dimanche 14 octobre 2012

Lời Trăn Trối Của Người Mẹ


14 tháng 10

Lời Trăn Trối Của Người Mẹ


Thời cách mạng Pháp, người ta hay nhắc đến một khuôn mặt dữ tợn, chuyên săn lùng các linh mục: đó là đại úy Laly.

Ông đã gia nhập vào đảng Jacobins đi khắp nơi để reo rắc kinh hoàng cho dân chúng. Nhiều vị linh mục đã kín đáo đến khuyên nhủ để lôi kéo ông ra khỏi tội ác. Nhưng tất cả mọi cố gắng của người khác đều vô ích. Con người độc ác đó chỉ đáp lại bằng lãnh đạm và những lời lẽ thô tục.

Thế nhưng một hôm, khi mọi người tưởng như không còn một chút hy vọng, Laly đã lần mò đến một linh mục để xin xưng tội và hòa giải với Giáo Hội. Sau đó ông đã thú nhận: "Cả đời, ngày nào tôi cũng đọc một kinh Kính Mừng, theo lời trăn trối của mẹ tôi trước khi chết".

Có những câu ca dao, có những bài hát, có những bài học làm người, chúng ta tiếp thu ngay khi còn ngồi trên gối mẹ. Trí óc non dại của chúng ta chưa đủ khả năng để lĩnh hội ý nghĩa sâu xa của những bài học đó. Nhưng dần dà với thời gian, khi bắt đầu chúng ta biết suy nghĩ, những bài học đó trồi lên một cách trong sáng trong kiến thức của chúng ta. Có lẽ người mẹ nào cũng hiểu được giá trị của câu: "Dạy con từ thuở còn thơ...".

Mẹ Maria, Hiền Mẫu của chúng ta, vừa là một mẫu gương vừa là một nhà giáo dục tuyệt hảo trong Ðức Tin. Lời kinh dâng Mẹ mà chúng ta bập bẹ khi vừa biết nói là bài ca dao đẹp nhất không ngừng ngân vang trong cuộc sống Kitô chúng ta. Có thể, đôi lúc chúng ta cũng ngâm nga một cách máy móc, nhưng Mẹ vẫn có đó và Mẹ vẫn đeo đuổi, ấp ủ chúng ta trong Tình Yêu bao la của Mẹ.

Trích sách Lẽ Sống

Thú vật dễ thương

 
Tác giả: 
Sưu tầm
Thú vật dễ thương 1


















samedi 13 octobre 2012

10 Thành Phố Đẹp Trên Thế Giới

10 Thành Phố Đẹp Trên Thế Giới


1-NEWYORK
2-LONDON
3-PARIS
4-BERLIN
5-BARCELONE
6-FRANFURT
7-CHICAGO
8-VANCOUVER
9-SYDNEY
10-ROME


jeudi 11 octobre 2012

Bồng lai tiên cảnh


Hồng Phúc sưu tầm


Bồng lai tiên cảnh  Trương Gia Giới 
 
Đặt chân tới đây, bạn như lạc vào thế giới bồng lai tiên cảnh... Trương Gia Giới là tên một thành phố ở phía Tây Bắc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Đây cũng là thiên đường du lịch với vô số cảnh đẹp thần tiên: từ núi non, sông nước hữu tình đến những thung lũng nên thơ, khu rừng nguyên sinh hoang dã. Đặc biệt, với rừng đá sa thạch hùng vĩ, Trương Gia Giới còn được mệnh danh là “Pandora trên Trái đất”. 

Pandora là tên một hành tinh tươi tốt mang sự sống nằm trong chòm sao Alpha Centauri trong bộ phim "Avatar", được biết đến với khung cảnh hùng vĩ, hài hòa giữa mây, trời, núi và cây cỏ. Khu vực mà chúng ta chuẩn bị "du ngoạn qua màn hình máy tính" dưới đây là một minh chứng về việc "Pandora có thật trên Trái đất".

Cách trung tâm thành phố khoảng 20 phút chạy xe, công viên quốc gia Trương Gia Giới được coi như “vườn sau” của thành phố và còn được gọi với cái tên mỹ miều “công viên đào nguyên”.
 

Rừng nguyên sinh Trương Gia Giới rộng khoảng 4.810ha, ở độ cao trên 1.000m so với mực nước biển. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới năm 1992, Công viên Địa chất Thế giới vào năm 2004. 
Cả khu vực nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, quanh năm có sương mù bao phủ như chốn bồng lai. 
Những chóp núi ẩn mình trong sương sớm, để rồi vút cao đầy kiêu hãnh khi Mặt trời lên.
 
Sự đa dạng của cảnh quan mang đến cho mỗi mùa một vẻ đẹp rất riêng. 
Rừng đá sa thạch là cảnh đẹp nổi tiếng nhất ở Trương Gia Giới với quần thể núi đá cao vút, đứng sừng sững như những cây cột trụ trời, tạo nên khung cảnh nguyên sơ vô cùng ấn tượng.

 
Khu rừng đặc biệt này có tới hơn 3.000 cột đá và vách núi hình thù thiên biến vạn hóa, có cột cao tới 800m. Giữa các cột đá và khe núi là các hang động, suối nguồn, những rừng cây nguyên sinh nơi cư trú của nhiều loài cây ôn đới. 
 
Khung cảnh ngoạn mục này là kết quả của quá trình kiến tạo địa chất kéo dài suốt 380 triệu năm, từ khi cả khu vực còn chìm sâu dưới đáy biển, qua nhiều lần nâng lên hạ xuống của vỏ Trái đất và quá trình bào mòn, phong hóa.
 
Đứng trên đỉnh núi phóng tầm mắt xuống thung lũng, khung cảnh bao trùm ngút mắt một màu xanh.
Hai vách núi chụm đầu vào nhau hình thành cây cầu tự nhiên, hay còn được người dân nơi đây gọi là “Thiên hạ đệ nhất kiều”.
 
Đây chính là ngọn núi Hallelujah nổi tiếng - nguyên mẫu để các nhà làm phim tạo ra những ngọn núi bồng bềnh giữa biển mây trong siêu phẩm điện ảnh Avatar (2009). Vì thế, Trương Gia Giới còn được mệnh danh là “Pandora trên Trái đất”.
 
Trong số những ngọn núi tuyệt đẹp của Trương Gia Giới, Thiên Môn là đặc biệt nhất. Để lên đến được đỉnh, chúng ta phải đi hết con đường dài 11km uốn lượn quanh núi.
 
Con đường này có 99 khúc quanh, tượng trưng cho 9 cung trên Thiên đình. 
Leo qua 999 bậc thang dốc đứng của đỉnh Thiên Môn, du khách sẽ tới được Cổng Trời, vốn là một lỗ khổng lồ được Mẹ Thiên nhiên "tạc" trong lòng núi.
 
Cổng Trời có hình bán nguyệt và cao tới 130m. Với địa thế ngoạn mục, đây thường là nơi tổ chức các màn biểu diễn nhào lộn máy bay.
 
Một ngôi chùa lớn được xây dựng trên đỉnh núi.
 
Để phục vụ nhu cầu ngắm cảnh của du khách, người ta đã dựng một con đường nhỏ men theo vách đá cao ngất của đỉnh Thiên Môn. Con đường có tên Skywalk, dài khoảng 80m, trong đó có 1 đoạn lát kính. 
Khi đi bộ trên Skywalk, bạn sẽ phải thót tim và rón rén như bước trên mây. Bởi lẽ, mọi cảnh vật hiện rõ mồn một ngay dưới chân và dưới lớp kính là độ cao đáng sợ - hơn 1.400m.
 
