samedi 8 mars 2014

HỘI-AN "hòn ngọc của Quảng-Nam"

Thương nhớ
HỘI-AN
"hòn ngọc của Quảng-Nam"
***

Chùa Cầu ở Hội-An 
Khu sinh thái Cù lao Chàm là một cụm đảo, về mặt hành chính trực thuộc xã đảo Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, nằm cách bờ biển Cửa Đại 15 km và đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
 Đến Viếng Cù lao chàm 7-2007


 
đi hors bord từ Cửa đại Hội An khoảng 30 min ra Cù Lao chàm




ăn trưa ở Cù lao chàm

An-Tiêm MAI-LÝ-CANG
(Paris)
Cách nay đúng mười lăm năm, tại vùng đồng bằng ven biển thuộc hạ lưu sông Thu-Bồn ở trong tỉnh Quảng-Nam có một khu phường xưa phố cũ nổi tiếng mà chưa kịp nói ra, thì hầu hết tất cả mọi người cũng đều biết đến. Đó chính là hình ảnh của thắng cảnh Hội-An nhỏ hẹp, và khu phố cổ thu mình nằm vỏn vẹn trong một diện tích khoảng 2km2 nhưng lại là một di sản văn hóa thế giới đã được tổ chức UNESCO chính thức thừa nhận vào năm 1999. Chừng khoảng một thế hệ đời người về trước, thì vào lúc bấy giờ Hội-An cũng vẫn hãy còn là một thành phố bé tí tẹo im lìm như đang còn ngủ say vùi dưới lớp mái ngói rêu phong xám xịt. Và trên lớp mái ngói ngả màu đó, nó vô tình đã bị những bụi cỏ, chùm cây hoang dại xâm thực mọc lên phủ dày, bằng với hình ảnh sắc màu của nhiều nhánh lá xanh non lả lướt đu đưa theo từng cơn gió, trông thật là lạ mắt.

Cận cảnh dãy phố cổ Hội-An
Càng lý thú hơn, là khi lữ khách có dịp đang dừng chân ở nơi đây nhằm lúc có nạn lũ lụt nhận chìm đường sá trong làn nước tràn ngập phố phường. Và trong lúc người dân sở tại đang khốn đốn với thiên tai mất mác, thì ngược lại, đối với kẻ lãng du sẽ là một cơ hội hiếm hoi, để cho họ được dịp thu lại được những tấm hình thật là ấn tượng với cảnh quan của Hội-An có thuyền bè lưu thông trên dòng sông uốn lượn ngoằn ngoèo giữa lòng thành phố cổ. Cùng với mọi hình thức sinh hoạt quen thuộc hằng ngày của người dân sở tại xảy ra trong thời điểm đó, thì chứng tích nầy quả chẳng khác nào được ví như là một hoạt cảnh thờicổ xưa của các thành phố du lịch nổi nổi tiếng hiện đại, hoành tráng hơn ở tại các nước văn minh phương Tây như Bruges, Venise v.v.

Phố cảng thuyền buồm Hội-An
trong mùa lũ lụt ngày xưa
Còn mới đây, thì trận lụt vào đầu tháng 10 năm 2013 cũng đã nhận chìm đường sá phố cổ Hội-An, và cũng để lại những hình ảnh tương tợ như ngày trước.

Thuyền đưa rước du khách trong phố cổ Hội-An ngày nay

Bến ghe túc trực mời khách đi tham quan
Riêng đối với tác giả, thì Hội-An không những là quê hương của tiện nội mà nó còn là một nơi mà ngày xưa đã từng gắn bó với sự hiện diện của họ tộc gia đình, cho dù ngày nay tộc Nguyễn được coi như là lớn nhất ở tại đây. Hồi tưởng lại ngày tháng trôi qua, hễ cứ mỗi lần có dịp về Hội-An ăn Tết thì lúc nào tôi cũng được người nhà đưa đi dạo từng con đường trong phố vắng, và cũng không quên dắt lại dưới mái trường xưa để chụp hình lưu niệm rồi kể lại những mẩu chuyện học trò còn tuổi ấu thơ! Trong mắt tôi, phố phường Hội-An lúc bấy giờ sao mà nó toát ra được một cái gì quá cổ kính mà tôi không thể nào tìm thấy ở trong bất cứ những thành phố nào mà tôi đã từng đi tới. Từ người gánh hàng nặng trĩu trên vai với cái đòn gánh cong oằn xuống rảo đi thoăn thoắt, đến tiếng con chó sủa nho nhỏ dường như chỉ cần vừa đủ người nghe. Từ tiếng rao bán khoai lang của cậu bé ở trần bận quần xà lỏn, đến âm thanh địa phương của những người vừa đi, vừa nói chuyện huyên thuyên với nhau mà tôi nghe nhưng hiểu được một cách khó...khăn! Và nhất là, hình ảnh duyên dáng của những cô gái có mái tóc thề thướt tha dưới vành nón lá nghiêng nghiêng thường hay e lệ, ấp úng từng câu đối đáp cùng với những chàng trai thanh lịch đến từ ở phương xa. Trong bầu không gian tĩnh mịch tưởng chừng như chỉ nghe được có tiếng gió, và lâu lâu mới nghe được tiếng vọng của động cơ. Cũng như, trên đường sá nhỏ hẹp hồi đó có rất ít bóng dáng người qua lại, và thỉnh thoảng mới nhìn thấy được có người đi xe máy hoặc xe hơi chầm chậm chạy lướt ngang qua.
Tất cả những hình ảnh sinh hoạt đó, lúc bấy giờ đối với tôi là cả một cái gì rất lạ nhưng tôi cảm nhận đầy thú vị.

Phố sá Hội-An xưa
Hơn thế nữa, nếu lại là đúng vào dịp Tết thiêng liêng thì cảnh quan phố thị Hội-An lại càng trống vắng, yên lặng! Nhà nào, nhà nấy cửa đóng then cài che khuất bầu không khí sinh hoạt gia đình bên trong chẳng khác nào hình ảnh của một thành phố bỏ ngỏ vắng ít người ở, nếu người ta không còn được nghe tiếng pháo nổ đì đẹt ở ngoài đường của đám trẻ con. Hay như, nếu người ta cũng không còn thấy được có những con lân múa quanh tiếng trống, cùng với bóng dáng lác đác của người dân đi viếng các chùa chiền lễ Phật để cầu an, cầu tài, xin xăm, hái lộc v.v. Thế nhưng sau những phút giây thoáng hiện ra hình ảnh đó, thì cảnh vật cũ xưa lại hiện trở ra với dáng vẻ buồn ơi là buồn! Còn cái chợ nhỏ xíu bên cạnh bờ sông Hoài thì cũng vậy, hầu hết mọi sự sinh hoạt trao đổi bán mua hằng ngàyđều được nhìn thấy nó diễn ra một cách chậm chạp, không hối hả rộn ràng như nhiều nơi khác.
Tuy nhiên, chính nhờ có những hình ảnh êm đềm đáng yêu đặc biệt nầy mà nó đã vô tình tạo thành dấu ấn sâu đậm từng gây nhiều cảm khái vào lòng lữ khách, cũng như làm rung động được tâm hồn nhạy cảm của hầu hết mọi người.

Cảnh cũ phố xưa ở Hội-An
Rồi theo dòng thời gian, thật không ai ngờ cảnh quan của những tường vách cũ kỹ loang lở ngả màu, những dãy nhà lụp sụp mốc xì Hội-An ngày nay đã được nước nhà thừa nhận coi như là hòn ngọc của Quảng-Nam, là thành phố du lịch quốc tế của Việt-Nam được thế giới du lịch phương Tây biết đến rất nhiều. Và giờ đây, không có tour du lịch quốc tế quan trọng nào đến Việt-Nam, mà không có lộ trình đến tham quan phố cổ Hội-An. Còn đối với du khách nội địa, thì hình ảnh của địa danh Hội-An chính là biểu tượng cho một phố cảng thuyền buồm đầu tiên ngày xưa giao thương ra thế giới bên ngoài, mà ngày nay, họ có nhu cầu cần muốn đến viếng thăm tìm hiểu.
Ngày nay, sự lý thú của du khách đến với Hội-An là khi họ nhìn thấy những chứng tích cổ xưa có giá trị đa dạng về nhiều mặt trong quá trình sinh hoạt văn hoá xã hội dân gian còn được tồn tại đến bây giờ. Và như mọi người đều biết là suốt trong thế kỷ 17 và 18, thì Hội-An do nhờ có hệ thống giao thông đường thủy thuận tiện dễ dàng, cho nên đã được các thương thuyền hàng hải nước ngoài thường xuyên ghé cảng để trao đổi hàng hóa, mua bán nhộn nhịp.

Phố cảng thuyền buồm Hội-An nay đã trở thành di sản văn hóa thế giới
Trong hoàn cảnh lịch sử giao thoa đó, diện mạo phố phường ở tại địa phương cũng lần được xây dựng thành hình khác lạ để đáp ứng nhu cầu theo đà phát triển về kinh tế của xã hội sở tại. Do vậy, chính những hình ảnh kiến trúc nhà cửa, chùa chiền được mọc lên thời bấy giờ mang đậm màu sắc trộn pha phong tục, tập quán giữa các sắc dân đến từ ở phương xa, thì đó quả là một bằng chứng để nói lên được sự phồn thịnh của phố cảng Hội-An ngày trước.

