Bạch Quả
ta phải đi ngay bác sĩ để biết nguyên do. Quý vị nên bàn thảo với bác sĩ để dùng bạch quả, vì khi dùng bạch quả nó đưa lại kết quả thật khả quan, bạch quả làm cho máu huyết di chuyển tới tai đều đặn, tạo sự liên hệ giữa não và tai. Bạch quả cũng chữa được bệnh ù tai.
Có bán ờ Cosco nên mua loại
120 mg ,giúp cho trí nhớ cùng đau khớp
xương hay lắm .
Cây Bạch Quả đang chuyển từ mùa Hạ sang
Thu
BẠCH QUẢ (GINKGO BILOBA) Cách đây 3 năm tôi đến Pensylvania vào mùa Thu trước lễ Tạ Ơn. Trời bắt đầu lạnh gần
độ
đông đá. Một buổi sáng xuống phố, ánh mặt trời chói chang trong
những lùm cây. Cây
cối trơ trụi, ngọai trừ một số cây màu vàng dọc
theo lề đường với những lá hình rẻ quạt,
tôi nhận ra ngay đó là Cây Bạch Quả. Mùa Xuân lá cây mơn mởn từng chùm trên từng
đốt dọc theo
cành cây vươn ra tứ phía. Mùa Hè lá biến thành xanh đậm. Mùa Thu lá
đổi
màu vàng trông rất đẹp.
Đây cũng là con đường Bạch Quả nổi tiếng ở Nhật. Có một câu chuyện ý nghĩa về loài
cây này. Đó là sau khi Mỹ ném bom Nguyên Tử xuống Hiroshima, vẫn có 6
cây bạch
quả sống sót và phát triển. Vì vậy, người Nhật coi Bạch Quả là
“cây mang hy vọng” và
được tôn kính trong văn hóa Nhật Bản.
Ngồi trong quán ăn điểm tâm nhìn ra phía trước, tôi thấy mấy người vừa đàn ông vừa đàn
bà đang lượm
những trái bạch quả rụng quanh gốc cây. Tôi hỏi cô cháu bé thì được
biết
các ông bà này trong mùa Thu, khi thấy trái bạch quả rụng, thì
họ cố lượm cho thật nhiều ,
nấu chè rồi đưa vào sở làm quà cho bạn
bè mỗi người một ly. Các ông bà trong sở lấy làm
thú vị lắm: chè ăn
vừa ngon vừa bổ, lại có vị thơm vị bùi.
Mùa Thu đã mang lại cho những người Trung Hoa này một mong đợi đầy lý thú. Với họ
chỉ là
lượm trái cây, nấu chè, không hơn không kém.
Hai hôm sau chúng tôi đi lượm lá chớ không lượm trái. Ở New Jersey tương đối dễ vơ lá
hơn . Chúng tôi chỉ cần tới một cây vào buổi sớm, sau một đêm lạnh,
lá rụng chồng đống
tại gốc cây, bóc mấy phút là được mấy bịch rác.
Chúng tôi mang về nhà soạn lấy những lá
tốt, còn những lá úa lọai
đi. Sau đó cho vào máy sấy, cứ 24 tiếng lại được một mẻ, hai cậu
cháu lượm có thể đủ làm trà uống cả năm. Chúng tôi trộn 2/3 lá Bạch Quả và 1/3 trà để
giữ cho lá khỏi bị ẩm ướt. Vả lại cũng cần uống
trà có lợi cho cơ thể rất nhiều.
Câu hỏi được mọi
người đặt ra là Cây Bạch Quả là cây gì?
Người Trung Hoa gọi
là Bạch Quả vì sau khi trái rụng màu của nó vàng nâu giống như
trái
mơ, khi rửa sạch vỏ chỉ còn có hạt, lúc phơi khô, hạt thành trắng,
vì thế người ta còn
dịch ra tiếng Anh là White Nut. Cây Bạch Quả
cũng được người Tây phương gọi là
Ginkgo Biloba, hay người Hoa kỳ
gọi là Maidenhair (cây Tóc Tiên Nữ).