Trương Gia Giới nằm trọn trong đất liền, song với hơn 800 mạch nước từ ao, hồ, sông, suối, thác nước..., nơi đây không bao giờ bị thiếu nước ngay cả trong mùa khô hạn.
 T
hác nước Yuanyang đổ xuống từ độ cao 100m, tiếng rì rào của nó vang vọng khắp vùng núi.
 
Thả thuyền trên hồ Bảo Phong, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức phong cảnh đẹp như tranh vẽ của những rặng núi xanh ngắt hai bên bờ và thác nước trắng muốt đổ xuống từ sườn núi.
 
Rời xa những đô thị náo nhiệt và bụi bặm của thành phố du lịch với 1,68 triệu dân, được hít đầy lồng ngực bầu không khí trong lành tinh khiết và tận hưởng cái không gian yên tĩnh chỉ có tiếng vượn hót chim kêu, bạn chắc chắn sẽ phải nấn ná, không muốn rời khỏi chốn này.
 
Cư dân bản địa Trương Gia Giới chủ yếu là người dân tộc thiểu số như người Thổ Gia, người Bạch, người Miêu... còn người Hán chỉ chiếm chưa đầy 1/4.
 
Các dân tộc thiểu số đã hình thành những phong tục tập quán độc đáo, bao gồm nghệ thuật ca hát, nhảy múa, các lễ hội dân gian...
 
20 năm trước, để đến được khu rừng đá sa thạch của Trương Gia Giới, du khách sẽ phải vượt qua những con đường đất lầy lội, nhưng giờ đây họ đã có thể dễ dàng lên đến đỉnh Thiên Môn mà gót chân không dính bùn. Thành phố Trương Gia Giới ngày nay đã phát triển thành một trong những cụm du lịch hàng đầu Trung Quốc với nhiều điểm du lịch hấp dẫn, cùng chuỗi công viên, nhà hàng, khách sạn...
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của Trương Gia Giới lại không đi kèm với những hệ lụy xấu đối với thiên nhiên. Bởi song song với phát triển du lịch, chính quyền địa phương luôn tuân thủ một nguyên tắc sống còn: “Bảo tồn thứ nhất, phát triển thứ hai”. Nhờ vậy, trong suốt 40 năm qua, khu vực này chưa từng xuất hiện một vụ cháy rừng lớn hay dịch bệnh đáng kể nào đối với cây cối và động vật.
 
10 triệu lượt du khách đã đến tham quan công viên quốc gia Trương Gia Giới trong suốt 1 thập kỉ qua và vẻ đẹp tự nhiên của nó như vẫn còn nguyên vẹn. Sẽ thật đáng tiếc nếu bạn đến với Hồ Nam mà không ghé thăm địa danh độc đáo này.


.

Hạnh phúc trong tầm tay

Hồng Phúc sưu tầm 



1. Con Chim Trong Bàn Tay
Người Ba Tư có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Ngày xưa, tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế. Một hôm, giữa đám người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử từ trên núi cao đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông.
 

Anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. Anh đặt câu hỏi sau: "Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?"
 

Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu ông bảo rằng con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi thinh lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau: "Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó chết".
(Nguồn: Phật Học Tịnh Quang Canada)


Lời Bàn: Con chim trong bàn tay mục tử cũng như hạnh phúc trong tay ta, muốn có thì có muốn không thì không.


2.Lá rụng nơi thiên đường
--------------------------

- Này ông,
- Gì, để tôi ngủ thêm tí nào
- Dậy đi, chở tôi ra chợ hoa bằng xe đạp đi.
- Sao hôm nay bà lại giở giời thế này. Ra mua cái vé tàu điện ngầm mà đi chợ... Bà lão thân yêu ơi, cho tôi ngủ thêm tí nữa thôi mà...?
Lèm bèm, năn nỉ đủ cách mà chả được, ông cũng đành dậy.

Hai ông già bà cả đèo nhau trên cái xe đạp của thằng cháu. Thời buổi động một tí là người ta đi tàu ngầm, ô tô, hai ông bà trên cái xe đạp làm bao nhiêu người đi bộ phải
ngoái nhìn.
- Lát ông phải mua hoa tặng tôi nhé.
- Ừ, mua cho bà một củ khoai ngay đây.
- Ơ, tôi bảo mua hoa cho tôi mà.
- Mua cho bà củ khoai để bà ngồi ăn, đỡ ngồi léo nhéo sau lưng tôi nữa.

Gió thổi dìu dịu theo những bánh xe quay. Tia nắng vàng chảy tràn những con phố thân thuộc. Bà dựa vào lưng ông, tận hưởng cảm giác bình yên thư thái. Những kỷ niệm xưa ùa
về trong tâm trí, mờ ảo nhưng vẫn thật lung linh ấm áp. Những lần đưa đón, hẹn hò, giận dỗi... Ông im lặng, có lẽ ông cũng đang nhớ lại thuở đẹp đẽ xưa kia.



Hai ông bà ra chợ hoa, xong cũng chả mua gì. Ông thì không có hứng thú với hoa hoét, bà thì xem xem ngắm ngắm xong rồi cũng chả chọn hoa nào. Chợt ông bật cười:
- Cứ y như cách đây bốn chục năm ý nhỉ. Bà vẫn là cái đồ kiết xu như trước.
- Còn ông gạch ngói bốn mươi năm vẫn chẳng mòn.
Bà cười thật lớn. Nhưng thật sự bà đang cảm thấy rất mệt. Gần đây bà thường xuyên bị lả người và gầy đi rất nhiều. Chiếc lá vàng, chỉ chờ một cơn gió nhẹ để trở về với lòng đất...

Hôm nay là sinh nhật ông vì thế mà bà "giở giời" như vậy. Ở cái tuổi răng đã lung lay cả hàm thế này nói đến chữ “sinh nhật” có vẻ không hợp, và ở tuổi này thì còn ai mà nhớ
đến ngày sinh nữa đâu. Nhưng bà có một linh cảm, có lẽ đây là lần sinh nhật cuối cùng của ông mà còn có bà ở bên...
- Cho ông hôm nay qua nhà mấy ông hàng xóm chơi điện tử đấy.
- Thật á, bà lão hôm nay được ăn củ khoai xong nên tử tế hẳn.
Bà dọn dẹp nhà cửa, nấu nướng những món ăn ông thích nhất. Bà cũng ra hiệu bánh đặt một chiếc bánh sinh nhật nho nhỏ. Cuối tuần, cả nhà đi vắng hết. Thế lại hay, bà muốn dành khoảng thời gian đặc biệt này với riêng mình ông. Đang chuẩn bị nốt nến để thắp bánh thì bà bỗng thấy tối sầm lại. Bà cố đi vào phòng, ra chiếc giường và nằm xuống nghỉ.