Bảo tàng sống Hội-Anvới lối kiến trúc đô thị cổ
Và giờ đây, cho dù trải qua bao thời kỳ chiến tranh cũng như từng trải qua bao thời kỳ lịch sử mở mang kiến thiết, phát triển văn hóa, xã hội. Nhưng thành phố Hội-An đã may mắn, tránh thoát khỏi được các hình thức thực hiện dự án trong các chương trình nhằm chỉnh trang đô thị hóa toàn bộ phố phường. Do nhờ vậy mà bây giờ Hội-An còn giữ đựợc nhiều đường nét cổ kính, và được coi như là một thành phố xưa mang đậm tính nhân văn xã hội trong nếp sống của người dân vào thời bấy giờ. Nói cách khác, Hội-An là thành phố cổ duy nhất của Việt-Nam mà trong quá trình kiến tạo phát triển đã tránh thoát khỏi được tình trạng đô thị hóa toàn bộ phố phường, và hiện còn được bảo tồn với nhiều di sản văn hóa xã hội dân gian địa phương thật là phong phú và đa dạng.

Kiến trúc nhà cửa Hội-An xưa
Là thành phố có địa hình nhỏ hẹp trực thuộc tỉnh Quảng-Nam, Hội-An có vị trí nằm cách Đà-Nẳng 30km về phía Đông-Nam, và có bờ biển dài 7km cùng với bãi cát trắng thiên nhiên nên thơ chạy dài theo Cửa Đại. Ở Hội-An cái gì cũng nhỏ! Từ căn nhà, con đường, cái chợ, hàng quán v.v đều được nằm thu gọn trong một diện tích tự nhiên toàn thành phố cũng nhỏ, cùng với sự thống kê cho biết vào năm 2009 có được 90.543 người. Riêng về diện tích các hải đảo, thì đã chiếm lên đến khoảng ¼ trong toàn phần của dải đất Hội-An.
Hội-An khi xưa bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 là một phố cảng thuyền buồm đầu tiên tiếp xúc với các thương thuyền nước ngoài, cũng như cùng lúc đón nhận các giáo sĩ Bồ-Đào-Nha, Hà-Lan, Pháp đến từ ở phương Tây. Và họ gọi tên của Hội-An là Faifo, do đọc trệch ra theo thổ âm là Hoài-Phố vào lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sự có mặt cộng cư của hai sắc dân Nhật, Hoa đã được lịch sử xã hội địa phương ghi nhận là những thành phần từng đến với người dân ở Hội-An sớm nhất.

Hội quán Phúc-Kiến
Và người Hoa họ đến Hội-An với con số đông hơn, nhất là vào thời kỳ nhà Minh suy tàn cho nên họ có nhiều điều kiện dễ dàng để đứng ra tạo thành các hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, tương thân, tương trợ v.v. Do vậy, ngày nay các di tích chùa chiền, bang hội của họ còn để lại trên đất Hội-An khá nhiều như nào là chùa Kim-An (Phúc-Kiến năm 1792), chùa Ông Bổn (Triều-Châu năm 1845), chùa Quỳnh-Phủ (Hải-Nam năm 1875), chùa Quảng-Triệu (Quảng-Đông năm 1885) v.v.
Còn người Nhật-Bản đến với Hội-An trước hay sau người Hoa, thì cũng có thể còn được nằm trong dấu hỏi. Nhưng chứng tích trên các bia mộ cổ của những thương gia Nhật-Bản hiện nay ở Hội-An, thì nó đã cho người ta thấy là đã có sự hiện diện của họ trên cục đất nầy rất lâu đời. Đó là trường hợp ngôi mộ của ông Gu-Sokukun, có ghi niên đại xây vào năm 1629. Ngôi mộ của ông Tani-Yajirobei quê ở Hirado (Nagasaki) được khắc rõ 2 chữ Nhật-Bản và ghi có niên đại 1647. Và ngôi mộ của ông Banjiro có ghi niên đại 1665, đặc biệt phía sau bia mộ có ghi văn tự bằng tiếng Nhật, và thường được dòng tộc hậu duệ đời thứ 21 thường có đến viếng thăm. Vả lại, từ lâu ba ngội mộ nầy cũng đã được đồng bào địa phương thường xuyên giữ gìn, và chăm sóc việc khói hương như là người thân thuộc của quê làng.

Ngôi mộ của ông Tani-Yajirobei
Theo tài liệu thống kê chính thức của năm 2000, thì tại địa bàn Hội-An đã có tới 1.360 di tích. Và về các di tích, thì được chia ra làm thành nhiều loại gồm có: 1 cầu, 5 hội quán, 11 giếng nước cổ, 19 chùa, 23 ngôi đình, 38 nhà thờ tộc, 43 miếu thờ thần, 44 ngôi mộ cổ và 1.068 nhà cổ. Nói riêng, có khoảng hơn 1.100 di tích trong số nầy nằm trong khu cực thành phố cổ. Trong số các nhà cổ đó, thì có ba ngôi nhà cổ rất đẹp. Đó là nhà cổ Quân-Thắng có niên đại gần 150 năm, nhà cổ Phùng-Hưng xây dựng vào năm 1780 có tuổi thọ hơn 200 năm, lưu truyền đến thế hệ thứ tám và được công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Nhà cổ Phùng-Hưng
Đặc biệt là nhà cổ Tấn-Ký được xây dựng lên gần 200 năm với phần nội thất được trang trí bằng những vật liệu rất tốt bền vững với thời gian. Cho đến nay, nhà cổ Tấn-Ký là nơi lưu truyền cư ngụ đến cả bảy thế hệ trong một gia đình, và hằng năm có con số du khách viếng thăm lên tới hàng chục vạn người. Đây là ngôi nhà cổ duy nhất tại Hội-An, từ lâu đã được các nhà nguyên thủ quốc gia cũng như quốc tế từng có đến tham quan. Hiện nay, ngôi nhà cổ Tấn-Ký đã chính thức được Bộ Văn-Hóa xếp vào hạng di tích lịch sử văn hóa đặc biệt.

Nhà cổ Tấn-Ký
Giờ đây, cả ba ngôi nhà cổ nầy được coi như là tiêu biểu cho hình thức kiến trúc xưa của một thời phố Hộị còn giữ nét nguyên vẹn sắc màu truyền thống xây cất bằng vật liệu gỗ quý đen mun bền vững tuyệt vời, cùng với mái ngói âm dương chất lượng cao vươn ra chống chọi lại mưa nắng gió sương khắc nghiệt. Và rồi theo từng dãy tiếp dãy ngôi nhà cổ kính quanh co mà khi mới nhìn thoáng qua, thì người có cảm tưởng rằng là cảnh quan ở phố cổ nầy cái gì cũng bị ngả màu rêu phong phủ kín như hình ảnh của một bức tranh tĩnh vật im lìm.
Tuy nhiên, ngày nay dấu ấn di sản văn hóa thế giới của bức tranh toàn cảnh Hội-An không chỉ nằm ở trong đất liền mà nó còn vươn tận ra ngoài hải đảo. Và như mọi người đều biết, cù lao Chàm là một xã đảo của Hội-An nằm cách Cửa Đại 15 km, từng đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào năm 2009 do nhờ có điều kiện khí hậu trong lành, quanh năm mát mẻ cùng với một hệ động thực vật được các nhà khoa học đánh giá rất là đa dạng, phong phú.

Cù lao Chàm
Đến với cù lao Chàm, người ta sẽ có dịp ngắm nhìn được những rạn san hô muôn sắc, muôn màu tuyệt đẹp chìm sâu dưới làn nước xanh lơ, và chứng kiến được hoạt cảnh của những đàn yến bay nhanh uốn lượn vào bầu không khí trong những buổi chiều tà, hoàng hôn nắng nhạt. Cù lao Chàm là một quần thể bao gồm có 8 đảo là hòn Ông, hòn Tai, hòn Dài, hòn Lá, hòn Lao, hòn Mồ, hòn Khô mẹ và hòn Khô con, cùng với tổng số dân không quá 3.000 đầu người. Và cũng chính vì nhờ có nhiều lợi thế, mà cù lao Chàm bây giờ từng được mệnh danh là một thiên đường biển duy nhất, rất thích hợp cho những thành phần du khách kén chọn tìm đến tham quan một địa điểm có môi trường thiên nhiên trong sạch. Hơn thế nữa, cù lao Chàm cũng còn là một nơi từng đạt được thành tích về công ích bảo vệ môi trường sinh thái mà hầu hết các địa điểm du lịch khác ở trong nước hằng mơ ước. Đó là thành tích đạt được tiêu chí hai không: -Không có túi ni lông, và Khôngcó rác thải.

Cảnh đẹp như tranh ở cù lao Chàm
Do vậy, chính vì cảnh quan non nước cù lao Chàm có sức lôi cuốn khách lãng du một cách khác thường. Cho nên, ngày nay thương hiệu du lịch cù lao Chàm không còn là của riêng của thành phố Hội-An nữa, mà nó đã tự bùng nổ trở thành của chung của các công ty quảng bá du lịch ở khắp cả thành phố lớn như Đà-Nẳng, Huế, và nói chung là ở khắp cả nước.

