mercredi 14 août 2013

Cái duyên Nam Bắc

Cái duyên Nam Bắc

Khi ngồi viết những giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên giường. Nhìn đôi chân dài thườn thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười.
Thì ra vợ cháu cũng thuộc loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi. Năm ngoái gặp lại đám bạn cũ cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn : “Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh bà này chắc ông phải kiễng chân lên mời xứng!“, làm vợ cháu ngượng chín người.

Nghe nói bên Việt Nam bây giờ người ta tung hô tán tụng “những cô gái chân dài“ dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng cáo rùm beng, làm các cô cứ tưởng mình là cái rốn của vũ trụ không bằng.

Có điều lạ là hầu như các mợ toàn là gốc miền Bắc, nói năng giọng Bắc, nhìn đời với con mắt người Bắc và cư xử thì cứ “tự nhiên như người Hà Nội“. (Bật mí cho các cụ nhé: bây giờ thì đa số các mợ Hà Nội chính gốc đã thi nhau làm “con chim đa đa“ bay qua xứ khác lấy chồng xa hay đi kiếm cơm hết ráo, còn lại toàn là gốc Hà-Nam-Ninh hay Thanh-Nghệ-Tĩnh lên Hà Nội lập nghiệp).

image
Hay là ông Trời sinh ra người càng ở vùng phương Bắc thì da càng trắng, mũi càng cao và chân càng dài, cứ nhìn mấy ông Tây bà Đầm là biết ngay.

Thế nhưng ”bà già chân dài” vợ cháu lại là dân Nam kỳ tuốt luôn tận phương Nam, là thứ Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn. Hoá ra “mũi cao, chân dài“ đâu phải độc quyền của các mợ Bắc Kỳ 75, các mợ nhờ “tàn dư đế quốc“ nên chỉ mới xuất hiện sau này thôi, chứ ngay trong „thời kỳ chiến tranh“ cách đây mấy mươi năm thì “mũi cao, chân dài“ như Nam kỳ vợ cháu đã nhởn nhơ đầy đường. Đúng là một cọng giá “thời kỳ chiến tranh“ vẫn hơn một gánh rau muống “thời kỳ hoà bình đổi mới “!

Bố mẹ cháu sinh cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia đình trong miền Nam, để rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những tính chất của ba miền đã hợp lại tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn“: “như canh chua nấu với...rau muống, giá sống ăn với...bún riêu, nhậu bia với ché mà lại chấm với ...xì dầu". Thế nhưng cái bản chất Bắc kỳ vẫn là cái cốt lõi trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc kỳ muôn thuở...Nhưng ông Trời oái oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời!



image
Hình minh họa

Hồi còn bé, thú thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện cũng dễ hiểu thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ có cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng này có hàm răng đưa hơi xa ra phía trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là “vẩu“, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất tượng hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu (cũng chẳng có bàn nạo dừa) vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“ vào Nam năm 54.

Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn “dựa nhau mà sống“ trong cái lớp học 27 trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng Bắc kỳ con luôn tìm chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ đang ở Canada) leo lên cây vú sữa giữa sân, đọc thơ rang rảng:

"Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ "


Một thằng khác sẵn giọng phụ họa:

"Có cái thằng nhỏ nó đao làm sao
Lỗ đ. nó dính cái cọng rao,
Người ta ai mà kỳ như dzậy ?

Thế là cả bọn đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên: "Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ!”

Cháu tủi thân lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát nghiền !


image
Hình minh họa

Về nhà hỏi mẹ tại sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó trêu con suốt ngày. Mẹ cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn giản:

- Tại vì người ta đánh nhau quá nên gia đình mình phải "ri cư" vào đây con ạ ! Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ !

Nào đâu đã hết, chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu cầm chổi lông gà ra đuổi. Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn. Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu nhuộm đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng nó cứ thế mà gào:

Bắc kỳ ăn cá rô cây
Ăn nhằm cục c. , hàm răng đen thùi


image
Hình minh họa
Trong gia đình, chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một vành không dám trêu chọc một lời ?

Ngày tháng qua mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ "ri cư”, trong đó có gia đình cháu, vẫn sống phây phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này. Những cảnh chọc quê dần dần biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc...Nhưng đứa nào cũng chửi cháu là "thằng Bắc kỳ lắm mồm”. Không "lắm mồm” chứ để chúng mày ăn hiếp ông hả ?

Nghĩ cho cùng, không "lắm mồm” thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ "lắm mồm” được việc, "lắm mồm” nghe vẫn bùi tai, "lắm mồm” dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì mong, "tay chơi” nhưng vẫn "chân tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà..."lắc lư con tàu đi”. Càng lớn lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều bạn, mà bạn lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng nước dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối ớt, có quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn đến nhà ...chị Tình.


image

Miền Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc kỳ đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng cháu, không rườm rà "màu mè ba lá hẹ”, chân thành thật thà, thẳng ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi xả láng sáng về sớm, để rồi vẫn cứ yêu người, yêu đời.

Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám Bắc kỳ "ri cư” chúng cháu mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên "tàu há mồm” đã lợi dụng thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại ăn nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng Sài Gòn Gia Định và các vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi là mấy mợ Bắc kỳ rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong chợ Bến Thành và vùng Chợ Lớn, vì chẳng thèm "kèn cựa” với các chú Ba. Đã bảo rồi mà...: " Bà đã nàm thì nàm thật chứ không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ !”

Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy "dzô tuyến chuyền hình” hay cái "ra dzô” ra thì thấy liền, các "xướng ngôn dziêng” hầu như "chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng "E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe "em người Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại "dziêng dzáng” hay ”phe đảng” ?

image
Bố cháu trái lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm vào cốt lõi xương tủy của ông từ bao đời, nhất quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được vào trường Trưng Vương, toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc, kéo theo các thày cô "ri cư” vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi, phần vì ông cũng có chút thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như Petrus Ký hay Gia Long. "Mình dân Bắc thì phải học trường của người Bắc, chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi !”, bố cháu phán cứ như đinh đóng cột.

Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám học sinh Bắc kỳ, le que vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu ngón tay đã hết đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày hiệu trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương.

Còn bên Petrus Ký thì ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ đi tìm nồi nấy, hay hoặc giả có chính sách của chính quyền thời đó hay không ? Chẳng thành vấn đề, chỉ biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi tên Chu Văn An thành ...Chết Vì Ăn ! Cháu tức máu trả đũa, rằng chúng mày ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ Trưng Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế mèn để các em Bắc kỳ thọc cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy trự Petrus Ký chỉ biết "ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là:

image
"Quê hương tui Bắc kỳ nhào dzô quá trời
Bên bờ sông bên bờ ao...trồng rau muống !”

Hay cũng là: "Quê hương tui cái mùng mà kêu cái màn !....”


Thôi thì cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn éo ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn ngược, mồm há hốc, quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi, cứ một trăm trự Nam kỳ chưa chắc có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ.