- Bà nó ơi, hôm nay tôi đánh thắng to nhé, các lão ấy bị tôi cho ăn hành tơi tả.
Không có tiếng trả lời, cảm chẳng lành, ông chạy ngay vào phòng của hai người và thấy bà đang nằm đó. Trông bà rất yếu.
- Bà nó ơi, bà sao thế?
- Ông... tôi mệt lắm... Ông ra chỗ bếp mang bánh sinh nhật và nến vào đây.
Lúc này ông mới nhớ ra hôm nay là sinh nhật mình. Ông cảm thấy điều gì đó không ổn, nhưng ông không hỏi nữa và ra bếp lấy bánh vào.
- Giờ tôi mới nhớ ra hôm nay là sinh nhật tôi đấy. Bà cầu kỳ thế này. Bà nó ơi, bà nó thấy mệt lắm à, để tôi gọi bác sỹ đến xem nhé.
Bà mỉm cười.
- Ông ơi... Tôi thấy mình đã đến lúc lên thiên đường rồi.
- Bà nói gì thế, đừng nói nữa! Chỉ vớ vẩn. Ông thấy sợ hãi khi nghe bà nói thế
- Ông để tôi nói... Tôi làm những món ông thích nhất... và có cả bánh gateau nữa...
Sinh nhật của ông lần cuối cùng mà tôi có thể ở bên... Tôi cảm thấy thật hạnh phúc khi có ông bầu bạn từng ấy năm...... Ông ở lại mạnh khỏe và chăm lo cho con cháu nhé...
Nước mắt lăn dài. Ông biết là ngày này sẽ đến nhưng ông vẫn cảm thấy không trụ vững nổi khi đối mặt với giây phút đó. Ông cầm tay bà, run rẩy, và ông nói trong nước mắt.
- Bà lão ơi, làm sao tôi có thể ở lại mà không có bà...
- Tôi muốn... nghe... điều ước... trong sinh nhật... của ông...Ông nghẹn ngào và tưởng chừng trái tim mình cũng đang rời khỏi cơ thể để đi theo người vợ thân thương.
- Gặp bà và chung sống với bà là mọi điều ước của tôi đã thành hiện thực rồi. Nếu có ước tôi chỉ ước được gặp bà sớm hơn, bà lão ạ.

Bà nở nụ cười cuối cùng và nhắm mắt...
Bà đã có một thiên đường ở trần thế này. Giờ chỉ là đi đến một thiên đường khác, và chờ ông ở đó...




mercredi 10 octobre 2012

Hồi ký của Bà Hillary Clinton

Bà Hillary Clinton ( 2009)

Hồi ký của Bà Hillary Clinton (kỳ 2)
(Hillary Rodham Clinton - Living History)