Lặn ngắm san hô ở cù lao Chàm
Nếu ở trên đất liền Hội-An, trong khi du khách chưa đi viếng thăm các làng nghề và thánh địa Mỹ-Sơn, thì thời gian kế tiếp sẽ không có gì lý thú cho bằng phải ra hải đảo, để có dịp tiếp tục thưởng thức thiên nhiên với quang cảnh bao la trời nước, núi đồi có dáng vẻ thơ mộng hữu tình. Trên chiếc thuyền bồng bền trên mặt nước hay trên chiếc xe đạp chạy quanh co, du khách sẽ bắt gặp những cảnh vách đá dựng bị sóng đánh từng đợt trắng xóa quanh năm tạo thành nên các hình thù quái dị khác nhau. Còn cạnh bên, là những bãi cát trắng mịn chạy dài như muốn nối liền cùng nhau giữa các hải đảo. Và quần thể cù lao Chàm đó cũng đã là một hải đảo mà từ lâu người dân địa phương từng tự hào, là có ý thức bảo vệ làm tốt môi trường sinh thái hơn bất cứ nơi nào khác. Họ, (các dịch vụ giải trí) sẽ chào đón du khách bằng với tất cả tấm lòng thân thiện, cởi mở và lúc nào cũng sẵn sàng muốn có dịp lắng nghe qua mọi sự trao đổi ý kiến để phục vụ cho du khách được hài lòng. Do vậy, mặc dù các dịch vụ vui chơi giải trí tại đây tuy không nhiều nhưng nó thể hiện ra được cái tình người dân dã muốn giỡn sao thì nói vậy người ơi! Vả lại, du khách cũng sẽ rất thú vị khi nghe anh lái đò nói chuyện vui đùa với giọng Quảng rặc rằng đội ngũ thuyền chèo của cù lao Chàm lúc nào cũng cố gắng...chạy tới bến, để đưa khách lãng du qua tận bên bờ.

Một góc nhìn ở cù lao Chàm
Ở cù lao Chàm, ngoài cái thú vị được ngắm nhìn thế giới đại dương thiên hình vạn trạng của màu sắc lung linh phản chiếu từ những rạn san hô kỳ ảo, cùng với đủ loại mực, ốc, cua, sứa, cá có hình thù khác lạ xinh đẹp muôn màu kéo nhau lội theo từng đàn. Rồi thì, du khách lại còn có dịp nhìn thấy thêm cả các tổ yến bám chặt theo những vách đá cheo leo từ trong hang núi.

Tổ yến trong hang động
Càng lý thú hơn, là khi du khách bất ngờ tìm hiểu thêm được về nghề khai thác yến ở cù lao Chàm đã đi vào hoạt động từ cả trăm năm qua với một nguồn lợi nhuận thu vào rất lớn, và được ví như là một loại vàng trắng với giá cả trên thị trường hiện nay là trên dưới khoảng 3.000USD/kg. Tuy nhiên, bên cạnh đó thì việc làm bóc gỡ các tổ yến của những người công nhân lao động, thì chẳng khác nào hình ảnh của những người dơi treo mình đu đưa qua lại trên những chiếc thang tre được nối dài cao nghệu từ dưới đất lên tới nóc hang động. Chính vì vậy mà nó đòi hỏi đôi chân, bàn tay của người công nhân lúc nào cũng phải hết sức cẩn thận đề phòng từng chút một trong lúc xê dịch khi gỡ tai yến. Còn yến sào khi được đem ra bày bán thì như ai cũng biết, là ngoài công dụng hiệu nghiệm về y dược thì món ẩm thực nầy lúc nào cũng có chất lượng cao đúng theo như ý nghĩa giá trị đặc biệt của nó, là loại cao lương mỹ vị, mắc tiền. Và cho dù bây giờ với phương pháp kỹ thuật mới, là người ta làm nhà, làm tổ rồi dùng còi âm thanh réo gọi đàn yến về ở tổ thì đã tránh được sự nguy hiểm cho công nhân, giảm thiểu được thời gian trong quy trình thu hoạch, nhưng loại ẩm thực nầy bao giờ cũng không phải là quen thuộc đối với những thành phần con người có mức thu nhập bình dân.

Khai thác gỡ tổ yến trong hang động
Hiện nay, vì cù lao Chàm còn chưa được khái thác mở mang du lịch đúng mức như không có nhà nghỉ cao cấp, khách sạn, nhà hàng cho nên số du khách thường đến tham quan trong ngày rồi về. Do vậy, đối với những người nào yêu thích với thiên nhiên thì họ cảm thấy rằng cần phải kéo dài thêm thời gian lưu lại ở nơi đây, để có dịp khám phá ra thêm về nét sinh hoạt êm ả địa phương. Và họ đã chọn phương tiện đến ở cùng nhà dân, hay nhà nghỉ đơn sơ nhưng vẫn có đầy đủ với tiện nghi của nơi hải đảo. Rồi họ sẽ có dịp lên rừng thám hiểm chim muông, cây cối xinh đẹp hoang dại hay trở lại viếng thăm một lần nữa các thắng cảnh địa phương như nào là hang Bà, hang Tò-Vò, suối Mơ, suối Tình, hòn Bao Gạo. Hoặc họ muốn cần chụp thêm vài tấm ảnh có màu sắc văn hóa ở cù lao Chàm như Lăng tiền hiền, chùa Hải-Tạng xây dựng vào năm 1758, miếu thờ tổ nghề Yến từ năm 1843, giếng xóm Cấm, lăng Ông Ngư, khu di chỉ Bãi Ông, Bãi Làng v.v.

Chùa Hải-Tạng ở cù lao Chàm
Trở lại nét văn hóa và thắng cảnh đa dạng của mảnh đất Hội-An, người ta không thể nào không thể tìm đến tham quan những làng nghề truyền thống như làng rau Trà-Quế, làng gốm Thanh-Hà, làng mộc Kim-Bồng, và làng đúc đồng Phước-Kiều. Làng đúc đồng Phước-Kiều trong những thập niên trước đây được kể như là có nguy cơ mai một, nhưng nhờ thời cơ du khách ngày càng đến tham quan phố cổ Hội-An nhiều hơn, cho nên ngày nay nghề nầy như đã được dịp hồi sinh. Còn làng rau, làng mộc và làng gốm thì nhờ ở sát cạnh thành phố Hội-An cho nên đã được rất nhiều du khách thường xuyên cỡi xe đạp, hay đi bách bộ thể thao tới lui thăm viếng.
Tại làng Rau-Quế, người nông dân địa phương trồng đầy những loại cọng rau thơm, tía tô, diếp cá, quế, húng, xà lách, hẹ, hành, ớt, rau muống, ngò v.v. Và từ xa khi mới thoáng nhìn vào, người ta cứ tưởng đó là vườn hoa được trồng ngay hàng thẳng lối.

Làng rau Trà-Quế
Còn làng gốm Thanh-Hà thì đã có mặt tại địa phương từ hàng trăm năm qua và có nhiều cơ hội để ngày càng mở mang phát triển, vì nhờ có tinh thần biết duy trì ngọn lửa yêu nghề của những gia đình sinh sống kế nghiệp theo truyền thống cha truyền con nối. Đặc biệt, là làng mộc Kim-Bồng bắt đầu phát triển từ cuối thế kỷ 16 là một nơi đã từng cống hiến nghệ thuật tạo nên những công trình kiến trúc phố thị cổ Hội-An, cũng như về kỹ thuật đóng ghe thuyền và chế tạo thành đồ gia dụng. Ngày nay, mỗi khi người ta có dịp viếng thăm các ngôi nhà cổ hay các đình làng, chùa miếu, hội quán ở địa phương thì sẽ thấy rõ ràng về nghệ thuật thiết kế nội thất trong đó thật là khéo léo. Nhất là khi nhìn vào những tác phẩm có đường nét chạm khắc trên các cột kèo, án thư, bàn ghế, tủ giường trong phố cổ nầy thì người ta phải hiểu rằng, đó chính là do bàn tay của những người thợ mộc ngày xưa ở tại làng nghề Kim-Bồng gọt đẽo công phu kết chặt thành hình. Và, hơn thế nữa, vào lúc bấy giờ thì những người thợ mộc tài hoa ở Kim-Bồng cũng còn được triều đình Huế trọng dụng triệu về kinh đô để tiếp tay thực hiện các công trình xây dựng ở cung đình.

