếp đến Phêrô tính bộc trực nóng nảy, ghé sát đầu Gioan hỏi nhỏ xem ai là thủ phạm. Con dao sắc nhọn chìa ra phía sau lưng chứng tỏ ông sẵn sàng nghiêm trị tức khắc đứa phản Thầy như lát nữa ông sẽ chém đứt tai tên đầy tớ thầy thượng tế trong vườn Cây Dầu. Giuđa ngồi ngay trước Phêrô, có thái độ hốt hoảng như tên ăn trộm vừa bị lộ tẩy, tay phải ôm chặt túi bạc, tay trái giơ ra phía trước như muốn phân bua chối cãi. Kế đó là An-rê, xoè hai bàn tay ra, bỡ ngỡ kinh hoàng trước cái tin gở lạ không thể tưởng tượng được. Giacôbê hậu, tinh anh hơn, vươn cánh tay gọi Phêrô như để bảo ông: tôi đã đoán ra được ai rồi! Cuối hàng là Bartôlômêô sửng sốt đứng dậy nghiêng mình về phía trước đểm xem và nghe cho rõ đầu đuôi câu chuyện.
Phía tay trái Chúa: Giacôbê tiền, nét mặt bỡ ngỡ kinh ngạc, hay tay giang rộng, lùi về phía sau như bị áp lực của lời Chúa vừa tung ra. Tôma, con người linh hoạt nhất trong nhóm, đã rời chỗ lại gần Chúa giơ ngón tay băn khoăn hỏi: “Thày có nghi ngờ gì tôi không?’
Kế đến Philipphê, dáng điệu ôn hoà, chỉ tay vào ngực thề nguyện một niềm trung tín trọn vẹn. Mát-thêu đang chuyển lại tin buồn cho hai ông bạn ngồi cuối bàn là Tađêô và Simon. Hai ông có phần lớn tuổi, cử chỉ điềm tĩnh chậm chạp hơn, nhưng nét mặt không giấu được nỗi lo âu, phiền muộn.
Giữa bầu khí xúc động náo nhiệt ấy, một mình Chúa ngồi rất điềm tĩnh, nét mặt hiền dịu in trên nền trời xanh êm ả, coi như Ngài không lưu ý gì tới sự xôn xao náo động chung quanh. Tuy nhiên người ta đọc được nét thoáng buồn trên khuôn mặt và hai bàn tay của Chúa.
Cách bố cục rất tài tình. Tác giả dàn xếp các nhận vật thành từng nhóm 3 người, mỗi bên hai nhóm. Chúa ngự giữa trung tâm bức tranh. Tất cả các đường nét, các điệu bộ, cử chỉ đều hướng về trung tâm. Từ nhóm nọ sang nhóm kia, tác giả cũng hữu ý nối kết lại với nhau bằng những đường nét rất tự nhiên, tỉ dụ bàn tay Gia-cô-bê vắt qua lưng Phê-rô để nối liền hai nhóm bên phải Chúa, và cánh tay Mát-thêu giang ra làm gạch nối giữa 2 nhóm bên trái Chúa.” (2)
Các cách diễn giải trên, có thể có ý nghĩa, trong một chừng mực nhất định, về mặt xã hội và luân lý, nhưng thực tế, chẳng giúp ích được gì cho sự tăng tiến nhận thức về nghệ thuật nói chung, về “Nghệ thuật Thánh-Công giáo” nói riêng, và về bản thân tác phẩm. Cách diễn giải thứ nhất, chỉ mới là sự “làm quen”; cách thứ hai, đơn giản chỉ là “mượn cớ” cho những câu chuyện khác; còn cách diễn giải chủ đề vừa dẫn dài dòng ở trên, tuy giúp hiểu nội dung tác phẩm, nhưng rất dễ dẫn người xem vào một ngộ nhận hết sức tai hại: không phân biệt được sự khác biệt của một tác phẩm nghệ thuật với một bức tranh minh họa đơn thuần!
Những bất cập, ít nhất, cần phải làm rõ và bổ khuyết ở đây là:
Một, cần phải nhìn tác phẩm trong các tương quan lịch sử của nó. Mà, cụ thể, là trong xu hướng “canh tân” mọi mặt trong đời sống văn hóa và tôn giáo thời đại Phục Hưng.
Hai, cần phải nhìn tác phẩm trong tương quan so sánh với các tác phẩm khác cùng chủ đề (Bữa tiệc ly) được sáng tác trước đó và sau đó.