Trở lại những ngày đầu
Khi gặp Bill Clinton, cô Hillary Diane Rodham thuộc trong số 27 nữ sinh viên của tổng cộng 235 sinh viên của Đại học luật Yale. Thời điểm đó Bill Clinton là một trong những ngôi sao của trường (Lời người dịch - LND).
Thật không thể không để ý tới Bill Clinton vào mùa thu 1970. Khi đến Yale, anh ấy trông như một người Viking Bắc Âu rất “ngầu” hơn là một sinh viên từng nhận học bổng Rhodes trở về Mỹ sau hai năm tại Oxford. Cao và đẹp trai với bộ râu nâu đỏ và mái tóc quăn bờm, anh ấy cũng toát lên sức sống từ vẻ trầm tư. Khi lần đầu tiên gặp trong sảnh sinh viên, tôi thấy anh ấy nói chuyện trước một nhóm sinh viên bu quanh lắng nghe có vẻ thích thú. Lúc đi ngang qua, tôi nghe anh ấy nói: “…và không chỉ bấy nhiêu đó thôi, chúng tôi còn trồng được những quả dưa hấu to nhất thế giới”. Tôi hỏi người bạn: “Ai vậy?”. “Ồ, đó là Bill Clinton, anh bạn trả lời - Cậu ấy là dân Arkansas và tất cả cậu ấy nói tới trước tới giờ chỉ gồm bấy nhiêu đó thôi ”!
Chúng tôi không thực sự nói chuyện với nhau cho đến ngày cuối cùng của khóa học vào mùa xuân 1971. Cùng tình cờ ra khỏi lớp về nhân quyền và chính trị học của giáo sư Thomas Emerson, Bill hỏi tôi đi đâu. Khi nghe tôi nói đến phòng đào tạo để ghi danh khoá học tới, anh ấy cho biết mình cũng đến đó. Khi cùng đi, anh ấy khen chiếc váy hoa dài của tôi. Lúc nghe nói đến chiếc váy do mẹ may, anh ấy bắt đầu hỏi lấn sang chuyện gia đình và nhà cửa của tôi.
Chúng tôi cùng xếp hàng cho tới khi cả hai cùng tới bàn ghi danh. Cô nhân viên ngẩng đầu hỏi: “Ô hay, Bill, làm gì ở đây vậy? Anh đăng ký rồi mà!”. Tôi bật cười khi nghe anh ấy thú thật rằng anh chỉ kiếm cớ theo tôi. Quãng đường dài mà chúng tôi đi cùng nhau sau đó đánh dấu buổi hò hẹn đầu tiên. Cả hai chúng tôi đều muốn xem cuộc triển lãm Mark Rothko (học sĩ phái trừu tượng người Mỹ gốc Latvia , 1903 – 1970) tại phòng nghệ thuật Yale. Tuy nhiên, do có tranh chấp về lao động, vài toà nhà trong khuôn viên trường học đã phải đóng cửa, trong đó có viện bảo tàng.
Khi tôi và Bill đi ngang, anh ấy nảy ra ý nghĩ rằng chúng tôi có thể lọt vào bên trong nếu đề nghị nhân viên bào tàng cho chúng tôi vào nhặt rác trong sân. Nhìn anh ấy nài nỉ tìm cách cho chúng tôi vào, lần đầu tiên tôi nhận ra khả năng thuyết phục trong hành động của anh ấy. Cuối cùng cả hai chúng tôi cũng được tham quan viện bảo tàng. Chúng tôi đi hết phòng này tới phòng khác, nói về Rothko và hội hoạ của thế kỷ 20. Tôi phải thú nhận rằng tôi rất ngạc nhiên trước những vấn đề anh ấy quan tâmcũng như kiến thức của anh ấy về những chủ đề mà thoạt tiên có vẻ không hợp với người “chàng Viking” có gốc gác Arkansas.
Chúng tôi kết thúc công việc nhặt rác trong sân của viện bảo tàng. Tôi đến ngồi trên chiếc dùi khổng lồ của bức tượng Draped seated woman của Henry Moore và chúng tôi nói chuyện tới sẩm tối. Tôi bắt đầu nhận thấy anh chàng Arkansas này phức tạp hơn ấn tượng ban đầu. Đến nay, anh ấy vẫn có thể khiến tôi ngạc nhiên với những kết nối mà anh ấy đan dệt giữa ý tưởng và từ ngữ cũng như cách anh ấy trình bày vấn đề nhẹ nhàng. Tôi vẫn yêu cách anh ấy tư duy và cách anh ấy thể hiện ở ngoại hình. Một trong những điều đầu tiên tôi chú ý ở Bill là bàn tay. Cổ tay nhỏ và ngón tay thon trông như bày tay nhạc sĩ dương cầm hay bác sĩ phẫu thuật. Khi lần đầu tiên gặp nhau thời sinh viên, tôi rất thích ngồi ngắm anh ấy lật sách. Bây giờ bàn tay đó đã có những dấu hiệu của năm tháng, sau hàng ngàn cái bắt tay, những cú quật bóng golf và hàng dặm chữ ký. Đôi tay, như chủ nhân của nó, bắt đầu nhăn nheo nhưng vẫn đầy sức sống, quyến rũ và tình cảm.
Mùa hè năm đó, Bill Clinton theo Hillary đến California, nơi bà làm thư ký cho một công ty luật ở Oakland (LND).
Cuối hè, chúng tôi trở về New York và thuê gian trệt căn nhà số 21 đại lộ Edgewood, với giá 75 USD/tháng. Trong gian nhà có phòng khách, lò sưởi, phòng ngủ nhỏ., phòng thứ ba dùng làm phòng đọc và phóng ăn , phòng tắm nhỏ và cái bếp “thời tiền sử”. Sàn nhà không phẳng và đĩa có thể rơi ra khỏi bàn ăn nếu chúng tôi không chêm thêm chân bàn. Tường đầy khe nứt đến mức chúng tôi phải nhét giấy nêm kín để tránh gió lạnh. Dù vậy, tôi yêu căn nhà đầu tiên của chúng tôi. Sau Giáng sinh, Bill đánh xe từ Hot Springs lên Parl Ridge (bang Illinois ) đến thăm gia đình tôi. Bố mẹ tôi đã gặp anh ấy mùa hè trước nhưng tôi vẫn sợ vì bố tôi có tật chỉ trích thẳng thừng các bạn trai tôi. Tôi có thể hình dung bố sẽ nói gì khi thấy một gã theo chính kiến dân chủ với khuôn mặt có hai bát tóc dài như Elvis Presley. Mẹ tôi lại thích Billl, nhất là cái khoản anh ấy hăm hở phụ mẹ rửa bát. Tuy nhiên, điều khiến mẹ tôi bị Bill thực sự chinh phục là sự tranh luận của anh ấy về về quyển sách triết mà mẹ đọc từ hồi đại học. Với bố tôi, thoạt đầu tình hình diễn biến có vẻ chậm nhưng sau đó không khí được làm nóng khi hai người cùng đánh bài hoặc xem bóng đá trên truyền hình. Đám bạn tôi cũng thích anh ấy. Sau khi tôi giới thiệu Bill với Betsy Johnson, mẹ cô ấy – bà Roslyn – đã níu tôi vào góc phòng, nói: “Bác không cần quan tâm cháu làm gì nhưng đừng để gã này vuột mất. Hắn là tên duy nhất mà bác thấy có thể làm cho cháu cười”.
Sau khi học xong trường luật vào mùa xuân năm 1973, Bill đưa tôi đi dạo trong chuyến đi châu Âu lần đầu tiên của tôi (…). Đến London, Bill đã chứng tỏ mình là một hướng dẫn viên tuyệt vời. Chúng tôi trải qua hàng giờ tham quan tu viện Westminster, Phòng triển lãm nghệ thuật Tate và trụ sở Quốc hội Anh. Chúng tôi lang thang từ Salisbury đến Lilconn, đến Durham rồi York, dừng lại một chút để ngắm tàn tích một tu viện làm cho bị hoang phế bới đạo quân Cromwell năm nào hay vẩn vơ đi qua các ngôi vườn của một biệt thự quê khổng lồ. Rồi, khi hoàng hôn buông xuống vùng hồ tuyệt đẹp District of England, khi chúng tôi ngôi trên bờ hồ Ennerdale, Bill hỏi cưới tôi…
Tôi rất yêu anh ấy nhưng tâm trạng ngổn ngang những lo nghĩ về tương lai và cuộc sống; vì vậy, tôi đã trả lời: “Không, không phải lúc này”. Ý tôi muốn nói: “Cho em thêm thời gian”. Mẹ tôi đã chịu nhiều đau khổ bởi cuộc hôn nhân đổ vỡ dẫn đến ly dị của ông bà ngoại tôi và thời niên thiếu cô đơn đầy buồn tủi của mẹ đã in đậm trong tim tôi. Tôi biết rằng khi quyết định kết hôn, cuộc hôn nhân của tôi phải là cuộc sống gia đình ăn đời ở kiếp. Nhìn lại quãng thời gian đó và nhìn lại chính mình, tôi nhận ra rằng tôi đã hoảng sợ thế nào về tội lỗi nói chung và về tình yêu mãnh liệt của Bill dành cho tôi nói riêng. Với tôi, anh ấy là hiện thân của sức mạnh thiên nhiên và tôi nghĩ rằng liệu mình có thể chịu nổi nỗi khó khăn sẽ kinh qua khi đối mặt những thay đổi từng thời kỳ trong cái sức mạnh thiên nhiên đó của Bill hay không. Bill Clinton sẽ là người vô giá trị nếu anh ấy không bền bỉ. Anh ấy đã lập mục tiêu và tôi là một trong những mục tiêu đó. Anh ấy cầu hôn tôi lần nữa, lần nữa và tôi luôn từ chối. Cuối cùng, anh ấy nói: “Thôi được, anh sẽ không hỏi cưới em thêm lần nào nữa và nếu em quyết định lập gia đình với anh thì em phải nói ra (…).
Sau đó Bill tốt nghiệp, trở về Arkansas dạy luật; Hillary đến Washington làm việc cho Uỷ ban tư pháp Hạ viên, lúc đó thụ lý cuộc điều tra Richard Nixon trong vụ Watergate (LND).