Nét đẹp kiến trúc của Nhà Bảo-Tàng Văn-Hóa Dân Gian Hội-An

Du khách và nét đẹp phố cổ Hội-An
Giờ đây, hầu hết du khách đến viếng thăm phố cổ Hội-An bé nhỏ thì không ai quên ghé qua các hệ thống Bảo-Tàng chuyên đề nằm ở các địa điểm khác nhau. Riêng Nhà Bảo-Tàng Văn-hóa Dân Gian ở Hội-An thì tọa lạc trong một ngôi nhà cổ điển hình cho lối kiến trúc xưa tại địa phương, và từ lâu đã được khánh thành vào năm 2005. Trong không gian nhỏ hẹp, nơi đây có trưng bày giới thiệu về bề dày lịch sử văn hóa địa phương bằng với các loại hình sáng tạo nghệ thuật dân gian. Cùng với các chứng tích hình ảnh sinh hoạt cộng đồng mang tính biểu tượng, thể hiện ra đường nét giá trị văn hóa phi vật thể của nhiều thế hệ cư dân trong quá trình giao lưu sinh tồn nơi bản địa. Ngoài ra, các bảo-tàng chuyên đề khác như Văn-Hóa Sa-Huỳnh, Lịch-Sử Văn-Hóa, Gốm Sứ Mậu-Dịch cũng đã có trưng bày những hiện vật giá trị thời niên đại cổ trên dưới 2000 năm. Nói chung, là thông qua những hiện vật đã được các nhà khảo cổ khai quật, các báu vật sưu tập của dân gian, các mô hình văn hóa thể hiện mọi hình thức sinh hoạt văn nghệ như múa hát bài chòi, bả trạo. Cũng như, các sản phẩm thủ công công phu thẩm mỹ, chất lượng cao trải qua nhiều thời kỳ niên đại của lớp người cộng cư đã phản ảnh được rất nhiều về phần hồn, và màu sắc đa dạng của phố cảng thuyền buồm Hội-An ngày xưa nằm trên trục giao thông của các thương thuyền qua lại trên thế giới.
Và sau khi tham quan các hệ thống Bảo-Tàng chuyên đề nơi phố cổ Hội-An, thì một địa điểm du lịch nổi tiếng quốc tế khác cũng vô cùng hấp dẫn, ngoạn mục không kém cũng nằm chung ở trên dải đất Quảng-Nam đang chờ đón tất cả mọi thành phần du khách viếng thăm. Đó là thánh địa Mỹ-Sơn khoảng cách Hội-An 40km, một công trình kiến trúc tháp cổ Chàm đã được tổ chức UNESCO bình chọn là di sản văn hóa thế giới vào năm 1999 ở tại Marrakech (Maroc).

Thánh địa Mỹ-Sơn một thời vàng son rực rỡ

Họa tiết trang trí trên tháp Mỹ-Sơn
Mỹ-Sơn là thánh địa Ấn-Độ giáo của vương quốc Chămpa, gồm có một quần thể tháp Chàm được xây cất lên kể từ thế kỷ IV từng có một bề dày lịch sử văn hóa vàng son rực rỡ. Khu di tích Mỹ-Sơn đã được phát hịện đầu tiên, vào năm 1885. Và trải qua sau hai giai đoạn nghiên cứu từ năm 1898 cho đến năm 1904 của các nhà khảo cổ như Louis de Finot, Lunet de Lajonquière, Henri Parmentier v.v. Sau cùng, người ta được biết rằng họ đã phân loại khu di tích nầy ra thành 7 phong cách nghệ thuật được kiến tạo theo quá trình tiến triển trong số trên 70 công trình kiến trúc. Và sự kết cấu của mỗi cụm kiến trúc tuy có khác nhau về niên đại, nhưng về hình thức nghệ thuật xây dựng tổng quát đều theo cùng một phương pháp với quy trình giống như nhau. Và ngày nay, nhờ có bia ký còn lưu lại mà ngườì ta được biết là vua Bhadravarman chính là người đầu tiên sáng lập ra thánh địa Mỹ-Sơn vào thế kỷ IV sau công nguyên. Những vì vua kế nghiệp sau khi đăng quang thì đều phải đến Mỹ-Sơn để dâng cúng lễ vật tạ ơn các vị thần và tưởng niệm các đấng tiên vương, cùng lúc với việc trùng tu, xây cất thêm những tháp mới dành cho hậu sự. Nói cách khác, thánh địa Mỹ-Sơn chính là một khu lăng tẩm hoàng gia mà cũng là trung tâm đền tháp Ấn-giáo của vương quốc Chămpa nằm trong khu vực Đông-Nam-Á.
Trong bia ký số XII, bài minh thứ hai khắc năm 1081 ở tháp D3 nói về thời điểm vào niên dại 1003 trình bày về những đồ cúng tiến của nhà vua Harivarma được viết bằng chữ Phạn có đoạn được dịch ra như sau:
Kính chào,
Cúi lạy thần Siva,
Đức vua Praleyesvatra Dharmaraja thuộc dòng tộc Narikela (tộc Dừa) là người sinh ra người thừa kế ngoan ngoãn trong dòng tộc Kramuka (tộc Cau). Người thừa kế nầy có con trai là vua Harivamadeva, một người có tấm lòng đầy nhiệt thành với công việc hoàng gia, đã xua đi bao nhiêu điều xấu của Chămpa, và ngay trong kỷ nguyên Kali nầy, còn làm cho đất nước phồn vinh trên thế giới nầy chứ không hề có gì suy vi cả....
Một bài minh khác được khắc trong đền Mỹ-Sơn bằng chữ Chàm trên cây cột bia ký số XXV, niên đại 1156 SAKA (năm 1234 sau công nguyên) với bản dịch như sau:
Đây là Vua, hoàng thượng Sri Jaya Paramesvaravamadeva, tức On Ansaraja của Turai-Vijaya. Suốt thời gian thảm họa của cuộc chiến do người Cambodge gây ra kéo dài 32 năm, Ngài là vị vua duy nhất (Ekaechatra) ở vương quốc Chămpa. Ngài đã cho phục dựng lại tất cả những linga ở phía nam như các linga của Yàn Pu Nagara. Và các linga ở phía bắc như linga của Srisanabhadresvara. Ngài cũng đã cúng một kosa bằng bạc cùng với khuôn mặt vàng, và một kosa của Bhrgu cùng tất cả những vật dụng bằng vàng bạc vào năm 1156.

Vết tích điêu tàn ở Mỹ-Sơn

Sinh thực khí Linga ở Mỹ-Sơn
Tổng hợp ý nghĩa của toàn bộ bia ký tại đền tháp Mỹ-Sơn, người ta được hiểu dân tộc Chămpa ngày trước tôn sùng sinh thực khí Linga, và đấng tối cao Siva là vị thần bảo hộ hoàng gia cũng như đất nước tổ tiên của họ. Do vậy, hầu hết những đền thờ chính (Kalan) ở Mỹ-Sơn, người ta nhận thấy đều phải có một trong hai hình ảnh biểu tượng đó, nó có ảnh hưởng sâu đậm vào trong đời sống văn hóa tâm linh của họ. Riêng về mô hình kiến trúc xây dựng nên đền tháp Mỹ-Sơn, cho dù nó có mang hình ảnh sắc thái hội tụ gồm bằng nhiều phong cách. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đạt được tính thuyết phục rõ ràng, về kỹ thuật (công thức nguyên liệu) nào làm cho dính trết với nhau giữa từng những viên gạch, những mảnh trang trí bằng sa thạch ở chung quanh. Còn về nghệ thuật tạo nét họa tiết trang trí đền tháp Mỹ-Sơn, thì nó toát ra được một hình thức điêu khắc Chăm mang ảnh hưởng sâu đậm của Ấn-Độ thể hiện sự độc đáo về sức sống nội tâm sâu lắng của con người, qua những đường nét hình tượng tượng trưng về bức tranh tổng thể trong quá trình sinh hoạt xã hội dân gian với thiên nhiên cỏ cây, cầm thú. Khu đền tháp Mỹ-Sơn là vùng đất thiêng của người Chăm về mặt văn hóa tâm linh, và Đồ-Bàn (Vijaya) là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chămpa.
Trở lại các di sản văn hóa lịch sử của những thành phần sắc dân cộng cư ở mảnh đất Hội-An ngày trước, thì người ta không thể nào không nhắc đến trước tiên một công trình phúc lợi xã hội của người Nhật-Bản. Đó là Chùa Cầu.

Chùa Cầu trong đêm lồng đèn
Được chính thức chọn làm hình ảnh biểu tượng cho thành phố cổ Hội-An ngày nay, chùa Cầu ngày xưa là một cái cầu bằng gỗ đã được người Nhật-Bản xây cất lên vào khoảng thế kỷ 17. Trước năm 1653, thì người ta gọi tên của nó là cầu Nhật-Bản hay là Lai-Viễn-Kiều. Sau đó, vì có một ngôi chùa dựng lên kề bên cho nên lần lần người ta quen gọi ra thành tên chùa Cầu thay vì phải gọi là cầu Nhật-Bản. Và trong chùa Cầu hay cầu Nhật-Bản đó, thì không có thờ Phật. Cầu Nhật-Bản được xây dựng bằng gỗ, sơn son chạm trổ rất công phu và có chiều dài 18m theo dáng hình chữ Công, bắc qua con lạch thông ra sông Hoài. Về sau, trải qua mấy đợt trùng tu thì hình ảnh của cầu Nhật-Bản đã bị biến dạng theo lối kiến trúc cổ của người Nhật, nhưng hai hình tượng linh vật theo tín ngưỡng vật tổ của nước Nhật ngày xưa (một đầu là tượng khỉ, một đầu là tượng chó) ngồi chầu trước cổng vẫn hãy còn nguyên vẹn như cũ. Và ngày nay, dường như là hầu hết tất cả những du khách Nhật-Bản nào mỗi khi có dịp đến tham quan chùa Cầu, thì họ cũng không bao giờ quên tưởng niệm thắp một nén hương.