Lá Bạch Quả
Bạch Quả xuất hiện đã lâu trên trái đất vào thời khủng long mà người ta tìm thấy trên các
địa tầng trái đất trên các đại lục Đông và Tây bán cầu. Ở Á Châu
người ta thấy Cây Bạch
Quả được trồng trong khuôn viên các chùa ở
Trung Hoa và Nhật Bản. Bạch Quả cũng
có một sức sống dẻo dai. Năm
1945 sau cuộc thả bom nguyên tử ở Hiroshima, người ta
thấy tất cả
những cây khác bị tiêu diệt, nhưng Cây Bạch Quả vẫn sống ngạo nghễ
giữa gió
bụi phong trần.
Trái Bạch Quả
Vào thế kỷ 18, người Âu Châu chú trọng đến cây Bạch Quả vì hình thù và sắc đẹp của nó. Ông Englebert Kaempfer, một y sĩ và nhà thực vật học người Đức, lần đầu tiên trong cuộc đời
ông được thấy cây Bạch Quả trong chuyến công du Nhật Bản.
Sau đó ông Carolus
Linnaeus, người Thụy Điển, cũng là một nhà thực
vật học, trong việc xếp lọai hệ thống
các lọai động vật và thực vật,
đã đặt tên Ginkgo Biloba cho cây Bạch Quả.
Năm 1727, người ta mang cây Bạch Quả từ Trung Hoa tới Âu Châu và trồng tại vườn
dành cho
những cây nhiệt đới. Tại Hoa Kỳ, năm 1784 ông Halmilton là người đầu
tiên
trồng cây Bạch Quả tại sân nhà ông ở Philadelphia. Bây giờ cây
ấy hãy còn sống và ở
ngay cạnh nghĩa trang Woodlawn. Rồi cứ thế,
người này bảo người kia, kể cả rất nhiều
thành phố lập ngay dự án
trồng cây hai bên đường phố để làm tăng vẻ đẹp cho đô thị.
Hiện nay ở Philadelphia, nếu ai muốn trồng cây Bạch Quả, chỉ cần liên lạc với sở thiết kế
đô thị để được mua một cây Bạch Quả 15 gallon với giá
$75.00 thay vì giá thị trường là
$150.00. Ở Hoa kỳ hiện nay cũng có
nhiều nông trại trồng lọai cây này, chẳng hạn như ở
South Carolina
để sản xuất và cung cấp lá cho các nhà bào chế các sản phẩm Bạch Quả.
Cây Bạch Quả sống lâu hơn các lọai cây khác. Cây có thể sống nhiều ngàn năm. Cây cũng
có cây đực cây cái. Cây đực cung cấp
nhụy. Cây cái sinh quả. Cây Bạch Quả phải kể tới
50 năm sau khi
trồng mới có trái. Trái Bạch Quả khi chín sẽ đổi màu vàng ố và rớt
xuống đất có mùi hôi. Vì thế nhiều nơi khi thấy cây sinh trái đã
chặt cây, chỉ để lại cây đực.
Dược tính của cây bạch quả.Người Trung Hoa đã xử dụng dược tính của cây Bạch Quả từ nhiều thế kỷ. Cho tới nay,
nhiều khi trong các thang thuốc
cũng có mấy Hạt Cạch Quả được trộn lẫn với những vị
thuốc khác. Các
thầy thuốc Bắc dùng Trái Bạch Quả trị các bệnh về não, bệnh suyễn,
sưng cuống phổi. Trong các sách thuốc Trung Hoa vào thế kỷ 15, 16, người ta cũng dùng Hạt Bạch Quả rang khô để trị các bệnh liên quan đến cơ quan tiêu hóa. Ngòai ra Trái Bạch Quả chín còn được ngâm vào dầu ăn 100 ngày trước khi dùng trị bệnh phổi. Lá Bạch Quả cũng được người Trung Hoa dùng trị bệnh tiêu chảy, vò những lá tươi xát vào da khi bị khô vì trời lạnh, hay bị cháy nắng có những vết như tàn nhang, hoặc da bị trầy trụa. Tại Nhật người ta khám phá thấy sau khi bóc vỏ Hạt Bạch Quả có một màng thật mỏng bao chung quanh nhân, màng này tạo ra chất sát trùng có thể giết sâu bọ. Vì lý do đó, người Nhật thường để những Hạt Bạch Quả ở các ô hộc trong