Ngày 9/8/1974, Nixon từ chức tổng thống và tôi bất ngờ thất nghiệp (…). Tôi quyết định nghe theo con tim hơn là cái đầu. Tôi chuẩn bị hành lý tới Arkansas . (Hillary nhận lời mời dạy khoa luật Đại học Arkansas, LND). “Bồ có mất trí không vậy? - bạn tôi, Sara Ehrman, hỏi sau khi nghe tôi thông báo - Tại sao bồ lại quẳng tương lai đi?”. Đôi lúc tôi phải lắng nghe một cách khó khăn cảm giác của mình để quyết định điều gì nên làm. Khi đó bạn phải quyết định một mình, cho dù bạn bè và người thân – chưa kể công chúng và báo chí - sẽ tra vấn sự lựa chọn và hoài nghi động cơ của bạn.
Tôi đã yêu Bill trong trường luật và tôi muốn ở cùng anh ấy. Tôi biết mình sẽ hạnh phúc hơn khi có Bill ở bên cạnh và chỉ cần vậy, tôi luôn tin rằng mình có thể sống mãn nguyện ở bất kỳ đâu. Do đó, tôi đánh xe tới một nơi mà tôi chưa từng sống, không có bạn bè và cả gia đình. Tuy nhiên, trái tim tôi mách rằng tôi đã đi đúng hướng (…). Vào cuối niên khóa, tôi trở lại Chicago và vùng duyên hải miền Đông để thăm bạn bè và gặp một số người từng đề nghị làm việc với tôi. Tôi vẫn không chắc mình giải quyết thế nào cho số phận.
Trên đường ra phi trường, Bill và tôi đi ngang qua một căn nhà gạch đỏ gần đại học, đang treo bảng bán. Tôi bất giác chợt nhận ra rằng đó là căn nhà nhỏ rất xinh. Sau vài tuần đi xa và suy nghĩ, tôi quyết định trở lại cuộc sống tại Arkansas và trở lại với Bill. Khi đến đón tôi, Bill hỏi: “Em còn nhớ căn nhà em thích không? Anh mua rồi. Bây giờ em hẳn phải kết hôn với anh vì anh làm sao sống nổi một mình trong căn nhà đó!”. Bill thích thú đánh xe đến và đưa tôi vào bên trong. Căn nhà có mái hiên, phòng khách trần cao, lò sưởi, một cửa sổ lồi rất to, phòng ngủ, phòng tắm và một căn bếp thoạt trông đã biết cần nhiều thời giờ để dọn dẹp. Với lời cầu hôn lần này của Bill, tôi nói: “Vâng!”.
Sau tất cả những gì xảy ra từ đó tới nay, người ta hay hỏi tôi rằng tại sao tôi và Bill gắn bó với nhau. Đó không phải là câu hỏi tôi thích nhưng xét ở góc độ bản chất công chúng với thói quen dòm ngó cuộc sống chúng tôi, nó lại là câu hỏi mà được hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Tôi biết nói gì bây giờ, để giải thích về một tình yêu bền bỉ sau bao nhiêu năm tháng đã ngày càng nảy nở qua những chia sẻ trong chăm sóc và dạy dỗ đứa con gái, qua việc chu tất mồ yên mả đẹp cho các cụ sinh thành và qua việc gìn giữ tình bằng hữu với các gia đình bè bạn, một tình bạn suốt đời, một niềm tin chung nhất và một lời hứa bất dịch cho đất nước chúng tôi? Tất cả những gì tôi có thể khẳng định là sẽ không ai hiểu rõ tâm can cũng như không ai có thể làm cho tôi cười, trừ Bill. Thậm chí sau ngần ấy năm, anh ấy vẫn là người mạnh mẽ, đầy sinh lực và thú vị nhất mà tôi từng gặp. Bill Clinton và tôi đã bắt đầu từ một cuộc trò chuyện vào mùa xuân 1971 và hơn 30 năm sau, chúng tôi vẫn tiếp tục trò chuyện với nhau.
Vượt qua cơn bão Monica Lewinsky
Năm 1998 - thời điểm sự kiện Lewinsky bùng nổ, nước Mỹ có hơn 4,5 triệu người lập gia đình và cũng có 1,7 triệu người ly dị hoặc hôn nhân tan vỡ. Tính đến ngày 11/10/2003, cặp vợ chồng Hillary - Bill Clinton sẽ tròn 28 năm chung sống.
Họ vẫn không có tên trong danh sách trung bình 1,5 triệu người Mỹ ly dị mỗi năm: Cơn bão Monica Lewinsky đã đi qua... (Lời người dịch - LND)
Tôi biết rằng tôi và Bill vẫn phải thực hiện các công việc thường nhật. Vài tùy viên ở Cánh Tây đã rì rầm qua điện thoại di động về vụ Monica Lewinsky và họ thậm chí còn xì xào đằng sau những cánh cửa đóng kín. Vấn đề quan trọng bây giờ là trấn an ban trị sự Nhà Trắng rằng chúng tôi sẽ giải quyết được cuộc khủng hoảng và sẵn sàng phản công như chúng tôi đã từng làm trong quá khứ.
Điều tốt nhất tôi có thể làm cho chính mình và cho những người quanh tôi là tiến thẳng lên phía trước. Đáng lý tôi nên dành nhiều thời gian hơn cho các cuộc tiếp xúc đầu tiên với công chúng (...). Theo David Kendall (luật sư riêng của Bill Clinton, LND), lần này gã ác tâm (chưởng lý Kenneth Starr, LND) có thể dùng trò cũ bằng cách đòi trát toà cho thẩm cung tất cả nhân viên, bạn bè, người thân gia đình biết thông tin liên quan đến vụ Lewinsky. David Kendall nói thêm rằng ngày 16/1, Bộ trưởng Tư pháp (Janet) Reno đã gửi thư đến hội đồng thẩm phán đề nghị cho Starr mở rộng phạm vi điều tra. Sau này, chúng tôi mới biết đề nghị của Reno đã dựa vào thông tin không đầy đủ và sai lệch do chính gã ác tâm cung cấp.
Bill đã bị bịt mắt và sự bất công trong vụ việc càng khiến tôi quyết tâm đứng cạnh anh ấy thực hiện cuộc chiến chống lại những lời buộc tội. Tôi biết thiên hạ đang tự hỏi: "Làm sao bà ấy (Hillary) có thể dậy nổi vào buổi sáng, huống hồ chường mặt ngoài công chúng? Ngay cả khi không tin những lời cáo buộc, thì nội việc nghe thiên hạ bàn tán thôi cũng đã khiến bà ấy đủ suy sụp rồi". Như tôi, Bill cũng không hũy các cuộc hẹn trước. Anh ấy chuẩn bị dự cuộc phỏng vấn lên lịch trước với Đài phát thanh quốc gia (...).
Chiến dịch pháp lý của Kenneth Starr cuối cùng đã thành công và Bill Clinton phải thú nhận toàn bộ sự việc trước công chúng Mỹ... (LND)
David Kendall thông báo với giới truyền hình rằng Bill sẽ phát biểu trước công chúng lúc 10 giờ tối. Vài cố vấn tin cậy nhất của Bill, luật sư Nhà Trắng Chuck Ruff cùng Paul Begala, Mickey Kantor, James Carville, Rahm Emanuel và vợ chồng Harry - Linda Thomason, đã tập trung tại khách sạn Solarium để giúp Bill soạn diễn văn. David Kendall cũng có mặt và cả Chelsea - con bé không biết chuyện gì đang xảy ra. Thoạt đầu, tôi tránh mặt. Tôi không muốn giúp Bill soạn diễn văn chỉ bởi điều đó vi phạm nguyên tắc về phép lịch sự và sự tôn trọng đời sống riêng tư mà tôi đặt ra lâu nay. Tuy nhiên, cuối cùng, vì thói quen, có thể vì tò mò hoặc cũng có thể vì tình yêu dành cho Bill, tôi đã lên gác. Khi tôi vào phòng, khoảng 8 giờ tối, ai đó đã nhanh tay vặn tắt âm lượng truyền hình. Họ biết tôi không thể chịu nổi khi nghe những gì truyền hình tường thuật về vụ bê bối Lewinsky. Lúc tôi hỏi đến bài diễn văn, Bill còn chưa quyết định phải nói như thế nào. Anh ấy muốn công chúng hiểu rằng anh ấy thành khẩn hối hận việc lừa dối gia đình, bạn bè và đất nước, rằng mình đã phạm một sai lầm kinh khủng (...).
Chỉ Bill, tôi và nhóm chính khách đối ngoại Nhà Trắng biết trước rằng vài giờ sau bài diễn văn thú nhận tội lỗi cá nhân tổng thống, Mỹ sẽ nã tên lửa vào trại huấn luyện khủng bố của Osama bin Laden ở Afghanistan. Bill bị buộc tội ra lệnh thực hiện vụ tấn công để lái dư luận khỏi sự chú ý vào vấn đề khó khăn của mình (...). Anh ấy trở về nhà, ngập sâu trong im lặng.