Biểu tượng phố cổ Hội-An
Đối với người dân Hội-An, thì cầu Nhật-Bản là một hình ảnh đẹp, một công trình di sản kiến trúc văn hóa nghệ thuật quý hiếm, đánh dấu mối tương quan giao hảo cộng đồng đầy ý nghĩa thân tình giữa những lớp người cộng cư trên địa bàn sở tại trong thời quá khứ. Và ngày nay, vô hình trung nó đã trở thành một chiếc gạch nối liền kỷ niệm thân tình của hai dân tộc Việt-Nhật. Chính vì lẽ đó, mà bây giờ cả hai quốc gia đều thừa nhận cây cầu Nhật-Bản là cái mốc giao lưu lịch sử văn hóa hai chiều, để cùng nhau trao đổi tín hiệu văn hoá nghệ thuật, tiếp tục phát huy tình hữu nghị lâu bền sẵn có thêm được sâu đầy hơn nữa. Do vậy, cho nên hàng năm ngay tại khu chùa Cầu Hội-An đều có diễn ra ngày lễ hội giao lưu văn hóa Việt-Nhật trong bầu không khí nhiệt tình vui vẻ. Vả lại, từ lâu đối với người trong xứ Nhật-Bản thì địa danh phố cổ Hội-An Việt-Nam tuy họ chỉ có dịp nhìn thấy có dấu chấm trên bản đồ, nhưng đối với những thành phần lãng du nào đó, thì hình ảnh Hội-An ngày nay đã trở nên quen thuộc. Lý do, vì họ là những du khách yêu mến đất nước Việt-Nam, và từng có đến với phố cổ Hội-An ít nhất cũng một hoặc vài lần.
Và trong những ngày xảy ra lễ hội giao lưu văn hóa Việt-Nhật đó, thì nước bạn cũng đã phối hợp cùng với người dân Hội-An cùng nhau tổ chức những chương trình trình diễn văn hóa nghệ thuật thuần túy của hai dân tộc. Mặc dù các tiết mục trình diễn trong chương trình tổ chức lễ hội hằng năm đều có sự thay đổi, nhưng hình ảnh của những màn ca hát, các điệu múa dân gian dặc biệt là điệu múa Bon (Bon-Odon), trình tấu âm nhạc, biểu diễn võ thuật kiếm pháp Samurai, thuyết trình và giao lưu thư pháp. Cũng như về nghệ thuật ẩm thực, nghệ thuật xếp giấy từ cái lồng đèn, cá chép, cây nêu v.v kiểu mẫu Nhật-Bản, thì lúc nào cũng đều được người dân phố cổ Hội-An cùng hàng du khách bốn phương tán thưởng hoan nghinh nhiệt liệt. Và bên cạnh đó, thì người dân Hội-An cũng mời lại họ cùng tham gia vào những cuộc tranh tài như kéo co, thi lắc thúng chai, thả diều, thả hoa đăng, thi đua ghe, thậm chí cả chơi bài chòi v.v.
Nghệ sĩ Nhật-Bản trình diễn trong ngày lễ hội giao lưu
văn hóa"Hội-An-Nhật-Bản"
Múa kiếm Samurai
Đặc biệt, trong năm vừa qua nhân ngày kỷ niệm đánh dấu 40 tình hữu nghị giữa hai quốc gia Việt-Nhật, người dân Hội-An lại có thêm được dịp mở hội đón tiếp rất nhiều yếu nhân, cũng như các thành phần du khách bạn đến từ xứ Nhật. Họ đến tham gia cùng Hội-An - Japan Festival với tính cách là những người bạn cố tri, để cùng nhau củng cố tình kết nghĩa bạn bè láng giềng tốt đẹp. Và đồng thời, họ cũng có mang theo những tín hiệu phấn khởi về phương án tài trợ trùng tu các công trình di sản thế giới có tính cách giá trị văn hóa lịch sử cần phải được bảo tồn nơi phố cổ.

Liên hoan lễ hội Hội-An Japan
Trong dịp nầy, một số nghệ sĩ, diễn viên nổi tiếng ở Nhật-Bản cũng có mặt tham gia chương trình liên hoan văn nghệ hào hứng kéo dài trong những đêm ngày thu hút hàng vạn khán giả lần lượt đến xem thích thú. Và về phần chủ nhà, thìngười dân Hội-An cũng có trình diễn văn nghệ hợp xướng, múa trống Cơm, trình nghề và trưng bày nhiều loại sản phẩm thủ công mỹ nghệ địa phương, đặc biệt là lồng đèn. Vào lúc đó, thì trên đường phố du khách tràn ngập ghé vào các cửa tiệm bày bán la liệt đủ loại mặt hàng từ đồ gia dụng tới quà kỷ niệm như bánh kẹo, áo quần, giày dép đến tranh vẽ, thư pháp v.v. Còn các quán bar, nhà hàng thì chật ních người nhưng hình như ai nấy cũng đều tự nhìn thấy được phảng phất có một sự lắng sâu gợi tình dưới bầu không gian trong ngày lễ hội.
Ngoài ra, tại Hội-An cũng còn có xảy ra những ngày lễ hội hằng năm khác làm khuấy động không khí êm ả của ngày thường nơi phố cổ như nào là lễ vía bà Thiên-Hậu, lễ vía bà Thu-Bồn, lễ tế cá Ông, lễ giỗ tổ nghề Yến, lễ rước Long-Chu, lễ dự hội cầu Bông v.v. Và cũng đã được người dân địa phương đứng ra tổ chức thật là chu đáo, trang nghiêm và vui vẻ.
Sau cùng, là mới đây hình ảnh của "Festival Di-Sản Quảng-Nam 2013" vừa quađã từng thu hút được con số du khách kỷ lục đến phố cổ Hội-An, và để lại cho họ rất nhiều ấn tượng về tính địa phương với bản chất con người sở tại. Nhất là sau khi họ có dịp tham dự đêm liên hoan nghệ thuật các dân tộc Việt-Nam với sự góp mặt của các nghệ sĩ ở khắp vùng miền trong nước. Vả lại, du khách cũng đến đúng vào dịp có cuộc thi "Hoa-Hậu Các Dân-Tộc Việt-Nam" lần thứ 3 đã tổ chức vòng chung kết xảy ra tại Hội-An. Cho nên, ngày lễ hội đó cũng là cơ hội tốt cho du khách nhìn thấy về nét duyên dáng của những người đẹp đại diện cho các dân tộc anh em trong toàn quốc hội tụ về đây lưu lại những bức chân dung bên cạnh chùa Cầu, thánh địa Mỹ-Sơn v.v.

Các thí sinh trong cuộc thi
"Hoa-Hậu Các Dân-Tộc Việt-Nam" năm 2013
trong cuộc hành trình đến tham quan thánh địa Mỹ-Sơn
Đi trước các thắng cảnh ở trong nước về phong trào quảng bá du lịch địa phương ra thế giới bên ngoài, phố cổ lụp xụp Hội-An tuy địa hình nhỏ hẹp nhưng lại có yếu tố chiều dài về hoàn cảnh xã hội, lịch sử tiếp cận giao thương hàng hải với thuyền tàu quốc tế qua lại trên đường biển. Do vậy, ngày nay cho dù có cách nhau về hoàn cảnh không gian, khác nhau về thành phần thế hệ nhưng sở dĩ họ (du khách quốc tế) đã trở lại đến với Hội-An, là không phải vì họ muốn được tìm hiểu nhìn thấy thành phố nầy đã đổi thịt thay da, văn minh phát triển đến như thế nào! Ngược lại, sự cảm khái của họ chính là muốn còn có dịp đến đây để sống lại trong một thành phố cổ xưa từng có tiếng lưu truyền mang nhiều nét đẹp truyền cảm của đất và người. Đó chính là một sự thành tâm hảo ý của du khách, mà phần còn lại, là tùy vào sự bén nhạy thân tình biết nắm bắt cơ hội lâu bền của người dân ở phố cổ Hội-An.
Và những phương cách để cầm chân họ, cũng sẽ không phải là các hình thức vui chơi giải trí hiện đại mà họ đã quen thuộc từng thấy như ở bất cứ nơi nào cũng có. Ngược lại, chính những thú vui giản dị, thân tình như mời họ cùng tát nước, trồng rau, thưởng thức món bánh đập dân dã đơn sơ. Hay ăn món cao lầu, món mì Quảng, bánh hoa hồng trắng, bành xèo chiên dòn v.v. Và đặc biệt, là hãy mời họ cùng du ngoạn trên những chiếc xe trâu thì chắc chắn đó là một kỷ niệm rất khó phai mờ.

Hình thức du ngoạn bằng xe trâu ở Hội-An
Còn nữa, không khí sinh hoạt về đêm trên phố cổ Hội-An cũng không kém phần ngoạn mục với khung cảnh của những chiếc lồng đèn đỏ thắp sáng được nhìn thấy treo lủng lẳng ở khắp nơi nơi nhà nhà, đường phố là một hình ảnh đặc biệt đối với hầu hết mọi thành phần du khách. Đáng chú ý hơn nữa, là có những chiếc đền lồng cổ sản xuất ra tại Hội-An có tuổi tính bằng hàng thế kỷ đã được các thế hệ con cháu giữ gìn cẩn thận coi như là vật gia bảo, và chỉ đem thắp sáng duy nhất trong đêm lồng đèn ở Hội-An. Đặc biệt, hơn thế nữa là đúng vào những đêm rằm hằng tháng, thì phố cổ Hội-An hoàn toàn rất yên lặng vì mọi sự hạn chế sử dụng nhiên liệu xăng dầu, điện năng. Và khi màn đêm buông xuống, thì phố phường tràn ngập ánh lồng đèn soi bóng sáng lung linh huyền ảo. Bầu không gian như miền cổ tích gây nhiều thú vị nầy, trong phút chốc, nó có thể sẽ làm cho du khách có cảm tưởng rằng họ đang bị sa vào một cõi hoa đăng lạc cảnh lâng lâng đầy cảm khái tâm hồn!