Tìm mỏi con mắt mới có một trự "diễm phúc” bế được một mợ mang về nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời còn lại chỉ biết bốn chữ "gọi dạ bảo vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời, mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé ! Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc Ninh "...cầm roi dạy chồng” thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả tông ti họ hàng, suốt đời hưởng "cái thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng nghe...hát. Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại!



image
Đừng nghe ông Phạm Duy hát bài "Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy ! Gặp Nam kỳ thì cái "nho nhỏ” kia sẽ phình to hơn cái vại, mà cái vại có nanh ! Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống quơ được một cọng giá Nam kỳ "đem về dinh” –vụ này nhiều lắm- thì cứ như "rồng thêm cánh”, như "diều gặp bão”, như lái ô tô không cần Navigation.. . cả đời có người "nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra hôn nhân cũng có quy luật đấy chứ:

Chồng Bắc kỳ + vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách
Chồng Bắc kỳ + vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn.
Chồng Nam kỳ + vợ Bắc kỳ = Chồng te tua, lưng còng.


Nhưng đã là "luật” thì bao giờ cũng có "luật trừ”, nghĩa là cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại cháu chỉ lợi dụng cái "tự do ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các cụ trong lúc "trà dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt chút căng thẳng trong cái cuộc đời ... đen như mõm chó này. Xin lỗi các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi, bây giờ cháu xin trở lại chuyện của cháu.

Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục con cái theo truyền thống Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp bề thế trong Nam nhưng vẫn...thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và thậm chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải...Bắc kỳ ! Mỗi lần cháu dẫn bạn gái về nhà, bố cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc hay Nam.



image
Có một ông bố tinh đời như thế đôi khi lại...phiền. Với một mợ Bắc kỳ, bố cháu thân mật tươi cười "Cháu vào nhà chơi ! bố mẹ cháu khỏe mạnh không ?”, cứ làm như quen biết từ lâu vậy. Gặp cô ả Nam kỳ thì lạnh nhạt khinh khỉnh "Không dám, chào cô !” Cô bạn gái Nam kỳ mặt nghệt ra thưởng thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu nghe qua mà thốn từ dạ dầy đến ruột non.

Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi, mà cứ tưởng mình đang nghe thơ phú hay nghe nhạc êm dịu mới chết chứ ! Nếu quen cô nào Trời sinh có mấy cái vòng hơi...sexy một tí, Bắc cũng như Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ lựu đạn nổ tung trong nhà. Điệu này coi bộ hơi khó sống. Thôi thì Bắc Trung Nam cũng một nhà, hạnh phúc lứa đôi đâu phải do thằng hàng xóm, mà là do chính mình. Thế rồi cháu đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy vợ Bắc kỳ, cho phải đạo làm con. Em nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố xem mặt mà bắt hình dong (cứ như đi mua gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn sẽ là mấy ống cống dưới gầm cầu xa lộ Đại Hàn.



image
Thiên bất dung gian! cháu lại phải lòng một ả Nam kỳ, Nam kỳ không lai giống, cái thứ Nam kỳ Gia Long kên kên xí xọn. Hồi đó cháu đi lính Không Quân của miền Nam, thấy đám phi công trời đánh đa số cũng đều là Bắc kỳ, chẳng hiểu tại sao? Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ lại càng ít hơn, nhưng đứa nào cũng có ..."cái mồm Bắc kỳ”.

Cháu còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân, phải đủ ký lô, đủ kích thước, lục phủ ngũ tạng bị khám tuốt luốt, phải trần trùng trục như con nhộng rồi nhẩy lên nhẩy xuống cho mấy ông bác sĩ ..."vạch lá tìm sâu”, chứ đâu có thi tuyển đứa nào "lắm mồm”! Thế mà thằng nào thằng nấy đều có cái "chứng chỉ lắm mồm” cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay.

Một hôm đang trực phòng hành quân thì ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi có thằng nào rảnh ra phi đạo chở con cháu gái vợ của xếp theo tàu từ Sài Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ đang có bầu sắp đẻ. Tưởng đi biệt phái hành quân chứ cái màn này cháu khoái lắm: "Chuyện nhỏ mà xếp, có tui ngay”. Ông xếp của cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan thằng đàn em : "Lẹ lẹ lên coi, tàu sắp đáp rồi đó, sách tao mày học hết còn dư có cái bìa, nhưng mà từ từ thôi nghe cha nội, lạng quạng con mẻ chửi tao thấy bà !” Lúc đó cháu đâu có ngờ rằng, cái chuyện nhỏ như mắt muỗi này lại thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh hưởng đến hết cả cuộc đời cháu !



image
Cô cháu gái ông xếp không có cái dạng "ngực tấn công, mông phòng thủ” như trong "xi la ma”, thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã bị dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ chẳng phải tiếng sét tầm thường.

- "Cô đi máy bay có mệt lắm không ?”
– "Dạ !”.
-"Ra thăm cô dượng hả ?”
– "Dạ !”.
-"Cô lên xe đi, tôi đèo cô về”
--"Dạ !”...

Chèng đéch ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ? Cái gì cũng ”dạ” hết ráo thì cháu biết đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ, không biết bà dzợ xếp tới giờ này có còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa hay không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ khuya rùi !

Từ đó cháu với nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy chữ ”hình như là tình yêu”. Cuộc tình của cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên tường phòng khách nhà cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt dây thiều. Thương quá, cháu đánh liều, ”mấy sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”, chuyến này nhất quyết không chui ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà trình diện bố. Bố vẫn khinh khỉnh: ”Không dám ! chào cô”. Nàng vui tính: ”Ba anh coi ngầu quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”.


image
Hình minh họa
Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương con, lo cháu lấy nhằm cô vợ Nam kỳ cả ngày chỉ biết...phè cánh nhạn, ăn no lại nằm, thì con cưng của ông sẽ thành thân trâu ngựa suốt đời. Còn mẹ cháu, vốn dĩ nhà quê răng đen mã tấu bảo rằng, nghe Nam kỳ nói chuyện cứ tưởng nghe tiếng nước ngoài, chỉ hiểu một nửa ! Cháu cãi lại, Bắc kỳ cũng có khối đứa lười, lười như..cháu đây là hết mức rồi !

Một hôm cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc bố mẹ cháu sửa soạn mở tiệc đãi ông bác từ Hố Nai lên thăm. Ông bác vui tính bảo tiện bữa ngồi ăn luôn, cháu đang chần chừ thì nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa tròn lẳng xuống ghế, cháu kéo lên không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích cho nàng rằng, đi đâu gặp khách Bắc kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ để người ta mời dăm lần bẩy lượt, ăn liền người ta chửi mình...chết đói !

Nam kỳ thì thẳng ruột ngựa, mời là cháp lẹ, không cháp dọn xuống bếp, đói ráng chịu, không mời lần thứ hai, ai biểu mời không ăn ! Bỗng mấy đứa em cháu thay phiên nhau : ”Mời bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ xơi cơm, mời anh xơi cơm, mời chị xơi cơm”, mời... mời... mời tùm lum!. Thằng em út cháu mời dài nhất, mời lâu nhất, mời từ trên xuống dưới , trong nhà chỉ có con Tô Tô đang nằm chực dưới gầm bàn là nó không mời. Nó lại chẳng được ai mời để xơi, út mà ! nhưng rồi vẫn xực ào ào !

Cô bạn Nam kỳ của cháu trố mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Cháu vội ghé tai thì thầm:

- Em mời gia đình ăn cơm đi !
- Ủa ! gia đình anh mời em ”ăng” mà ? Bộ ”ăng” cũng phải mời...mời...xơi ...xơi sao?