kệ sách để tránh mối bọ. Lá Bạch Quả sinh ra những chất khiến sâu bọ không thể ở trên cây và cũng khử được những ô nhiễm nữa. Lá Bạch Quả đang chuyển mùa... Vào những thập niên gần đây, rất nhiều các quốc gia tại Âu Châu đã lập những viện nghiên cứu và lập các nhà bào chế ép những chất trong Lá Bạch Quả để tìm hiểu dược tính của nó và dùng những chất ép từ Lá Cây Bạch Quả chế biến ra những viên hay đặt vào trong những bao nhộng có các cân lượng từ 60 mg, 120mg bán ra thị trường. Cũng có khi họ thêm vào những vị khác như các lọai Nhân Sâm. Hiện nay người Hoa kỳ cũng trồng thật nhiều cây Bạch Quả để chế biến dùng lọai dược
thảo này áp
dụng song song với những lọai thuốc Tây khác. Trong việc tìm hiểu
những đặc
tính dược thảo, các nước Âu Mỹ đã nghiên cứu rất kỹ lưỡng
về chất liệu của các thứ cây
có khả năng chữa bệnh. Đứng trước những khó khăn của y học Tây phương trong việc chữa trị bệnh nhân, các nhà
nghiên cứu đã tìm hiểu những phương dược của Đông
phương.... ....(bỏ một đoạn)
Tôi có người anh kết
nghĩa năm nay 82 tuổi. Cách đây trên mười năm, vì rủi ro, anh đang
lái xe bỗng dưng buồn ngủ, đâm vào chiếc xe 18 bánh đang đậu bên đường. Kết quả bị gẫy hai chân, gẫy hai tay và mất một cái đầu gối. Sau mấy tháng nằm bệnh viện, anh đã phải qua nhiều cuộc giải phẫu và cuối cùng anh được xuất viện. Anh tiếp tục tập luyện, cuối cùng đi lại bình thường. Mỗi khi trái gió trở trời, anh bị đau nhức thê thảm. Anh đi bác sĩ và được cho toa. Nhưng uống thuốc tê thấp không phải lúc nào cũng dễ vì nếu uống thuốc lâu, thuốc có thể làm nguy hại đến những bộ phận khác trong cơ thể. Một hôm, anh nghe người ta chỉ, dùng trà Bạch Quả, anh thấy dễ chịu hẳn lên, lại cảm thấy tâm trí thoải mái, trí nhớ được phục hồi có thể ngồi viết lại những phần nhật ký anh chưa hoàn tất được. Rồi sau đó anh tìm hiểu nhiều về các lọai dược phẩm. Nay anh đã được bình phục và không còn đau nhức nhiều như trước kia nữa, thật là một an ủi lớn cho anh.
Lá và trái Bạch Quả trong mùa Thu
Một người khác, bạn của anh tôi, năm nay 73 tuổi. Anh bị đau ở bả vai phải, kéo xuống cánh tay và bàn tay rất khó chịu. Anh đã đi mấy bác sĩ, uống năm sáu toa thuốc không thấy khỏi. Anh dùng sản phẩm Bạch Quả trong hai tuần, anh đã hết bệnh, sau đó anh đi mua ngay cây Bạch Quả 15 gallon, đưa về trồng trước cửa nhà. Mỗi sáng đi tập thể dục về, anh lấy mấy lá nhai rồi nuốt đi. Cách đây ít lâu, anh cho biết là Lá Bạch Quả đã đem lại cho anh sức khoẻ lạ thường, cảm thấy người thật là cường tráng. Hai tháng nay, tôi được biết một người bạn, tâm hồn rất sáng suốt minh mẫn, nhưng cơ thể anh xuống dốc thê thảm. Các khớp xương của anh đau nhức. Mỗi khi cơn đau lên như thế, các bắp thịt kéo co lại đau đớn lắm. Anh tìm đọc tài liệu về sản phẩm Bạch Quả. Mấy hôm sau anh mua về dùng. Ngày hôm sau anh cho biết chưa bao giờ anh có được giấc ngủ ngon như thế, một tuần sau anh cho tôi biết các khớp xương hãy còn đau nhưng bắp thịt không co lại và không còn đau nữa.