Quả là như tra tấn khi Bill và tôi cùng bị giam vào một nơi, nhưng cũng thật khó lòng mà thoát ra. Báo chí đã bao vây hòn đảo và chỉ chực đổ bộ xuống đó ngay khi chúng tôi xuất hiện trước công chúng. Thoạt đầu, chúng tôi không muốn xuất hiện. Nhưng Walter và chị Betsy, vợ anh, đã có thái độ khuây khỏa khi nói về những kẻ đang đòi cái đầu của Bill và chỉ trích tôi vì đã không tha thứ cho anh ấy. "Thật không thể tin nổi", Walter nói. "Tại sao bọn người ấy không hiểu cuộc đời nhỉ? Chị biết đấy, tôi đã sống đủ lâu để biết rằng những cuộc hôn nhân tốt đẹp đều kinh qua sóng gió. Chúng ta chẳng ai hoàn hảo cả. Phải dong buồm mà tiến lên chứ!".
Cuối tháng 8, không khí bắt đầu bớt căng thẳng. Dù còn đau đớn và thất vọng về Bill, nhưng những giây phút cô đơn đã khiến tôi nghiệm ra rằng tôi vẫn yêu anh. Điều mà tôi vẫn chưa biết là cuộc hôn nhân của chung tôi có thể hoặc cần phải chấm dứt hay không. Dự đoán từng ngày bao giờ cũng dễ hơn đoán định tương lai. Tôi chưa quyết định có nên chiến đấu cho chồng tôi và cuộc hôn nhân của tôi hay không, nhưng tôi đã quyết phải chiến đấu cho tổng thống của tôi.
Cảm xúc cá nhân và niềm tin chính trị của tôi bị va chạm dữ dội. Ở cương vị người vợ, tôi chỉ muốn vặn cổ Bill. Tuy nhiên, anh ấy cũng là tổng thống của tôi và tôi cho rằng dù thế nào, Bill cũng đang lãnh đạo nước Mỹ theo cách mà tôi phải tiếp tục hỗ trợ. Dù anh ấy gây ra điều gì, tôi không nghĩ có người nào khác trên đời nà lại có thể chịu nhiều đối xử thô bạo nhẫn tâm so với những gì Bill nhận lãnh và đối mặt. Sự riêng tư của anh ấy, sự riêng tư của tôi, sự riêng tư của Monica Lewinsky và sự riêng tư của gia đình chúng tôi đã bị xâm phạm thô bạo.
Tôi tin rằng những gì chồng tôi làm là hoàn toàn sai về mặt đạo đức. Tuy nhiên, tôi cũng tin rằng sai lầm của anh ấy không phải là sự phản bội Tổ quốc. Nếu những kẻ như Starr và phe cánh của y phớt lờ Hiến pháp và lợi dụng quyền hạn cho mục tiêu xấu xa và có thể lật đổ được tổng thống, thì như vậy quả thật đáng buồn cho đất nước chúng tôi. Chức tổng thống của Bill, chức tổng thống hợp hiến cũng như tính chính trực của Hiến pháp bắt đầu nằm ở vị thế chông chênh trên bàn cân.
Những gì tôi làm và nói trong những ngày tháng tới sẽ ảnh hưởng đến không chỉ tương lai của tôi và Bill mà cả tương lai của nước Mỹ. Cuộc hôn nhân của chúng tôi cũng ở thế chông chênh và tôi không biết chắc nó có thể (hoặc cần phải) lật nghiêng theo hướng nào (...).
Ngày 9/9, các trợ lý của Starr đưa hai chiếc xe tải đến trước các bậc thang của Capitol và chuyển giao những bản sao của "báo cáo Starr" gồm 110.000 từ, kèm với 36 thùng hồ sơ hỗ trợ. Tôi chưa đọc báo cáo của Starr nhưng nghe đâu, trong bản báo cáo 445 trang này, từ "sex" (hoặc biến thể nào đó của nó) được nhắc đi nhắc lại đến 581 lần. (...) Việc công bố nó là một khoảnh khắc u ám trong lịch sử nước Mỹ.
Bill phó mặc số phận chính trị của anh ấy cho người dân nước Mỹ. Anh ấy cầu xin sự cảm thông của họ rồi trở lại làm việc cho họ với sự tận tuỵ mà anh ấy đã đem vào nhiệm kỳ của mình kể từ ngày đầu tiên đặt chân đến Nhà Trắng. Và chúng tôi tiếp tục những phiên họp tham vấn thường kỳ, buộc chúng tôi phải nêu và trả lời các câu hỏi khó khăn mà những năm tháng vận động tranh cử không ngừng nghỉ đã cho phép chúng tôi trì hoãn. Giờ đây, tôi muốn cứu lấy cuộc hôn nhân của chúng tôi, nếu có thể được (...).
Bằng sự tha thứ của mình đối với chồng, bà Hillary đã góp phần quan trọng khiến nước Mỹ nhìn lại vị tổng thống của họ với thái độ vị tha hơn. Các cuộc tấn công vào gia đình Clinton bắt đầu gây công phẫn và bà Hillary ra tranh cử thượng nghị sĩ New York. (LND)
Vào ngày bầu cử 7/11, Bill và Chelsea bỏ phiếu cho tôi tại điểm bầu cử địa phương - trường tiểu học Douglas Grafflin ở Chappaqua. Sau bao năm trời thấy tên Bill trên phiếu bầu, tôi thấy lòng rộn ràng và vinh dự khi thấy tên của chính tôi. Kết quả thông báo vào buổi chiều cho thấy tôi chắn chắn thắng cử.
Cuối cùng, ngày được trông đợi nhất đã đến. Do chỉ có thành viên quốc hội và ban trị sự của họ được phép vào thượng viên, không loại trừ cả các tổng thống, nên Bill cùng Chelsea và vài thành viên gia đình tôi buộc phải chứng kiến lễ tuyên thệ nhậm chức thượng nghị sĩ của tôi từ hành lang dành cho khách.
8 năm qua, tôi đã ngồi trên khán đài quan sát Bill, chia sẻ những trăn trở tương lai đất nước trong chính toà nhà này. Ngày 3/1/2001, khi bước ra giữa khán phòng thượng viện và tuyên thệ "nguyện hết lòng ủng hộ và bảo vệ Hiến pháp Hoa Kỳ...", tôi nhìn lên khán đài thấy mẹ, con gái và chồng tôi đang mỉm cười với bà thượng nghị sĩ mới toanh của New York...
Hillary - người con, người mẹ, chính khách
Cựu đệ nhất phu nhân đã viết nhiều về lối suy nghĩ và hành xử của bà trong cuộc sống và công việc. Bà trân trọng gắn chúng với tình yêu vô bờ bến mà những người thân thiết đã dành cho bà và ngược lại.
Theo Hillary, thứ quý nhất mà bà được thụ hưởng từ cha mẹ là niềm tin mà họ ban tặng, từ đó bà tìm được lối đi và sự lựa chọn cho cuộc sống của mình. (Lời người dịch - LND)
Mẹ tôi, Dorothy Howell Rodham, là một người nội trợ. Cuộc sống của bà gói trọn trong việc chăm sóc tôi và hai em trai tôi. Đến hôm nay tôi vẫn còn thán phục vì bà đã vượt qua thời thơ ấu cô đơn để trở thành một người mẹ đầy tình yêu, luôn tỉnh táo và cân bằng, và luôn tìm ra thời gian để trò chuyện cùng chúng tôi. Thời trẻ, từng có lúc bà phải làm người giữ trẻ để đổi lấy nơi cư ngụ và mức lương 3 USD/tuần. Ngày nào bà cũng phải giặt đồ vì bà chỉ có một chiếc sơmi và một chiếc váy. Nhưng kinh nghiệm làm người giữ trẻ trong gia đình đầy tình thương ấy đã dạy cho bà cách chăm sóc gia đình và con cái khi bà trưởng thành.
Vào một mùa hè nọ, mẹ giúp tôi xây dựng một thế giới tưởng tượng cho mình bằng cách xây một ngôi nhà bằng một hộp giấy, lấy những mảnh gương nhỏ làm hồ, lấy những nhánh cây con làm cây cối, rồi nghĩ ra những câu chuyện cổ tích cho búp bê đóng vai. Một lần khác, bà lại khuyến khích giấc mơ đào một đường hầm tới tận Trung Quốc của em trai Tony bằng cách đọc sách về Trung Quốc cho em nghe, để rồi mỗi sáng Tony hì hục đào những đường hầm cạnh nhà và tìm thấy những thứ ngộ nghĩnh mà mẹ đã giấu sẵn dưới đất. Mẹ luôn khuyến khích chúng tôi đọc sách để tìm hiểu về thế giới xung quanh. Hằng tuần, bà đưa tôi đến thư viện trong vùng để tôi có thể lang thang giữa những giá sách thiếu nhi...
Cả cha và mẹ tôi đều luôn có ý thức huấn luyện chúng tôi thành những người cứng rắn để có thể tồn tại được trong bất kỳ hoàn cảnh sống nào, và phải biết đứng lên tự bảo vệ mình. Có lúc mẹ nhận ra tôi ít ra ngoài chơi với bạn bè, rồi đi chơi về thì thường khóc và mách với bà rằng đứa bạn ở nhà bên kia đường luôn xô đẩy và hiếp đáp tôi. Một lần khi thấy tôi bỏ về, bà chặn tôi lại và ra lệnh: "Hãy đi ra ngoài ấy. Nếu Suzy đánh con, con có quyền đánh lại nó. Hãy tự bảo vệ mình. Trong nhà này không có chỗ cho những người hèn yếu". Sau đó bà núp sau rèm cửa nhà bếp nhìn tôi gồng mình lên và quay lại "đấu trường" bên kia đường. Rồi tôi trở về sau vài phút, mặt bừng lên vì chiến thắng: "Giờ thì con có thể chơi với bọn con trai. Còn Suzy vẫn sẽ là bạn con".