Nàng ấp a ấp úng cũng ráng mời:

- Dạ mời bác, mời bác, dạ mời... à... à... mời anh, mời em...

Chợt bố cháu lên tiếng:

- Thôi đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải mời...Mà hay thật ! Con bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm ! Sao con cứ ăn hiếp nó mãi !

Nghe bố cháu nói mà bụng cháu cứ như mở cờ, ông còn cao hứng bảo khi nào nàng nấu cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. Cô nàng hí ha hí hửng nói liền:


image 
- Dạ ! (lại dạ!), để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi cho bác ăn(g), bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền Nam nghe bác !

- Sao ? cô muốn búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ búng đi !


Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. Nào đã hết đâu, mẹ cháu chợt bảo:

- Cháu xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong ngăn kéo đấy !

Nàng ngớ ra cứ như được nghe tiếng...Tây, nhìn cháu cầu cứu. Cháu cười hì hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích ngay:

- Cái ”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn Tây, chúng nó gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn là cái ”cùi dìa” cho tiện. Còn cái ”muôi” Nam kỳ kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê” cho nên gọi là cái ”dzá”, phải không ?

Nàng đỏ mặt, bĩu môi ”Cái đồ dzô dziêng, tui đi dzìa à nghen !”

Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu ”chuyển hệ”, có vẻ gần gũi thân mật với nàng hơn vì thấy nàng thật thà, có sao nói dzậy, không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất là...không lười như ông nghĩ. Thừa thắng xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ bàn với bố, bố vẫn ngần ngừ.

Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một quển sách nào đó người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa miền Trung đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu cũng đều là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh Cung là bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng Hậu), là người Gò Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo để ! Nhưng cháu ”không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường ”, chỉ xin ”...quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được ...con nhỏ Cái Bè con thương !”


image
Hình minh họa

Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn chưa cho giựt cần! Tuy thế, thỉnh thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng. Thì cháu đã nói rồi mà, ”quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông nước dập dình, ăn nói ”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó hiểu”... kiểu Bắc kỳ ! Chấm hết!

Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh sửa soạn ”lên đồ dzía” đến thăm gia đình nàng. Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra là đi ”hỏi vợ”, đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại ”chạm cổng” cho rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng góc, rõ từng cột.

Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má nàng, cho mấy đứa em nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ khị của xếp cháu đấy !). Lần nào gặp ba nàng là lần đó có...nhậu. Đồ nhắm lúc nào cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng chấm mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm mấy con trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng làm mồi. Nam kỳ trù phú mà ! Ổng không nhậu bia nhậu rượu, mà nhậu đế; không nhậu bằng cốc hay ly mà nhậu bằng tô, tô nào tô nấy bằng cái bát ăn cơm nhà cháu. Thế mà ổng lúc nào gặp cháu thì cứ nói rằng: ”Dô dzới tao dăm ba sợi nghe mày !” 


image
Chưa tới nửa sợi cháu đã guắch cần cẩu ! ”Lính tráng như mày chi mà yếu xìu sao oánh giặc nổi ? Dzô cái coi !” Ổng thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới kêu cháu bằng ”mày”. Tiếng ”mày” của Nam kỳ biểu lộ cái chân tình, sự gần gũi thân thương, không như Bắc kỳ khi đã xổ ra tiếng ”mày” rồi thì ... ô hô ! ô hô ! thiện tai ! thiện tai ! chạy cho lẹ !

Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng, bỗng có khách gõ cửa bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa cười vừa nói:

- Chèng đéc ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ cà tha, hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua mà qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi vài xị, hôm nay có ớt nè qua !

Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói cũng như thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng Nam kỳ nghe sao như tiếng...nước ngoài !

Bắc kỳ vẫn có câu ”dâu là con, rể là khách”, nhưng Nam kỳ thì ”dâu là con, rể cũng là...con luôn”. Bố dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể cũng chịu chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi như...bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm, còn má dzợ bỗng nhiên thành... chơi chịu ! Nàng kể cho cháu nghe, nhiều lần ổng đi nhậu quá giờ giới nghiêm chưa chịu về, cả nhà trông đứng trông ngồi. Chợt nghe tiếng xe Vespa quen thuộc chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái ”dzù” rồi lại chạy mất tiêu, lại nghe cái ”dzù” rồi đi tuốt luốt ! Sinh nghi, nàng chạy ra cổng đón đường chặn xe : ”Ba ui ! Ba ui ! Tới nhà rồi nè !”. Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng cái ”két”, xe đổ cái rầm, ổng té cái đụi, miệng lèng nhèng ” Ủa, nhà mình đây rồi sao? Dzậy mà tao chạy dzòng dzòng kiếm hoài hổng ra !”

Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của chú Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là cơm Tàu. Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc sống. Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải lương hà rầm. Hình như 7 thứ nghệ thuật của nhân loại đối với Nam kỳ đều tóm gọn trong mấy câu dzọng cổ thiệt mùi.
image
Hình minh họa

Đám cưới cháu người ta chụp nhiều hình lắm. Ông bố vợ coi hình gục gặc cái đầu: ”Chèng đéch ơi ! thằng rể tao chụp hình coi phông độ dzữ hén ! Ráng nghe mày !” Cháu chẳng hiểu ổng nói cháu phải ráng cái gì ? Nhưng có một cái cháu phải ráng là cái chắc, ai biểu ham dzợ Nam kỳ...mũi cao chân dài !
Còn bố cháu xem ảnh thì lại phán một câu xanh rờn: ”Con dâu bố chụp với bố ảnh này đẹp quá, giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại thì còn đẹp hơn biết bao !”. Ông xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành ông dượng, sẵn có dăm ba ly nhưng mắt vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len lén kể lể làm oai: ”Thấy chưa mày! Hồi đó tao xách máy bay xuống Vĩnh Long rồi lạng qua Cái Bè, mới lạng chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà cô mày, ngon chưa !” Cám ơn ”ông xếp dượng” đã có công ”nối giáo cho giặc” rồi rước luôn giặc vào nhà. Còn mấy thằng bạn Không Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca bản ”Mùa thu chết ”... đã chết rồi, cho mày...chết luôn!

Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống nhăn răng với bà vợ ”quý phái bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại để nựng. Nam kỳ cũng chăm chỉ đấy chứ ! Thế là xong một đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm, quậy phá ! Được cái vợ cháu cưng cháu lắm (Nam kỳ mà!), bao nhiêu công việc trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi, trồng cây, giặt đồ...vợ cháu dành làm hết ráo.

Bả nói ”tay chân ông như thằng cùi, làm đâu hư đó, để tui làm luôn cho lẹ !”. Cháu đi làm mang tiền về, bả cũng không thèm động tới, bảo rằng ”tui hỏng cần anh nuôi tui !” Thế nhưng vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn trồng nhiều ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng có cấp, ghen có kế hoạch, có phương án đàng hoàng. Ghen thì ghen, lâu lâu cháu cũng theo bạn bè...nhảy dù vài sô, về nhà im thin thít, thế mà bả cũng ”nghe” được mùi, lườm lườm, nguýt nguýt, rồi cũng huề tiền.