Thành phố lồng đèn

Đêm lồng đèn nơi phố Hội
Và chính do nhờ ưu thế đó mà người ta tin rằng, với một môi trường cảnh quan thích nghi hữu tình như vậy thì chắc chắn sẽ làm cho họ không phải bị thất vọng, khi quyết định lựa chọn cho mình một cuộc du hành lý thú ở tại thành phố cổ bé tí tẹo nầy. Rồi họ sẽ còn có thêm được dịp mỉm miệng cười, vỗ tay tán thưởng khi đứng cạnh sân khấu lộ thiên Bài Chòi để nhìn xem nghệ sĩ địa phương trình diễn văn nghệ đặc trưng, mà họ (du khách nước ngoài) chỉ có nghe chứ chẳng hiểu gì cả!

Sinh hoạt văn nghệ về đêm trên sân khấu Bài Chòi cạnh sông Hoài
Tuy nhiên, giây phút qua mau và cuộc vui nào cũng phải tàn. Chiếc đèn lồng cuối cùng dưới mái nhà rêu phong đã tắt, trả lại màn đêm lặng lẽ về khuya cho phố cổ soi mình mờ ảo bên cạnh dòng nước sông Hoài. Tiếng mưa rơi nhẹ nhàng như rớt xuống từng giọt lên trên những con đường vắng,có những mái hiên nhà nhô ra uốn lượn quanh co theo góc chợ, ngôi chùa thể hiện ra phong cách của một không gian trầm mặc. Sau giấc ngủ yên lành, thì Hội-An thức giấc lại cũng bằng với những màu sắc hình ảnh sinh hoạt thông thường không có vẻ gì rộn ràng, hối hả. Và cảm nhận chung của mọi người không phân biệt chủ khách thì trong hiện tại, lợi thế của môi trường giao lưu xã hội nơi đây rất là lý tưởng, thích hợp cho những con người muốn tìm về cuộc sống trong một thành phố bình dị, êm ả, trong lành. Hơn thế nữa, theo sự khảo sát sau cùng về các địa điểm thành phố du lịch được yêu thích nhất tại châu Á của tạp chí công nghiệp du lịch toàn cầu "Condé Nast Traveller" đã được công bố kết quả tại New-York trong năm 2013, thì thắng cảnh Hội-An đã được bình chọn xếp hạng thứ nhì sau Kyoto của Nhật-Bản do nhờ có nét thanh tao chinh phục được lòng du khách. Và cũng trong cuối năm 2013, Tổ-Chức Định-Cư Con Người Liên-Hiệp-Quốc (UN Habitat) tại châu Á đã có quyết định bình chọn Hội-An cùng Đà-Nẳng là "Thành phố cảnh quan 2013", do nhờ đạt được tiêu chí môi trường sinh thái, hài hòa sự phát triển đô thị, kết hợp tính nhân văn, duy trì lịch sử văn hóa v.v.
Vinh dự nầy nói riêng của Hội-An, sở dĩ có được là do nhờ vào yếu tố trình độ ý thức cao của người dân tại đây biết linh động, uyển chuyển. Cộng thêm, cùng với các di tích vật thể giá trị tạo thành ra nét đẹp có phần hồn hài hòa dưới bầu không gian sâu lắng, thanh bình ở tại địa phương.
Là một tỉnh duy nhất của Việt-Nam đã có tới hai di sản văn hóa thế giới, và di tích phố cổ Hội-An cùng với thắng cảnh Mỹ-Sơn,giờ đây, đã được người ta ví như là hai hòn ngọc song sinh được tìm thấy trên địa bàn của tỉnh Quảng-Nam ở miền Trung trong thời kỳ bùng nổ về ngành du lịch. Điều nầy, làm cho người dân địa phương bây giờ hết sức lấy làm tự hào, và hãnh diện về lịch sử nước non đặc biệt của quê làng. Chính vì lẽ đó mà từ lâu, họ đã ra sức tìm bằng mọi cách để bảo vệ và quảng bá phát triển thế mạnh về nguồn tài nguyên vô giá ở trên địa bàn sở tại.
Và với quyết tâm làm tốt về hình ảnh địa phương, người dân Hội-An rất có ý thức trong vấn đề giao tiếp, ứng xử với mọi thành phần du khách, và họ luôn luôn tạo cơ hội thân thiện cùng du khách trong tình bè bạn từ lúc sơ giao, bằng sự thành thật của con người nơi phố cổ có nét văn hóa thể hiện ra trong ánh mắt, nụ cười. Chính vì thế, mà phần đông du khách đến thăm Hội-An họ thường mua một vài món quà kỷ niệm, tuy biết rằng những kỷ vật đó đôi khi không phải là sản phẩm xuất xứ ở từ nơi phố cổ. Họ mua vì họ mến đất, mến người Hội-An có một cái gì đó toát ra đã chinh phục được cảm tình của họ, và dĩ nhiên, phút chia tay ấn tượng nào mà không thể không có mang theo về một kỷ niệm lưu luyến từ ở phương xa.
Do vậy, ngày nay người ta có thể nói rằng nếu các chứng tích văn minh đền tháp ở thánh địa Mỹ-Sơn là cục đất từng đã được dát vàng, thì hình ảnh di sản văn hóa phố cổ Hội-An bây giờ cũng phải được coi như là một kho tàng ngọc báu đang nằm ở trong lòng đất ở địa phương khai thác không bao giờ cạn.
Và địa danh hấp dẫn du lịch quốc tế mang tính biểu tượng cho nét đẹp về hình ảnh xứ Quảng-Nam nầy, trong tương lai, phố cổ Hội-An sẽ còn có thêm biết bao nhiêu là dịp, để cho đồng bào trong nước cũng như du khách thế giới bên ngoài tiếp tục thay nhau tìm đến tham quan, khám phá.
An-Tiêm MAI-LÝ-CANG
(Paris)

Toàn cảnh phố cổ Hội-An ngày nay
 
Minh Luân chuyển 
********************


Đến Hội An ăn gì ?

Khi còn cắp sách đường trường  hồi ở Việt Nam ( nói nôm na là dưới thời VNCH trước 1975 ) tôi chưa bao giờ nghe ai nói tới hai chử " Hội An " .
Mãi đến sau này ở Hải Ngoại khi các khách du lịch ngoại quốc bắt đầu khám phá " Hội An " và Hội An trở thành " World Heritage Site by UNESCO  " tôi mới biết là Việt Nam có một thành phố tên " Hội An ".
Lần đầu tiên tôi viếng  " Hội An " , tôi có cảm tình ngay với thành phố này . Một thành phố êm đềm nằm bên dòng sông Thu Bồn ... tui có cảm tình với  " Hội An " có lẻ là vì bản chất hiền hòa của dân địa phương nơi đây .
Ở Hội An tràn ngập du khách trong và ngoài nước, dòng người nườm nượp dạo bước phố cổ và nếm thử đủ các món ăn vặt lề đường như một trải nghiệm thú vị. Không chỉ hấp dẫn bởi cảnh sông nước, thú đi thuyền giữa lòng thành phố, đèn lồng lung linh hàng đêm làm cả khu phố vừa rực rỡ, vừa trầm mặc… mà hơn cả là sự chân tình và mến khách của người Hội An.
Ẩm thực ở Hội An vốn nổi danh với vô vàn món ngon. Có thể liệt kê sơ qua vài món mà đã thấy cồn cào: cao lầu, mì Quảng, cơm gà, tàu hũ nước đường (tào phớ), bắp nướng, chè bắp, bánh đập, bánh vạc (bánh bông hồng trắng), bánh bèo, bánh xèo, bánh khọt, hến xúc bánh tráng… Với tôi thì mì Quảng, cơm gà và tào phớ là những món có thể ăn hoài mà không biết ngán. Những quán mì Quảng, cơm gà ngon nhất phố Hội bao giờ cũng được ghi nhớ và truyền tai như một món quà dành tặng nhau khi về Hội An.
 
Tô mì Quảng Hội An
Bạn tôi nhắn nhủ, về món mì Quảng, phải đến hàng ông Hai ở đường Trương Minh Lượng nhé, hay ăn mì Quảng gánh dì Hát bến sông Hoài, hoặc mì Quảng Phú Chiêm trên đường Nguyễn Huệ.
Còn cơm gà trứ danh phải kể đến cơm gà bà Buội ở đường Phan Chu Trinh, cơm gà Hương kiệt Sica trên đường Lê Lợi.
  
Cơm gà
 
Cao lầu
Từ khoảng 3h chiều, xe máy đã bị hạn chế lưu thông, chỉ có dòng người đi bộ hoặc vài chiếc xe đạp, xích lô đi rất chậm rãi. Đó cũng là thời điểm thích hợp để thưởng thức các món hang rong, ngồi cà phê ngắm phố cổ thật yên bình và êm ả. Khi ngồi ở những quán cà phê, có cảm giác bạn chỉ cần đưa tay ra đã chạm vào dòng người trên phố.
Đêm về, khi lồng đèn đủ mọi màu sắc đã được thắp lên, dọc bờ sông là các gánh, xe hàng rong tấp nập. Mùi bắp ngô nướng thơm nức, bánh chuối chiên vàng ruộm, bánh xèo, bánh khọt vàng ươm… làm cho đường phố sinh động hơn bao giờ hết. Nếu đi chơi ở Hội An, chỉ trong một ngày, bạn sẽ không bao giờ có đủ thời gian để khám phá vô vàn những món ăn ngon ở đây.
 