Chỉ khi làm rõ hai vấn đề này, thì mới có được cái nền cơ bản, để thấy rõ hơn các đóng góp “thiên tài” của Leonardo da Vinci về ngôn ngữ nghệ thuật và về tư tưởng-hai yếu tố căn bản để có nhận thức đúng về nghê thuật.
Dĩ nhiên, bổ khuyết cho những bất cập này là chuyện dài dòng, cần đến một chương trình phổ cập được thiết kế hệ thống. Ở đây, đặt tác phẩm giới hạn trong tương quan “Nghệ thuật thánh Công giáo” và hướng đến đối tượng là cộng đồng giáo dân, tôi chỉ muốn lưu ý:
“Bữa tiệc ly” là một trong những chủ đề quan trọng của “Nghệ thuật thánh Công giáo”. Các tác phẩm “Bữa tiệc ly” trước thời Leonard da Vinci, đặc biệt trong thời Trung Cổ (hoặc ở những nơi vẫn còn có tính chất trung Cổ) chủ yếu, chỉ hướng đến mục tiêu phụng vụ, và với mục tiêu phụng vụ, chủ yếu chỉ nhắm đến ý nghĩa: qua đó Chúa Giêsu đã thiết lập hai bí tích quan trọng là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Truyền Chức Thánh. Hầu hết các tác phẩm này, với mục tiêu như vậy, xem “Bữa tiệc ly” là một sự kiện “thần thiêng” và do đó, chỉ được thể hiện một cách tượng trưng với sự uy nghiêm thuần khiết - một bảo đảm chắc chắn cho lòng tôn kính và thờ phượng. (Xem tranh)
Các tác phẩm “Bữa tiệc ly” sau thời Leonard da Vinci, gần như hầu hết, được thể hiện chủ yếu trong tầm nhìn “thế tục”. “Bữa tiệc ly” chỉ còn là một sự kiện lịch sử, hay thuần tuý chỉ là một ẩn dụ. Tính chất “Thần thiêng” của chủ đề đã được thay thế hoàn toàn bởi tính chất “hiện thực”. Các tác phẩm, bởi vậy, mà có tính cách phóng túng và “đời thường” hơn. Dưới dây là vài tác phẩm tiêu biểu:
“Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci là tác phẩm đầu tiên và duy nhất dung hòa tính chất “thần thiêng” và tính chất “thế tục” một cách hoàn hảo với sự hoà trộn một cách tuyệt diệu ngôn ngữ tả thực và ngôn ngữ ẩn dụ vừa thể hiện được tính cách uy nghiêm của chủ đề vừa hết sức sinh động. Chẳng phải ngẫu nhiên tác phẩm này đã có một vị thế vô cùng vững chãi không chỉ trong lịch sử “Nghệ thuật Thánh-Công giáo” mà còn trong lịch sử nghệ thuật nhân loại nói chung… Xin xem lại tác phẩm:
Thứ hai, về vấn đề tiếp cận tác phẩm:
Điều cần nói ngay, quanh “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci, có rất nhiều dị bản được thực hiện bởi nhiều họa sĩ hữu danh và vô danh ở khắp mọi nơi sau này. Và, gần như hầu hết các phiên bản “Bữa tiệc ly” mà chúng ta nhìn thấy hiện nay, ở khắp mọi nơi, đều được nhân ra từ các dị bản này. Dưới đây là vài dị bản tiêu biểu:
Từ đây, rất cần một sự khẳng định, hầu hết các phiên bản mà chúng ta đang nhìn thấy, thực sự, không thể đại diện cho “Bữa tiệc ly” của Leonardo da Vinci.
Sự khẳng định này là hết sức cần thiết. Không chỉ nhằm tránh cách đánh giá sai về tầm vóc “thiên tài” của tác phẩm gốc, mà quan trọng hơn, còn tránh dẫn đến cách hiểu sai về nghệ thuật nói chung.
Để có một chút hình dung về sự tuyệt vời của tác phẩm gốc (đã bị biến đổi nhiều bởi hư hại và qua các lần phục chế) có lẽ, nên xem qua một số khảo họa mà Leonardo da Vinci đã thực hiện còn lưu giữ được:

Nguyên Hưng
(1) “Chuyện lạ từ Bích họa Bữa Tiệc Ly và Danh họa Leonardo Da Vinci”-http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20101216/8050.
(2) Bức hoạ “Tiệc Ly”- http://www.dktnt.conggiaovn.net/ktdm/showthread.php?t=463