Sau này cháu mới khám phá ra vợ cháu rất sòng phẳng, đâu ra đó, nếu ”ăn bánh trả tiền” là...cho qua cầu gió bay, không thèm chấp. Một hôm vô tình đọc báo thấy tin cô Quờn, người Sóc Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng lặng lựa lúc chồng đang say túy lúy, xách con dao bếp cắt luôn...của quý của chồng đem quăng sau vườn. Cô Quờn ra tòa ngồi chơi 4 năm tù. Trời đất Thiên địa ơi! Nam kỳ mà ghen kiểu này chắc cháu chết sớm, cháu dấu luôn tờ báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng ẻng : ”Cái đó còn đỡ à nghen ! gặp tui là tui cho luôn dzô cái máy xay thịt rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ người ta dzăng minh lắm, khâu nối lại mấy hồi !” Má ơi là má ! Cháu nghe mà ớn lạnh xương sống! Chơi kiểu này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ rồi ! Nhưng cháu lại được phép kéo bạn bè về nhậu...xả láng, nhậu ”vô tư”. Xỉn quá thì : “Anh mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo gió hết liền !”. Bạn bè ói mửa tùm lum thì : ”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh đi, em dọn cho !” Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm !


image
Hình minh họa

Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng hùng vĩ , hay nói theo khoa học hiện đại là cái ”dzen” Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành ky” mà nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả táo”; thích ăn canh rau muống hơn nấu canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn nói không còn ”ngắn gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ thì.. ôi thôi ! ”dài dòng, ào ào như thác đổ”, nghe riết muốn khùng !

Bố cháu ăn ”bún(g) mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu, đến phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước mắn pha đường. Nhà cháu có bốn anh em trai thì bố cháu có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại vẫn thua xa một mợ dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoan thai như thiên nga, thêm cái tài...chửi như hát di truyền. Thế là cái mộng ”dâu rể phải là Bắc kỳ” của bố cháu bị nước sông Cửu Long vùng
Nam bộ cuốn trôi tiêu tùng. Bố cháu bây giờ cũng rành ”sáu câu” về Nam kỳ lắm, ông bảo người ta nói rằng:

- ”Tính tình gái Nam kỳ giống như mưa Sài Gòn: đỏng đảnh nhưng mau quên; tính tình gái Bắc kỳ giống như mưa Hà Nội: âm ỉ và dai dẳng”.

Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ họa :

- Bố biết không, người ta cũng bảo : ”Ở Sài Gòn nhiều em sinh viên giống như ca ve; Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh viên”, đúng không bố ?

Bố cháu quắc mắt : ” Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”.


image
Hình minh họa

Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi giận. Thôi thì đến nước này rồi, cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị, bởi vì con gái Nam kỳ bây giờ đã là ”cây nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải ”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng Nam bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên Nam”, nếu không cháu phải ôm thùng mì gói suốt đời. Mong sao các cụ đọc xong rồi bỏ qua, cứ coi như một chuyện tầm phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy mợ Hà Nội làm con chim đa đa, không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận cái xứ Nam kỳ với giòng sông 9 cửa.



Nguyễn Hữu Huấn
Nguồn 

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Bắc - Nam
Bắc bảo Kỳ , Nam kêu Cọ (gọi là Kỳ Cọ)
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi

Ôi! Bắc quở Gầy , Nam than Ốm
Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh
Bắc định đến muộn , Nam liền la trễ
Nam mần Sơ Sơ, Bắc nàm Nấy Nệ

Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc Vạc tre, Bắc kê Lều chõng
Bắc nói trổng Thế Thôi, Nam bâng quơ Vậy Đó
Bắc đan cái Rọ, Nam làm giỏ Tre,

Nam không nghe Nói Dai, Bắc chẳng mê Lải Nhải
Nam Cãi bai bãi, Bắc Lý Sự ào ào
Bắc vào Ô tô, Nam vô Xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng

Khi nắng Nam mở Dù, Bắc lại xoè Ô
Điên rồ Nam Đi trốn, nguy khốn Bắc Lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc Từ từ, Bắc khuyên Gượm lại
Bắc là Quá dại, Nam thì Ngu ghê

Nam Sợ Ghê, Bắc Hãi Quá
Nam thưa Tía Má, Bắc bẩm Thầy U
Nam nhủ Ưng Ghê, Bắc mê Hài Lòng
Nam chối Lòng Vòng, Bắc bảo Dối Quanh

Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp, hấp tấp Bắc vặt Ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưng là chụp
Nam rờ Bông Bụp, Bắc vuốt Tường Vi
Nam nói: mày đi! Bắc hô: cút xéo.

Bắc bảo: cứ véo! Nam : ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn !
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác

Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay.
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó.


Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên[, anh Hai[ Nam lú
Nam : ăn đi chú, Bắc:mời anh xơi!
Bắc mới tập bơi, Nam thời đi lội

Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy

Bắc quậy Sướng Phê, Năm rên Đã Quá !
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng

Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa

Bắc vua Bia Bọt, Nam chúa La-De
Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang, Nam : Thơm Thơm đậu phọng
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn

Nam toe toét «hổng chịu đèn», Bắc vặn mình «em chả»
Bắc giấm chua «cái ả», Nam bặm trợn «con kia»
Nam mỉa «tên cà chua», Bắc rủa «đồ phải gió»
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ

Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam lết vô hòm, Bắc mặc]áo quan

Bắc xuýt xoa "Cái Lan xinh cực!",
Nam trầm trồ "Con Lan đẹp hết chê!"
Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu…


mardi 13 août 2013

BỐN NGỌN NẾN

Thục sưu tầm



BỐN NGỌN NẾN


Trong phòng tối, có bốn ngọn nến đang cháy. Xung quanh thật yên tĩnh, đến mức người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của chúng.

Ngọn nến thứ nhất nói:
TÔI LÀ HIỆN THÂN CỦA HÒA BÌNH.
Cuộc đời sẽ như thế nào nếu không có tôi? Tôi thực sự quan trọng cho mọi người.

Ngọn nến thứ hai lên tiếng:
CÒN TÔI LÀ HIỆN THÂN CỦA LÒNG TRUNG THÀNH.
Hơn tất cả, mọi người đều phải cần đến tôi.

Đến lượt mình, ngọn nến thứ ba nói:
TÔI LÀ HIỆN THÂN CỦA TÌNH YÊU.
Tôi mới thực sự quan trọng. Hãy thử xem cuộc sống sẽ như thế nào nếu thiếu đi tình yêu?

Đột nhiên, cánh cửa chợt mở tung, một cậu bé chạy vào phòng. Một cơn gió ùa theo làm tắt cả ba ngọn nến. "Tại sao cả ba ngọn nến lại tắt?" cậu bé sửng sốt nói. Rồi cậu bé òa lên khóc.

Lúc này, ngọn nến thứ tư mới lên tiếng:
Đừng lo lắng, cậu bé. Khi tôi vẫn còn cháy thì vẫn có thể thắp sáng lại cả ba ngọn nến kia. Bởi vì :

TÔI CHÍNH LÀ NIỀM HY VỌNG.

Lau những giọt nước mắt còn đọng lại, cậu bé lần lượt thắp sáng lại những ngọn nến vừa tắt bằng ngọn lửa của NIỀM HY VỌNG!

Từ đó ta hiểu được giá trị đích thực của NIỀM HY VỌNG!

Ngọn lửa của Hy vọng sẽ luôn đi cùng các bạn suốt cuộc đời. Khi giữ được Hy vọng,chúng ta có thể thắp sáng lại ngọn lửa của Hòa Bình, Lòng Trung Thành và Tình Yêu!