Bánh xèo, bánh khọt
 
Gánh cao lầu trứ danh Hội An
 
Bánh chuối chiên
 
Bánh bột lọc nhân tôm
 
Tàu hũ nước đường (tàu phớ)
     
   
 
Bánh đập vỉa hè Hội An
  
 
Bắp nướng
  
 
Thịt xiên nướng 
 
Kem ống 
 
Ngồi ăn lề đường là thú vui tuyệt vời của cả người Hội An
 lẫn du khách
 
Không gì thú vị bằng một tô mì Quảng phố cổ
Đến với Hội An, bạn có thể tản bộ chậm rãi trên những con đường sạch bong, ngắm nhìn những ngôi nhà nhỏ xinh được tô điểm bởi giàn cây leo xanh mát mắt và những lẵng hoa đủ màu sắc treo trên cao. Người dân Hội An rất hiền lành và thân thiện, chỉ cần nói muốn đi đâu là họ sẽ chỉ dẫn tường tận địa điểm nào đẹp nhất, quán ăn nào ngon nhất.
Chỉ với vài chục nghìn dắt túi, bạn đã có thể tận hưởng ẩm thực Hội An cùng nhiều món ăn chơi thú vị. Là những mì Quảng, cao lầu, hến xúc bánh tráng, cơm gà… nức tiếng phố cổ. Ẩm thực phong phú và tinh tế là vậy, nên cuối năm 2011 trang thông tin du lịch trực tuyến nổi tiếng Tripadvisor đã xếp hạng Hội An ở vị trí thứ 6 trong danh sách 25 điểm đến ẩm thực hấp dẫn nhất thế giới.
 
Một góc phố đẹp ở Hội An
 
Tô cao lầu bên bờ sông Hoài
Bạn cũng có thể thuê một chiếc xe đạp để đi tới bờ biển Cửa Đại với giá chỉ 30.000đ/ngày, hoặc thuê xe máy với mức giá 100-150.000đ. Dọc trên con đường chạy ra biển có rất nhiều quán cà phê được bài trí dân dã mà đẹp mắt, hẳn sẽ lưu lại trong bạn nhiều kỷ niệm.
Cùng đừng bỏ lỡ dịp nếm thử những món ăn bình dân ở những địa điểm rất bình dân. Nhiều khi chỉ là đĩa hến xúc bánh tráng với con hến được xào chung với một ít hành tây rau răm, ăn với loại bánh tráng được tráng rất mỏng bằng gạo dẻo thơm nướng trên than hoa. Hoặc đơn giản hơn là ngồi trên chiếc ghế con con nơi vỉa hè kêu một ly chè bắp, tào phớ (tàu hủ) hoặc một trái bắp nướng được các mẹ các chị gánh ra ngồi bán rất nhiều dọc theo con phố cổ. Là tô cao lầu hay mì Quảng tuyệt ngon bên bờ sông Hoài…
Mỗi lần về lại Hội An là những cảm xúc đan xen rất khác nhau. Hội An như một câu chuyện dài, đọc nhiều lần đến nỗi thuộc lòng nhưng vẫn muốn đọc lại thêm lần nữa, lần nữa…
Cùng xem thêm nhiều khung ảnh đẹp của ẩm thực – con người Hội An:
 
 
Phần hến xúc bánh tráng ở một góc phố Hội An
 
Điệp đỏ hấp dẫn từ bãi biển Cửa Đại
 
Bắp và khoai mì nướng
 
Một xe bán bắp dạo trong lòng phố Hội An
 
Dừa tươi ven đường
 
Một quầy chè mè đen (xí mà phủ), chè hạt sen, chè bắp… rất hấp dẫn
 
Hội An càng về tối càng trở nên lung linh rực rỡ, du khách đổ về đây đông vui nhộn nhịp
 
 
Hội An có rất nhiều góc cà phê đẹp
 
Xe đạp là phương tiện di chuyển được khách du lịch ưa thích ở Hội An
Trước một gian nhà chuyên bày bán đồ thủ công mỹ nghệ đặt một chiếc tủ kính 2 tầng, tầng dưới để những chiếc bánh nướng hình tròn, hình vuông màu vàng nâu, tầng trên là những chiếc bánh bảy sắc cầu vồng rực rỡ.
 
Bánh bảy sắc cầu vồng trong một tủ kính ở Hội An
Bà cụ già tóc bạc phơ gói từng chiếc bánh vào túi cho khách, khẽ bảo nên ăn ngay để nếm được vị ngọt, mát của bánh bảy sắc cầu vồng.
Hội An nhung nhớ người ta không chỉ bằng cái màu vàng mê đắm của sơn tường và những giàn hoa leo xinh xắn trước thềm. Có thể là những không gian uống trà, thưởng thức cafe rất độc đáo với những gian nhà cổ, những chậu hoa bừng sáng với những gam màu vàng, trắng nhỏ li ti.
Một trưa nắng vàng như rót mật, tìm một quán cafe tràn ngập hoa, chọn gác cao, cầm chiếc máy ảnh ghi lại những khoảnh khắc phố Hội ban trưa, thưởng thức đồ uống, thấy mọi thứ trôi đi êm dịu.
Hội An nhung nhớ người ta bằng cả những buổi đêm, khi đó, cả Hội An chìm đắm trong màu vàng, đỏ của đèn lồng. Trên sông Hoài, những con đò chở khách dọc bờ sông, thả đèn hoa đăng cho trôi lững lờ trên dòng nước.
Người phụ nữ chèo đò trên 30 năm bảo bà làm nghề này từ những ngày Hội An còn khốn khó, chưa phải là một đô thị du lịch sầm uất như bây giờ. Những con đò đưa khách 2 bên sông Hoài qua lại mua bán.
Bây giờ, một tối nhiều khách, bà sẽ được 100.000đ hoặc hơn một chút tiền công chèo đò. Còn có ngày, bà chỉ được 10.000, 20.000đ vì người chèo đò đông lên, mọi người san sẻ công việc cho nhau.
Ngay đầu bến đò sông Hoài, đi bộ thêm vài bước chân nữa sẽ gặp hàng chè, tào phớ ngon nổi tiếng Hội An. Những chiếc ghế gỗ nhỏ xíu dành cho khách, đủ những món chè ngon lành đặt trên đôi quang gánh: đậu xanh nhuyễn, đậu đỏ, hạt sen, chè bắp, sương sáo, tào phớ, nước cốt dừa…
Chúng tôi gọi chè xoa xoa và chè bắp, tào phớ, người bán đưa ra một chiếc chén nhỏ xíu bằng gốm, trong đó có chè bắp được nấu dẻo mềm vừa ngọt vừa có vị muối mằn mặn, chan thêm chút nước cốt dừa béo ngậy.
Chè xoa xoa có sương sáo, đậu xanh nghiền, thạch đen, nước cốt dừa mát lạnh. Tào phớ được đặt trong một chiếc bát gốm chiết yêu (loại đáy bát nhỏ, miệng loe ra), nhìn đã thấy hấp dẫn với tào phớ trắng nõn, nước đường thơm lừng, cả long nhãn trong veo.
Mỗi ly chè chỉ có 10.000 đồng, ăn thủng thỉnh trong khi nghe hát bài chòi ở không gian trước mặt. Bên sông Hoài, đò nhà ai vẫn lững lờ trôi mang theo những bông hoa đăng.
Tôi cũng thích đi lang thang những ngày không phải cuối tuần ở Hội An. Hội An vắng hơn, những nhóm khách Tây đạp xe túc tắc trên phố vắng, thi thoảng dừng lại đưa máy ảnh chụp những khung hình lạ lẫm: nhà ai đang phơi cá trước cửa, bà bán hàng rong với đôi quang gánh tảo tần…
Tôi ngồi xuống hàng bánh mì trước cửa một ngôi nhà chuyên về áo dài, định chỉ mua chai nước lọc nhưng vì một chiếc xe đạp của cô bán bánh cam đi qua hấp dẫn quá, đành ngồi nán lại, thưởng thức món bánh lạ theo đúng chỉ dẫn người bán hàng.
Một chiếc bánh cam vừa chiên xong, vàng rụm, một chiếc bánh xoài màu trắng, dẻo mềm, bên trong với nhân đường, đậu phộng. Kẹp chặt 2 chiếc bánh lại với nhau, cắn ngập răng. Chà, cũng khá thú vị. Ông chủ cửa hàng bánh mì bảo, ăn như thế là đúng kiểu Hội An. Cái ngon lành của quà vặt Hội An đôi khi đến một cách ngẫu nhiên như vậy.
Cô bạn của tôi bảo đã đến Hội An cả mấy chục lần từ ngày nhỏ, ấy thế mà vẫn không thấy chán, bởi mỗi ngày đến cô tìm thấy ở Hội An một diện mạo khác nhau: Trong màu đỏ của chiếc đèn lồng xinh xắn, làm đến kỳ công mà chỉ bán có 10.000đ; trong ngọn đèn hoa đăng, được xếp bằng giấy màu và được bán bởi những em bé vừa học xong cấp 1 nhưng nói tiếng Anh rất siêu; trong hàng bánh mì của một người đàn ông sinh ra và lớn lên ở Hội An, đã bươn chải nhiều nơi để kiếm sống, cuối đời vẫn là một người nghèo khó; trong một căn nhà nhỏ sơn màu vàng, ríu rít tiếng chim và luôn tươi xanh những giỏ cây ở Hội An…
Hội An không chỉ có cao lầu, mì Quảng, cơm gà và những ly chè ngon đi vào những trang sách du lịch. Thành phố ghi dấu trong tim mỗi người bằng những sản vật riêng của vùng đất này, linh hồn phố Hội.
 