Cha mẹ tôi có những quan niệm chính trị khác nhau, luôn tranh luận về những vấn đề chính trị quanh bàn ăn mỗi ngày, nhờ đó tôi hiểu được rằng những quan điểm khác nhau vẫn có thể cùng tồn tại dưới một mái nhà.
Cho đến năm 12 tuổi, tôi đã có thể phát biểu những quan điểm riêng của mình. Những niềm tin của tôi ngày nay đều là kết quả tổng hợp và lựa chọn những quan điểm về giá trị cuộc sống của cha mẹ tôi trước đây.
Cô con gái Chelsea được bà Hillary gọi là "điều kỳ diệu của đời tôi". Cách bà Hillary dạy dỗ con gái chính là cách bà tự hoàn thiện mình. (LND)
Sự ra đời của Chelsea là điều kỳ diệu và hứng khởi nhất trong cuộc đời tôi. Ngay sau khi Chelsea chào đời năm 1980, Bill ôm Chelsea trong tay và đi vòng quanh bệnh viện để "tạo nên mối dây giao cảm cha con". Bill hát cho con nghe, ru con ngủ, khoe con với mọi người và nói rằng anh ấy đã 'phát minh' ra tình phụ tử. Với tôi, Chelsea là điều bí ẩn lớn nhất - có những lúc Chelsea khóc mà tôi không tài nào dỗ nổi. Tôi thường nói với bé Chelsea lúc đó: "Chelsea, đây là điều hoàn toàn mới đối với cả hai mẹ con. Mẹ chưa bao giờ làm mẹ, con cũng chưa bao giờ làm em bé. Chúng ta phải giúp nhau để làm được điều đó tốt nhất con nhé". (...)
Đến khoảng năm 1986, Chelsea bắt đầu hiểu được mơ hồ là có người cha nổi tiếng là thế nào. Trước đó, năm Chelsea 4 tuổi, có người hỏi Bill làm nghề gì, bé nói: "Cha con nói chuyện điện thoại, uống cà phê và giảng giải". Nhưng đến năm 1986 thì chúng tôi phi chuẩn bị tinh thần để cho bé hiểu những tiểu tiết tiêu cực trong chính trị, cụ thể là việc những lực lượng đối lập có thể nói này nói kia về cha mẹ của bé. Chúng tôi ngồi quanh bàn ăn, giả vờ như đang trong một buổi tranh luận chính trị trong đó tôi đóng vai chính khách đối lập chỉ trích Bill không làm tốt vai trò thống đốc. Bé Chelsea tròn xoe mắt, không tin nổi là người ta có thể nói về cha của bé những điều tồi tệ như thế. (...)
Cho đến thời điểm đó, làm con tổng thống luôn là điều khó khăn. Bill và tôi vẫn cố sắp xếp thời gian để ăn tối cùng với con và nói về những chuyện thuần tuý gia đình, như kế hoạch cuối tuần hoặc là những chuyến đi nghỉ. Tôi cũng cố gắng loanh quanh ở khu vực phòng Chelsea vào những lúc cháu đi học ballet về vì biết đâu Chelsea có điều gì cần trao đổi. Ít nhất thì tôi cũng muốn được thấy bóng dáng con tôi trước khi cháu bước vào phòng riêng...
Ngày kỷ niệm sinh nhật cháu, chúng tôi bàn về những trường đại học mà Chelsea có thể nộp đơn. Suốt buổi, Chelsea chỉ ngồi im lặng, nhưng cuối cùng lại đột ngột lên tiếng: "Ba mẹ biết không, con nghĩ là con muốn đến xem trường đại học Stanford". Tôi quên phắt việc kiềm chế phản ứng tâm lý, nói ngay: "Cái gì cơ, Stanford quá xa nhà. con không thể đi xa như thế - cách đây đến những ba múi giờ. Cha mẹ sẽ không có lúc nào gặp con cả". Bill xiết chặt tay tôi và nói với Chelsea: "Con cưng, con có thể đi bất cứ nơi đâu con muốn". Buổi trò chuyện kéo tôi về thực tế: đằng nào thì hơn một năm nữa, con gái sẽ rời xa chúng tôi. Có lẽ con tôi đã sẵn sàng, nhưng tôi thì chưa. (...)
Cuối cùng Chelsea cũng được nhận vào S. Tôi cố gắng không thể hiện tâm trạng âu sầu vì cảm giác sắp mất con, vì sợ rằng tôi sẽ làm hỏng mất khoảnh khắc quan trọng này trong đời con mình. Tôi tự an ủi mình bằng cách dành thật nhiều thời gian cho Chelsea. Chúng tôi chơi trò chơi để giải toả tâm lý này, và rồi tôi cũng vượt qua được giai đoạn khó khăn đó...
... Tôi nhận ra rằng Bill và tôi phải nói chuyện với Chelsea về điều này (vụ Monica Lewinsky). Khi tôi nói Bill phải tự làm điều đó, mắt anh nhoà lệ. Bill đã phản bội niềm tin trong cuộc hôn nhân của chúng tôi, và cả hai chúng tôi biết điều đó có thể là một đổ vỡ không thể hàn gắn được. Mà bây giờ chúng tôi lại còn phải nói với Chelsea rằng Bill cũng đã lừa dối cháu nữa. Đó là những giây phút khủng khiếp đối với tất cả chúng tôi...
Một giai đoạn gay go khác của Hillary là khi bà phân vân có nên ra tranh cử hay không (LND).
Một trong những niềm an ủi trong lúc tôi cân nhắc về quyết định ra tranh cử là Bill - chúng tôi bắt đầu trò chuyện lại về những điều khác ngoài tình trạng hôn nhân của chúng tôi. Nhờ thế mà cả hai dần thoải mái trở lại. Bill rất cố gắng tỏ ra có ích, còn tôi thì tôn trọng ý kiến của anh ấy. Bill cẩn thận trao đổi từng chi tiết những bận tâm của tôi và đánh giá từng khó khăn mà tôi có thể gặp phải. Chúng tôi đổi vị trí cho nhau, giờ thì Bill đóng vai trò mà trước đây tôi vẫn hay làm đối với chồng mình. Dù sao tôi vẫn thấy mình băn khoăn mãi - khi thì tôi nghĩ tranh cử là điều tuyệt vời, khi thì tôi thấy đó là điều điên rồ. (...)
Hai khó khăn nhất trong đời mà tôi phải đương đầu cho đến nay là giữ cuộc hôn nhân của Bill và tôi, và ra tranh cử ghế thượng viện bang New York. Đến giờ, tôi biết tôi muốn cuộc hôn nhân của tôi được bền vững vì tôi yêu Bill và trân trọng những tháng năm chúng tôi sống cùng nhau. Tôi biết tôi không thể nuôi dưỡng Chelsea một mình tốt bằng khi tôi và Bill cùng nhau nuôi dưỡng cháu. Tôi biết mình có thể sống một mình và sống tốt, nhưng tôi vẫn mong tôi và Bill có thể cùng nhau đi đến cuối con đường. Chúng tôi đã hứa cùng nhau xây dựng lại cuộc hôn nhân này với niềm tin, tình yêu và quá khứ san sẻ cùng nhau. Khi tôi nhận rõ ra điều này, tôi thấy mình sẵn sàng hơn trong việc bắt đầu bước vào cuộc tranh cử. (...)
Mục tiêu của tôi là đi đến 62 hạt trong toàn tiểu bang. Tôi dừng lại các quán nhỏ bên đường như cách mà Bill và tôi từng làm trước đây, dù chỉ có vài người trong quán tôi cũng dừng để bước vào và trò chuyện với họ về những mối bận tâm của mọi người. Với tôi, đó là cách tốt nhất để tiếp cận những vấn đề của người dân. Nhưng tôi không cảm thấy mệt mà ngược lại, cuộc vận động tiếp thêm năng lượng cho tôi, tôi học được cách lắng nghe người khác, xem xét những lựa chọn khác nhau và quyết định dựa trên bản năng của mình (...)
Ngày cuối cùng ở Nhà Trắng
Tôi cảm ơn người nhân viên phụ trách trang hoàng hoa cho từng căn phòng trong Nhà Trắng, cảm ơn những người đã làm bếp cho chúng tôi, những người đã cẩn thận chăm sóc nơi ở này. Tôi ôm những người xung quanh để tạm biệt, và rồi biến những giây phút này thành vũ điệu chia tay. Chúng tôi xoay tròn trong gian phòng lát đá. Chồng tôi chen vào, ôm tôi trong vòng tay và chúng tôi nhảy điệu valse suốt chiều dài hành lang rộng. Lúc đó, tôi nói lời chia tay với ngôi nhà mà tôi đã sống 8 năm trong dòng lịch sử.