NGUYÊN TẮC ĐỂ THÀNH CÔNG:


1- SUY NGHĨ : TÍCH CỰC.
2- CẢM NHẬN : SAY MÊ.
3- HÀNH ĐỘNG : KIÊN TRÌ.

THÀNH CÔNG SẼ ĐẾN !

ĐỪNG TỪ BỎ CON ĐƯỜNG BẠN ĐÃ CHỌN.

Hãy thắp sáng ngọn lửa HY VỌNG của mình và những người xung quanh bạn!

CHÚC CÁC BẠN THÀNH CÔNG VÀ HẠNH PHÚC!
 



dimanche 11 août 2013

Ảnh Hưởng Của Những Biến Chuyển Lịch Sử Đến Văn Học Việt Nam Thời Cận Đại


Cụ Trương Vĩnh Ký


Ảnh Hưởng Của Những Biến Chuyển Lịch Sử Đến Văn Học Việt Nam Thời Cận Đại

Trình bày tại Viện Việt Học, California, 13-7-2013)

Bài nầy chỉ nhắm trình bày ảnh hưởng của những biến chuyển lịch sử đến văn học Việt Nam trong bối cảnh mở rộng bang giao quốc tế thời cận đại, chứ không đi vào giai đoạn toàn cầu hóa kinh tế chỉ mới diễn ra vào khoảng đầu thập niên 90 thế kỷ vừa qua khi nhiều nước bãi bỏ hàng rào quan thuế để việc trao đổi kinh tế được rộng rãi, dễ dàng; và bài nầy cũng không đi vào phần văn chương của đề tài.

1.- VIỆT NAM MỞ RỘNG BANG GIAO QUỐC TẾ
Trước thế kỷ 19, Việt Nam chỉ giao thiệp với Trung Hoa và một số nước ĐNÁ. Từ các vua đầu nhà Nguyễn, tức từ năm 1802 trở đi, Việt Nam bắt đầu liên lạc thêm với vài nước phương Tây. Lúc đó, tại Âu Châu, do sự phát kiến máy chạy bằng hơi nước trong cuộc cách mạng kỹ nghệ, phương tiện giao thông phát triển, các nước Âu Châu bắt đầu mở cuộc tìm kiếm thuộc địa khắp thế giới.

Trong khi Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan tìm đến các nước Á Châu khác, Pháp đến đánh Việt Nam từ năm 1858, chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1862, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867, buộc Việt Nam phải nhượng toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa năm 1874, rồi đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Việt Nam năm 1884. Điều 1 hòa ước 1884 buộc Việt Nam phải lệ thuộc Pháp về ngoại giao. Lúc đó, Pháp là một cường quốc, bang giao rộng rãi với nhiều nước trên thế giới, nên qua nước Pháp, Việt Nam bắt đầu giao thiệp thêm với nhiều nước ngoài vùng Đông Nam Á.  Từ đó, nền bang giao quốc tế của Việt Nam càng ngày càng rộng mở cho đến ngày nay.

2.- THAY ĐỔI CHỮ VIẾT VÀ GIÁO DỤC

Sự bảo hộ của người Pháp đưa đến nhiều thay đổi quan trọng về tất cả các mặt trong đời sống của người Việt. Về văn hóa, quan trọng nhất là sự thay đổi chữ viết và hệ thống giáo dục. Người Việt nói tiếng Việt, nhưng từ thời Ngô Quyền lập quốc năm 939 cho đến thời nhà Nguyễn, các triều đại quân chủ dùng chữ Nho, tức chữ Hán và nói nôm na là chữ Tàu, làm chuyển ngữ trong hành chánh và giáo dục.

Khi Pháp bảo hộ, để đào tạo viên chức cho chế độ mới, nhà cầm quyền thực dân Pháp nghĩ ngay đến việc thay đổi hệ thống giáo dục và chữ viết của người Việt Nam.

a) Giai đoạn Pháp thăm dò (1861-1906):

Mẫu tự la-tinh và chữ quốc ngữ: Khi đến Đại Việt truyền đạo Thiên Chúa từ cuối thế kỷ 16, các giáo sĩ Tây phương cùng một số giáo dân Việt, dựa theo mẫu tự La-tinh, sáng chế ra một thứ chữ mới mà sau nầy được gọi là chữ quốc ngữ. Đầu năm 1861, Pháp chiếm ba tỉnh miền đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường). Phó đô đốc Léonard Charner, tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Viễn đông, ra nghị định ngày 21-9-1861, thành lập Collège Annamite-Français de Monseigneur l’Évêque d’Adran tại Sài Gòn, là trường thông ngôn dạy người Việt học chữ Pháp đồng thời dạy người Pháp học tiếng Việt bằng thứ chữ mới theo mẫu tự la-tinh. (John DeFrancis, Colonialism and Language Policy in Vietnam, New York: Moulton Publishers, 1977, tr. 76.)

Chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ: Sau hòa ước Giáp Tuất (18-3-1874), sáu tỉnh Nam Kỳ trở thành thuộc địa Pháp. Thống đốc Nam Kỳ là Louis Lafont, ban hành nghị định ngày 6-4-1878, theo đó kể từ 1-1-1882, ở Nam Kỳ, tất cả các giấy tờ như công văn, nghị định, quyết định, bản án, lệnh… đều viết bằng mẫu tự la-tinh, tức chữ Pháp hay quốc ngữ, chứ không còn viết bằng chữ Nho. Cũng từ 1-1-1882, ở Nam Kỳ chỉ những người biết quốc ngữ mới được tuyển dụng vào các cơ quan hành chánh cấp phủ, huyện, tổng. (Alfred Schreiner, Abrégé de l’histoire d’Annam, Deuxième édition, Sai Gòn: 1906, tr. 340.) Điều nầy có nghĩa là bên cạnh chữ Pháp, quốc ngữ chính thức trở thành chuyển ngữ của dân chúng Nam Kỳ, và chữ Nho không còn được sử dụng ở Nam Kỳ.

Chữ quốc ngữ ở Trung và Bắc Kỳ: Pháp bảo hộ Trung và Bắc Kỳ bằng hòa ước Giáp Thân (6-6-1884). Lúc đầu Pháp duy trì nền giáo dục Nho học để tránh va chạm với quan lại triều đình Huế mà đại đa số xuất thân khoa bảng Nho học. Năm 1887, Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, bắt đầu mở những trường dạy tiếng Pháp, trong khi vẫn để cho triều đình Việt Nam tiếp tục mở những khoa thi Nho học (thi Hương và thi Hội).

b) Tiến trình thay đổi giáo dục và thi cử (1906-1918):

Học chế 14-9-1906: Sau thời gian thăm dò, Pháp bắt đầu tổ chức giáo dục Pháp Việt. Quyền toàn quyền Đông Dương là Broni ban hành học chế ngày 14-9-1906 quy định các trường học Việt Nam gồm ba cấp ấu học, tiểu học và trung học, đều có dạy quốc ngữ. Ai đậu kỳ thi cuối khóa cấp trung học, được gọi là thí sinh và sẽ được dự kỳ thi hương. (Louis Cury, La société annamite, les lettrés – les mandarins – le peuple (Thèse pour le doctorat), Paris: Jouve et Cie, Éditeurs, 1910, tt. 24-33. (Nghị định do quyền toàn quyền Broni ký ngày 14-9-1906.)