Một cửa hàng chuyên bán đồ hải sản khô
 
Những nhà hàng bán bánh ngọt xinh xắn ở Hội An
 
Hội An một ngày trong tuần
 
Chè bắp Hội An
 
Tào phớ phố Hội trong chiếc chén gốm giản dị
 
Chè xoa xoa trong chiếc ly thủy tinh trong suốt
 
Cơm gà Hội An, món ăn rất ngon và lạ miệng
 
Bánh nướng bán trên phố cổ Hội An xinh xắn, nhìn đã muốn nếm thử

******************************

Thứ ba, 16/7/2019, 14:32 (GMT+7)
   


Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới

Dù nắng hay mưa, sương mai hay hoàng hôn, Hội An vẫn mang vẻ đẹp trầm mặc với nhịp sống bình dị làm say lòng du khách ghé thăm.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Hội An vừa được tạp chí Travel and Leisure bình chọn đứng đầu 15 thành phố du lịch tốt nhất thế giới năm 2019, dựa trên khảo sát của bạn đọc. Đô thị cổ này được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào năm 1999, với nhiều địa điểm tham quan như Chùa Cầu, bến thuyền sông Hoài (ảnh), chợ Hội An, nhà cổ Tấn Ký hay hội quán Triều Châu.
Ngồi trên con thuyền nhỏ lướt êm đềm qua những dãy phố, làng nghề hai bên bờ sông là một trải nghiệm thú vị.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Tay máy Đỗ Anh Vũ, sống và làm việc tại Hội An, cho biết dù đã quen thuộc với mọi ngóc ngách, con đường nhưng anh vẫn bị phố cổ hấp dẫn vào những khoảnh khắc khác nhau.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Sau cơn mưa, một số du khách thích ghi lại khung cảnh phố cổ phản chiếu dưới vũng nước, bởi cho góc nhìn mới mẻ.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Những ngôi nhà cổ với mái ngói thâm nâu và tường quét vôi vàng là hình ảnh đặc trưng của Hội An, thành phố cách Đà Nẵng khoảng 30 km về phía nam. Trên đường Trần Phú, Nguyễn Trãi hay Hoàng Văn Thụ, những bức tường còn được điểm xuyết bởi các lồng đèn và nón lá.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Hội An khác lạ với hàng cây bàng rợp lá đỏ khi thời tiết chuyển mùa.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Phương tiện di chuyển trong phố cổ chủ yếu là xích lô (ảnh), xe đạp, xe máy nhưng đi bộ là lựa chọn thú vị nhất với du khách. Bạn có thể mệt nhưng dễ dàng đi vào các con hẻm nhỏ trên đường Phan Chu Trinh để khám phá, thưởng ngoạn.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Các quán cà phê mở ra san sát trong phố cổ, thu hút du khách nước ngoài ngồi thư giãn, ngay cả trong những ngày hè.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Đâu đó bạn còn bắt gặp hình ảnh nam du khách thử gánh hàng hoa trên phố Hội.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Những con đường trong phố cổ ngắn và hẹp, chạy uốn lượn nhưng ngang dọc kiểu hình bàn cờ. Bạn sẽ cảm nhận cuộc sống ở đây khi nghe tiếng hàng rong trong những con hẻm nhỏ (ảnh), hay tiếng xích lô chở vội du khách trong mưa qua những nếp nhà.
Vẻ bình lặng ở Hội An - thành phố du lịch tốt nhất thế giới
Mùa mưa, Hội An vắng khách hơn. Tuy nhiên không ít người vẫn tìm đến đây để có góc nhìn khác về thành phố du lịch nổi tiếng của miền Trung.
Huỳnh Phương
Ảnh: Đỗ Anh

Bài giảng Thứ Tư Lễ Tro của đức Giáo Hoàng Francis

 
Có điều gì đó không ổn nơi chúng ta: phải hoán cải
Bài giảng Thứ Tư Lễ Tro
Anne Kurian
ROMA, 5 tháng 3 năm 2014 (Zenit.org)
[…]
Chú ý đến người anh em là khởi đầu của việc hoán cải
Đức Thánh Cha trích dẫn bài đọc thứ nhất: "Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo" (Ge 2,13) và ngài nhắc nhở trong bài giảng rằng "đặc điểm của thời hồng ân này là hoán cải tâm hồn".
Quả thật, "hoán cải không chỉ là những hình thức bên ngoài hay những quyết tâm mơ hồ, nhưng đòi hỏi tất cả cuộc sống phải xuất phát từ trung tâm con người, từ lương tâm".  
ĐTC trích dẫn các "cuộc tranh giành quyền lực" như ví dụ, điều này chứng tỏ rằng người ta tưởng mình là Thiên Chúa Nhân Lành: "Khi tôi thấy trong môi trường hạn hẹp hằng ngày nơi tôi đang sống, họ tranh giành quyền lực để gây ảnh hưởng. Những người này chơi trò Thiên Chúa Tạo Hóa, và họ vẫn chưa nhận ra họ không phải là Thiên Chúa".
Mùa Chay là bước đường kêu gọi con người "thoát ra khỏi nếp cũ, mở mắt và tai ra, nhưng nhất là mở lòng ra cho Chúa và anh em", để vượt ra khỏi "mảnh đất vuông" của mình: "chỉ khi nào chúng ta cảm thấy trăn trở vì những khó khăn và đau khổ của anh em mình thì chúng ta mới có thể bắt đầu con đường hoán cải để tiến đến Phục Sinh."
ĐTC lưu ý: trong một thế giới "mà Thiên Chúa bị loại trừ ra khỏi chân trời", Mùa Chay mời gọi con người nhớ rằng mình là "thọ tạo", mình "không phải là Thiên Chúa",  cách nhìn này giúp chúng ta thấy "tranh giành quyền lực" không còn quan trọng nữa.
Xét cho cùng, Mùa Chay là "một lời mời gọi tỉnh dậy, ra khỏi mê muội", "quay về với Chúa", vì "có điều gì đó không ổn trong chúng ta, trong xã hội, trong Giáo Hội và mỗi người "cần phải thay đổi, làm một bước ngoặt, hoán cải".  
Ý nghĩa của việc cầu nguyện, ăn chay, làm phúc
ĐTC dừng lại trên ba yếu tố mà Tin Mừng đưa ra trong Mùa Chay cho bước đường thiêng liêng: "cầu nguyện, ăn chay và làm phúc", ĐTC cho rằng cả ba yếu tố nói lên "sự cần thiết đừng để cho bề ngoài chi phối mình". "Không phải vì được người khác tán thưởng hay thành công mà cuộc sống có giá trị, nhưng chính vì những gì con người có "trong nội tâm".
Cầu nguyện "là sức mạnh của người Kitô hữu và của mọi kẻ tin": cầu nguyện là "nhảy vào trong biển tình yêu vô biên của Thiên Chúa, để thưởng nếm tình âu yếm của Người" trước "sự yếu đuối và mong manh của cuộc đời", trước "biết bao vết thương có thể làm cho tâm hồn nên chai đá".  
ĐTC nói tiếp: trong Mùa Chay khi cầu nguyện lòng chúng ta phải "chất chứa những nhu cầu của anh em", "cầu bầu trước Chúa cho biết bao tình cảnh nghèo khổ".  
ĐTC cảnh giác: việc ăn chay không được "mang tính hình thức", nghĩa là ăn chay không được làm cho chúng ta "thỏa thuê" vì cho chúng ta cảm tưởng mình là người "giữ đạo phải phép": "Ăn chay chỉ có ý nghĩa khi làm cho người ăn chay cảm thấy không ổn" và "sau đó muốn làm gì đó vì lợi ích của người khác" hay khi ăn chay giúp cho người ăn chay "trau giồi phong cách người Samari Nhân Hậu, biết nghiêng mình nhìn đến người anh em gặp khó khăn".
Ăn chay là "chọn lối sống giản dị, không phung phí" vì ăn chay kêu gọi "sống ý thức và có trách nhiệm trước bất công, lạm dụng". Ăn chay cũng là "dấu chỉ tin tưởng vào Chúa và sự quan phòng của Người".
Cuối cùng, làm phúc "giả thiết cho nhưng không", vì "mình cho một người mà mình không trông mong nhận gì ngược lại từ họ": "Cho nhưng không phải là một trong những đặc tính của người Kitô hữu", vì "ý thức rằng mình đã nhận mọi sự từ Thiên Chúa cách nhưng không".
ĐTC kết luận: vào một thời đại mà "trong đời sống hằng ngày người ta không cho nhưng không, mà mọi sự đều được mua bán", làm phúc là dịp để chúng ta giải thoát mình khỏi "nỗi ám ảnh phải sở hữu, khỏi nỗi sợ hãi bị mất những gì mình có, khỏi nỗi buồn của người không muốn chia sẻ cuộc sống sung túc tiện nghi của mình".
Viết cùng Anita Bourdin