Hiền sưu tầm
Nguồn: Tuổi trẻ dịch

mardi 9 octobre 2012

Bức Tượng Người Mù

Lẽ sống 08 Tháng Mười

Bức Tượng Người Mù
Cũng như tại bất cứ một trung tâm hành hương nào, tại Lộ Đức, du khách và khách hành hương có thể đọc được không biết bao nhiêu lời cảm tạ dâng lên Đức Mẹ cũng như không biết bao nhiêu kỷ vật khác mà những người thọ ơn muốn cho thiết lập để ghi nhớ ơn Mẹ... Trong muôn nghìn kỷ vật tạ ơn ấy, người ta thấy có một bức tượng diễn tả một người mù vừa được chữa lành. Dĩ nhiên, được sáng mắt là một trong những phép lạ đầu tiên được ghi trong sách những phép lạ tại Lộ Đức. Nhưng bức tượng người mù sáng mắt ở đây lại tượng trưng cho một biến cố khác, một phép lạ theo đúng nghĩa bởi vì đó là phép lạ của một người tìm lại được ánh sáng Đức Tin.
Bức tượng này được một người đàn bà quý phái cho dựng lên để ghi nhớ ánh sáng Đức Tin mà bà đã tìm lại được tại Lộ Đức. Tuy là người Công Giáo, nhưng kể từ khi chồng qua đời, người đàn bà không còn một chút tin tưởng gì nơi Chúa Mẹ nữa. Và dĩ nhiên, cũng giống như những người khô đạo khác, người đàn bà chỉ tìm kiếm có mỗi một điều: đó là thú vui trong cuộc sống.
Một mùa hè nọ, trên đường đi đến một trung tâm nghỉ mát nổi tiếng ở phía Nam nước Pháp, người đàn bà phải đi qua Lộ Đức. Thấy đám đông tấp nập tại trung tâm Thánh Mẫu, bà ta tò mò dừng lại xem. Bà không ngờ rằng chính Chúa đang tìm kiếm và đeo đuổi bà. Từ thái độ bàng quang của một người hiếu kỳ, người đàn bà đã tìm lại ánh sáng Đức Tin. Để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ, bà đã cho dựng lên bức tượng của người mù với hàng chữ như sau: "Tìm lại Đức Tin là một phép lạ vĩ đại hơn là được sáng mắt".
Trên vạn nẻo đường của chúng ta, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Thật ra, không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đeo đuổi kiếm tìm con người.
Trong mọi biến cố của cuộc sống, lúc nào Thiên Chúa cũng có mặt. Trong an vui hạnh phúc, hay trong thất bại khổ đau, Ngài luôn ở bên cạnh ta để mời gọi ta tin tưởng ở Tình Yêu của Ngài. Ngay cả khi con người muốn khước từ và gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đeo đuổi con người.
Thánh Kinh đã ví Thiên Chúa như một người tình chung thủy, lúc nào cũng chờ đợi, lúc nào cũng nài nỉ, lúc nào cũg vỗ về, lúc nào cũng tha thứ.
Tin ở một sự hiện diện trung thành như thế của Thiên Chúa, thái độ của chúng ta phải là thức tỉnh, chờ đợi và tin tưởng không ngừng. Trong an vui thịnh đạt, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa. Trong thất bại khổ đau, chúng ta cũng hãy tin tưởng phó thác. Và ngay cả những lúc vấp ngã vì yếu đuối, chúng ta cũng hãy tin tưởng ở lòng tha thứ vô bờ của Ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ mặc con người
09 Tháng Mười
Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn
Thời Cách Mạng Pháp 1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những gì mà họ gọi là tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn từ bỏ tôn giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời như sau: "Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu nguyện".
Tự đáy tâm hồn mình, con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu nguyện, dưới hình thức này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể trói buộc tay chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con người, nhưng không ai có thể ngăn cản con người cầu nguyện.
Cầu nguyện là nhựa sống của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh tật, đau đớn hay bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con người với Thiên Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử thách và chết chóc.