Vận động cải cách của các nhà khoa bảng Việt: Trong khi đó, các nhà khoa bảng cựu học cấp tiến vào đầu thế kỷ 20 do Phan Châu Trinh khởi xướng, mở phong trào Duy tân, vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc, kêu gọi bãi bỏ Nho học, cổ xúy việc học quốc ngữ để nâng cao dân trí, vì một lý do đơn giản: quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho. Các ông vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục, 1907).

Học chánh tổng quy, bãi bỏ các kỳ thi Nho học: Từ năm 1909, quốc ngữ được đưa vào chương trình thi hương trên toàn Trung và Bắc Kỳ. Khi đến Đông Dương làm toàn quyền lần thứ hai từ năm 1917, Albert Sarraut ra nghị định 21-12-1917 về “Quy chế chung về ngành giáo dục công cộng ở Đông Dương” (Règlement général de l’instruction publique en Indochine), thường được gọi là “Học chánh tổng quy”, áp dụng cho toàn cõi Đông Dương để thay thế cho học chế Broni. Đặc biệt, phần cuối tổng quy nầy định rằng các trường chữ Nho của tư nhân hay của triều đình Huế, kể cả quốc tử giám, đều được xếp vào loại trường tư và phải tuân theo quy chế của chính quyền Pháp. (Dương Kinh Quốc, Việt Nam: Những sự kiện lịch sử (1858-1918), Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 1999, tt. 375-378.)

Sau “Học chánh tổng quy” năm 1917, thi hương bị bãi bỏ ngay ở Bắc Kỳ. Ở Trung Kỳ còn kỳ thi Hương năm 1918, rồi chấm dứt luôn. Như thế là nền giáo dục Nho học hoàn toàn bị dẹp bỏ. Ở đây xin ghi nhận công ơn của sử gia Trần Trọng Kim. Khi Pháp thay đổi chữ viết và hệ thống giáo dục Việt Nam, Pháp âm mưu cắt đứt truyền thống dân tộc Việt, đào tạo các thế hệ thanh thiếu niên mới không biết chữ Nho, nên không thể đọc và học lịch sử đất nước vốn viết bằng chữ Nho. Sử gia Trần Trọng Kim đã có công soạn ngay bộ Việt Nam sử lược bằng quốc ngữ và ấn hành lần đầu năm 1920 tại Hà Nội (tức là ngay sau khi học chánh tổng quy của Albert Sarraut bãi bỏ Nho học), giúp cho lớp thanh thiếu niên mới, chỉ biết chữ Pháp và quốc ngữ mà không biết chữ Nho, có thể tiếp tục học lịch sử Việt Nam.

3.- ẢNH HƯỞNG VỀ ĐỀ TÀI VĂN HỌC

Đề tài yêu nước, tranh đấu: Văn chương chữ Hán cũng như văn chương chữ Nôm dưới thời nhà Nguyễn khá thịnh hành, thường xoay quanh đề tài ngâm vịnh, tả cảnh, tả tình nhẹ nhàng nhằm mục đích giải trí. Khi Pháp đánh chiếm và bảo hộ Việt Nam, sĩ phu chuyển hướng qua đề tài yêu nước và tranh đấu chống Pháp, bắt đầu từ Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), qua thế hệ Phan Châu Trinh (1872-1926), Trần Quý Cáp (1870-1908), Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), các tác giả trong Đông Kinh Nghĩa Thục và kéo dài đến năm 1945.

Văn chương lãng mạn: Cùng với sự du nhập văn hóa Pháp, các nền triết học, chính trị, văn học, nghệ thuật tây phương cũng tràn vào Việt Nam, tạo thành nguồn cảm hứng cho những đề tài mới mẻ. Lúc đầu nổi bật nhất là khuynh hướng văn chương tình cảm, lãng mạn và xã hội, từ Truyện thầy Lazaro Phiền của P. J. B. Nguyễn Trọng Quản do nhà xuất bản J. Linage ấn hành năm 1887 tại Sài Gòn, nghĩa là đúng 30 năm trước khi Nho học bị bãi bỏ theo học chế tổng quy của Albert Sarraut (1917).

Sau đó đến các tác giả Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, các tác giả Tự Lực Văn Đoàn… Ngoài truyện ngắn, tiểu thuyết, phong trào thơ lãng mạn rất thịnh hành một thời, xuất hiện nhiều thi sĩ danh tiếng mà hầu như ai cũng biết.

Chủ nghĩa cộng sản, tranh đấu giai cấp: Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập năm 1930. Từ đây, CS cổ xúy đề tài về chủ nghĩa CS, về tranh đấu giai cấp. Trong cuộc họp ban Thường vụ trung ương đảng CSĐD từ 25 đến 28-3-1943, tổng bí thư Trường Chinh đưa ra “Đề cương văn hóa Việt Nam”, đặt văn nghệ phục vụ chính trị.

Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản Trung Quốc chiếm được lục địa Trung Hoa. Đầu năm 1950, Hồ Chí Minh qua Trung Quốc và Liên Xô xin viện trợ. Nhờ sự giúp đỡ của CSTQ, Việt Minh chiến thắng ở Đồng Khê ngày 16-9-1950, vừa củng cố thế lực Việt Minh, vừa mở cửa biên giới sang Trung Quốc. Tư đây, CSVN rập khuôn theo đường lối văn nghệ của CSTQ, mở cuộc chỉnh huấn, chỉnh quân, thanh lọc hàng ngũ đảng CS.

Nếu trước đó, cho đến năm 1950, trong chiến khu Việt Minh, người ta còn nghe hát những bản nhạc lãng mạn như “Suối mơ”, “Thiên Thai”, thì sau đó trí thức văn nghệ sĩ phải dứt khoát theo chủ nghĩa cộng sản Từ đây, đề tài văn chương tại vùng CS hoàn toàn chuyển hướng qua đấu tranh giai cấp, ca tụng chủ nghĩa CS, lãnh tụ CS Việt Nam và thế giới  (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập 2, Quyền bính, bản điện tử, tiểu mục “Xiềng xích nhân văn”.)

Tiếp nối khuynh hướng lãng mạn: Cũng trong năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại ký kết với tổng thống Pháp là Vincent Auriol hiệp định Élysée ngày 8-3-1949, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam. Quốc Gia Việt Nam chuyển qua giai đoạn hậu thuộc địa, nền văn học lãng mạn thời Pháp thuộc tiếp tục kéo dài thêm một thời gian cho đến khi hiệp định Genève được ký kết ngày 20-7-1954.

4.- ẢNH HƯỞNG VỀ HÌNH THỨC VĂN HỌC
Chẳng những đề tài thay đổi theo những biến chuyển chính trị, mà hình thức văn chương Việt Nam cũng thay đổi theo thời cuộc.

Tiểu thuyết văn xuôi: Thời nhà Nguyễn, tiểu thuyết thường được viết bằng văn vần, thể lục bát hay song thất lục bát (Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc…). Qua thời Pháp thuộc, tiểu thuyết được viết bằng văn xuôi như người Pháp, mở đầu bằng Truyện thầy Lazaro Phiền của P. J. B. Nguyễn Trọng Quản năm 1887 (đã viết ở trên).

Truyện ngắn và truyện dài càng ngày càng nhiều ở cả Hà Nội lẫn Sài Gòn. Nhiều nhà văn bắt đầu dịch các truyện Tàu, sau đến dịch các truyện Pháp và truyện của các nước khác qua bản Pháp ngữ như truyện Nga, Mỹ, Đức… Bên cạnh truyện dịch còn có các truyện phóng tác theo các truyện Tây phương nhưng dựa trên khung cảnh xã hội Việt Nam.

Thơ mới: Trước đây, các thi sĩ cổ điển làm thơ Đường theo thể 8 câu 7 chữ, thơ 5 chữ (ngũ phong) và phú. Thơ Đường luật (8 câu 7 chữ) phải tuân niêm luật đối câu, đối chữ, đối nghĩa rất khó khăn, càng ngày càng ít người sử dụng. Thơ lục bát và song thất lục bát là hai thể thơ gốc từ người Việt, vẫn còn được sử dụng. Vào đầu thập niên 30, xuất hiện thể thơ mới. Bài “Tình già” của Phan Khôi (1887-1959) trên báo Phong Hóa (Hà Nội) ngày 24 janvier 1933 có thể là bài mở đầu cho phong trào thơ mới và thơ tự do rất phóng khoáng, không theo khuôn khổ thơ nhất định.

Các sinh hoạt văn học khác: Một hình thức văn học hoàn toàn mới mẻ với người Việt Nam là ngành báo chí, hết sức phong phú. Tờ báo tiếng Việt đầu tiên bằng thứ chữ mới là tờ Gia Định Báo, ra số đầu ngày 15-4-1865. (Huỳnh Văn Tòng, Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945 [tái bản, hiệu đính và bổ sung], Nxb. TpHCM, 2000, tt. 55-59.) Báo chí phát triển nhanh chóng nhờ kỹ nghệ in càng ngày càng tân tiến và phổ thông. Ngoài ra, còn có những bài tùy bút (ngày nay gọi là bút ký), phê bình văn học, bình luận chính trị, bút chiến rất sôi động.

5.- ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH GENÈVE: HAI DÒNG VĂN HỌC

Một biến cố biến cố lịch sử lớn ảnh hưởng đến văn học Việt Nam là hiệp định Genève ngày 20-7-1954, chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17.

Văn học ở Bắc Việt Nam: Dưới chế độ mới của cộng sản ở phía bắc vĩ tuyến 17 sau năm 1954, các văn nghệ sĩ Bắc Việt Nam (BVN) bị bắt buộc phải theo sát giáo điều Mác xít và đường lối chính sách của nhà nước, đến nỗi có người đã phát biểu: “Hai năm hòa bình, chúng ta thấy nhiều nhà văn (trước kia) có tài, (ngày nay) bị buộc chặt vào địa vị, bằng những sợi lụa có tẩm độc. Tác phẩm của họ (ngày nay) chỉ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo…” (Phát biểu của thi sĩ Hoàng Huế gởi Đại hội Văn nghệ Toàn quốc, đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân, Hà Nội, 1956.  Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, Sài Gòn: Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, 1959, tt. 11-12.)

Nhiệm vụ mới của giới văn nghệ sĩ được Trường Chinh, uỷ viên Bộ chính trị đảng Lao Động (hậu thân của đảng CSĐD), Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (từ ngày 7-7-1960), quy định trong bài “Tăng cường tính đảng, đi sâu vào cuộc sống mới để phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng tốt hơn nữa” đọc trước Đại hội Văn nghệ Bắc Việt năm 1962: “Văn nghệ sĩ phải thừa nhận rằng văn nghệ phục vụ chính trị, phục vụ đường lối chính sách của đảng. Văn nghệ sĩ phải trung thành với lý tưởng cộng sản và đấu tranh không mệt mỏi cho chủ nghĩa xã hội. Văn nghệ sĩ bằng hoạt động văn nghệ và hoạt động xã hội của mình cần luôn luôn phấn đấu để tăng cường sự lãnh đạo của đảng, củng cố lòng tin của quần chúng đối với đảng, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin…” (Thân Trọng Mẫn: “Từ phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đến Cao trào văn nghệ phản kháng 1986-1989, trong tuyển tập nhiều tác giả Trăm hoa vẫn nở trên quê hương, California: Nxb. Lê Trần, 1990, tr. 24.)

Vì vậy văn học BVN từ 1954 đến 1975 chỉ sôi động giai đoạn từ 1954 đến 1956 khi các văn nghệ sĩ vận động đòi quyền tự do sáng tác và yêu cầu đảng CS, lúc đó có tên là đảng Lao Động (LĐ) đừng can thiệp công việc sáng tác của họ. Đảng LĐ liền thanh trừng, đàn áp, bắt bớ, tù đày những văn nghệ sĩ nầy, tạo ra vụ án “Nhân văn và Giai phẩm”. Văn nghệ sĩ BVN trở thành những văn công của đảng, phục vụ công cuộc cai trị độc tài và nhất là cuộc xâm lăng miền Nam từ năm 1960. Từ đó, văn học BVN “chỉ là chỉ thị, kế hoạch, công văn, thông cáo…” đúng như thi sĩ Hoàng Huế đã phát biểu.

Văn học Nam Việt Nam: Nếu BVN hoàn toàn bưng bít, thì ngược lại, Nam Việt Nam (NVN) chủ trương tự do tư tưởng, tự do sáng tác, mở cửa đón nhận tất cả các luồng văn hóa mới từ nhiều nước khác nhau. Ngoài văn hóa Pháp và Âu Châu, nền văn hóa Hoa Kỳ tràn vào NVN khi người Mỹ càng ngày càng đông đảo ở NVN và sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ du học.

Chẳng những văn học mà cả âm nhạc và điện ảnh Hoa Kỳ ảnh hưởng mạnh đến giới trẻ Việt Nam.

Điểm đặc biệt là dù NVN phải chống trả cuộc xâm lăng của BVN, văn nghệ sĩ NVN được tự do sáng tác nên nền văn học nghệ thuật NVN rất phong phú, đa dạng. Bên cạnh những tác phẩm chiến đấu, lại xuất hiện nhiều văn thơ và nhất là ca nhạc thở than uỷ mỵ. Từ sự uỷ mỵ nầy, nhiều tác phẩm phản chiến xuất hiện, làm xói mòn và sa sút rất nhiều tinh thần chiến đấu của chiến sĩ ngoài tiền tuyến.

Tự do sáng tác tạo nên một khác biệt lớn lao giữa chế độ miền Nam tự do dân chủ với chế độ miền Bắc cộng sản độc tài. Đây là một ưu điểm của NVN, nhưng đồng thời cũng là một nhược điểm của NVN vì BVN không bỏ qua cơ hội lợi dụng quyền tự do sáng tác để gây suy nhược tinh thần chiến sĩ, làm rối loạn và băng hoại xã hội miền Nam.

6.- ẢNH HƯỞNG CỦA HIỆP ĐỊNH PARIS: VĂN HỌC HẢI NGOẠI

Sau hiệp định Paris ngày 27-1-1973, Hoa Kỳ rút quân khỏi NVN và ngưng viện trợ cho NVN. Nam Việt Nam một mình tiếp tục chiến đấu chống cuộc xâm lăng của BVN. Trong khi đó, BVN vẫn được Liên Xô và Trung Cộng viện trợ đầy đủ, và còn viện trợ gấp 4 lần so với trước hiệp định Paris. Cuối cùng NVN thất bại ngày 30-4-1975. Cộng sản BVN chiếm được toàn thể lãnh thổ Việt Nam.

Ở trong nước sau năm 1975, văn nghệ sĩ bị gò bó theo giáo điều CS, chỉ được ca tụng thành quả của đảng CS, ca tụng những gương anh hùng xã hội chủ nghĩa, đả kích những người vượt biên là những người phản quốc… Đảng CSVN kiểm soát rất chặt chẽ các sinh hoạt văn hóa, sáng tác.

Sau ngày 30-4-1975, nhiều người bỏ nước ra đi tìm tự do và định cử ở nước ngoài. Người Việt nước ngoài càng ngày càng đông, hoàn toàn tự do sáng tác đủ loại đề tài. Càng ngày đề tài của văn nghệ sĩ hải ngoại càng mở rộng, đa dạng. Nhờ tự do dân chủ, nhờ điều kiện học hành thoải mái, người Việt ở hải ngoại có thể sáng tác, nghiên cứu tất cả các đề tài văn hóa, tôn giáo, chính trị, kinh tế, xã hội mà không bị cấm đoán. Có nhiều người viết tiếng Anh hay tiếng Pháp tùy theo địa phương cư trú. Tính theo tỷ lệ dân số, số lượng tác phẩm xuất hiện ở hải ngoại rất dồi dào so với tác phẩm ở trong nước.

Nhà nước CS cho rằng nền văn học hải ngoại là nền văn học phản động, lưu vong, mất gốc, nhưng thực tế cho thấy nền văn học Việt Nam hải ngoại tiếp nối nền văn học NVN hay Việt Nam Cộng Hòa, dựa trên căn bản truyền thống dân tộc cổ truyền, trong khi người Việt tiếp thu thêm những tinh hoa văn hóa nước ngoài khi đến định cư tại các nước trên thế giới. Trong tương lai, một khi chế độ cộng sản bị giải thể, chắc chắn nền văn học nghệ thuật hải ngoại sẽ hồi hương và sẽ là nền tảng thúc đẩy nền văn học nghệ thuật trong nước phát triển trở lại.

7.- ẢNH HƯỞNG CỦA COMPUTER VÀ INTERNET

Khoảng đầu thập niên 90 thế kỷ vừa qua, sự phát triển của computer và Internet là một biến cố lịch sử trọng đại, có thể xem là cuộc cách mạng kỹ nghệ thế giới lần thứ hai, làm thay đổi toàn bộ xã hội các nước trên thế giới, kể cả Việt Nam cộng sản.

Computer giúp việc học hỏi, nghiên cứu, sáng tác dễ dàng, nhanh chóng. Ngành computer hải ngoại phát triển mạnh và sớm hơn trong nước là một trong những lý do mà người Việt ở hải ngoại sáng tác nhiều hơn ở trong nước.

Sự bộc phát của computer đi kèm với sự bùng nổ của Internet, nhất là những trang web xuất hiện vào đầu thập niên 90. Tuy cố gắng ngăn cản, nhưng CS không thể chận đứng hoàn toàn Internet. Qua computer và internet, dân chúng trong nước có thể truy cập được những thông tin, sách báo ở hải ngoại mà lâu nay CSVN bưng bít, che đậy, giấu diếm. Nhờ đó, dân trí trong nước dần dần lên cao trở lại.

Trước đây, CSVN kiểm soát việc in ấn sách báo trên giấy rất chặt chẽ. Ngày nay, các văn nghệ sĩ trong nước chỉ cần phóng lên mạng thông tin toàn cầu sáng tác của mình, thì người Việt trong nước và trên khắp toàn cầu đọc ngay được dễ dàng. Điều nầy kích thích văn nghệ sĩ trong nước sáng tác mạnh mẽ hơn, và đề tài tự do đa dạng hơn, chứ không còn bị gò bó trong giáo điều CS.

Thêm nữa, các blog xuất hiện càng ngày càng nhiều, vừa giải trí, vừa thông tin, vừa giải bày tâm sự, vừa tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ một cách bất bạo động. Ai cũng có thể viết blog, ai cũng có thể mở facebook.

Một mặt CS xây dựng bức tường lửa, ngăn chận thông tin trên Internet, một mặt công an CS truy lùng, bắt giam, tù đày những người viết mà CS kết tội là phản động, nhưng sự xuất hiện của computer và Internet tạo hoàn cảnh thuận tiện cho “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” ở trong nước, và thúc đẩy nền văn học trong nước nhảy vọt đáng kể trong thời gian gần đây.

Ngoài ra, khi nền kinh tế chỉ huy của CS suy sụp, đảng CS bắt buộc phải mở cửa, chuyển qua kinh tế thị trường tức kinh tế tự do để cứu nguy cho đảng CS. Từ đó Việt Nam dần dần tiến vào thị trường thế giới, dầu nhà nước CS vẫn “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khi Việt Nam mở cửa, các nước trên thế giới, nhất là các tổ chức theo dõi nhân quyền, đã can thiệp, giúp đỡ cho văn nghệ sĩ trong nước mạnh dạn đề cập đến nhiều đề tài mà lâu nay bị CS cấm kỵ.

8.- KẾT LUẬN
Lịch sử là quá khứ của con người. Văn học là sàn phẩm của con người. Lịch sử luôn luôn tác động đến văn học và ngược lại văn học phản ảnh những biến chuyển lịch sử. Những thay đổi lớn lao trong lịch sử Việt Nam từ 1884 cho đến nay làm cho văn học thay đổi mạnh mẽ đồng thời cũng được các tác phẩm văn học ghi lại dấu ấn khá rõ ràng.

Khi bị Pháp bảo hộ năm 1884, nền văn học bị ảnh hưởng tận gốc rễ do việc thay đổi chữ viết, hệ thống giáo dục và văn hóa. Người Pháp muốn cắt đứt truyền thống quá khứ để đào tạo một thế hệ trí thức mới, phục vụ chế độ Pháp thuộc. Nền văn học từ thời Pháp thuộc hoàn toàn khác biệt với nền văn học cổ điển, từ hình thức đến nội dung.

Sau thời Pháp thuộc, từ năm 1945 cho đến nay, lịch sử Việt Nam trải qua những thay đổi chính trị lớn lao nên văn học cũng trải qua những biến thái lớn lao về nội dung lẫn hình thức. Tuy nhiên, có thể do hoàn cảnh gò bó về chính trị ở trong nước, hoàn cảnh khó khăn khi mới lập nghiệp ở nước ngoài, nên chưa xuất hiện những tác phẩm văn chương khai thác hết những góc cạnh lịch sử Việt Nam vừa qua, tạo ra những tác phẩm vĩ đại như Cuốn theo chiều gió của Magaret Mitchell (Hoa Kỳ) hay Chiến tranh và hòa bình của Leon Tolstoi (Nga). Hy vọng, một khi đất nước thực sự tự do dân chủ, thanh bình thịnh trị, người Việt trong và ngoài nước bình tâm sáng tác, sẽ xuất hiện những tác phẩm văn chương lớn, phản chiếu lại toàn cảnh lịch sử đầy giông bão của đất nước chúng ta từ thế kỷ 19 cho đến ngày nay.

TRẦN GIA PHỤNG
(California, 13-7-2013)