Hạt Bạch Quả và lớp màng mỏng màu nâu.. tạo ra chất sát trùng.. khử sâu bọ
Những chuyện tôi vừa kể trên chỉ phần nào nói lên ích lợi của Bạch Quả. Chúng ta lần lượt tìm hiểu thêm những nghiên cứu của các dược phòng qua những công trình làm việc của nhiều khoa học gia, cũng từ đó người Tây phương nhìn nhận và thử nghiệm Bạch Quả một cách hữu hiệu như thế nào. Bắt đầu từ năm 1930 ngành Y khoa Tây phương chú trọng về ích lợi của cây Bạch Quả trong việc bảo vệ sức khỏe và chữa trị bệnh tật. Sau khi các khoa học gia Đức và Nhật đã ép nước từ Lá Bạch Quả và phân chất, người ta tìm thấy hai nhóm hóa chất quan trọng: Flovone Glycosides và Terpene Lactones. Flovone Glycosides là những hóa chất lọai Flavonoids. Hóa chất này là một số hợp chất tìm thấy trong nhiều cây trái, nhất là những lọai Chanh, Cam, Bưởi. Nó là những chất chống Oxyd hóa, có nghĩa là nó làm sạch những chất ô nhiễm trong máu. Chất Flavonoies cũng có đặc tính bảo vệ các tế bào khỏi bị vỡ do chất Acid và các lọai Acid béo do đó các tế bào lúc nào cũng ở tình trạng khỏe mạnh và có khả năng thẩm thấu. Chất Flavonoies cũng giúp cho các hạt máu không bị dính vào nhau, nó giúp cho việc tuần hoàn máu trong cơ thể, đánh tan những cục máu, khiến ta tránh được đứt gân máu. Nó giúp cho những mạch máu không bị cứng, có khả năng giúp tồn trữ sinh tố C và giữ gìn nó lâu trong cơ thể. Chất Terpene Lactones trong cây Bạch Quả giúp cho sự tuần hoàn máu tới não và các bộ phận trong cơ thể, chuyển dưỡng khí tới các mô, giúp cho việc hấp thụ chất đường (Glucose) tới các mô. Việc này giúp cho cơ thể khoẻ mạnh và có thêm sức lực. Chất này cũng giúp cho cơ thể khoẻ mạnh và có thêm sức lực. Chất này cũng giup cho kiện toàn trí hớ và giúp cho não vậh chuyểnvà được hoàn phục sau khi bị đứt gân máu. Chất Bilobalides và Ginkgolides chỉ tìm thấy nơi cây Bạch Quả, nó gồm có những phân tử của ba loại Ginkgolides A, B và C có một cách cấu tạo đặc biệt giống như một cái lồng mà không có cách nào các nhà hóa học có thể chế ra một hợp chất gắn liền như thế được. Cuối năm 1950, bác sĩ Willmar Schwabe thuộc hãng Schwabe ở Tây Đức đã rút từ Lá Bạch Quả hợp chất gồm có 24% Flavone Glycosides và 6% Terpene Lactones, tỉ lệ 24-6 được gọi là GBE. GBE có ba ảnh hưởng lớn trong cơ thể: 1) Giúp cho mạch máu được vận chuyển nhiều trong cơ thể và giúp cho máu được tinh khiết, sự vận chuyển đó đưa máu tới các mô và các bộ phận như tim, não, tai, mắt. 2) Bảo vệ các cơ phận không bị ô nhiễm phá họai. 3) Ngăn chận chất PAF, là chất làm cho máu dính cục đưa đến việc tắc nghẽn và đứt gân máu, ảnh hưởng trực tiếp đến mạch máu tim và tạo nguy hiểm cho tế bào não. Lá Bạch Quả gồm có những hóa chất thật hữu hiệu cho cơ thể con người. Qua nhiều cuộc nghiên cứu, người ta thấy nếu dùng Bạch Quả với một số lượng bình thường thì không thấy những phản ứng, cũng như dùng nó trong một thời gian khoảng ba tháng rồi ngưng một khoảng cách một vài tuần hay một hai tháng tùy theo kinh nghiệm và chúng ta có thể đo lường những tác dụng của nó trong cơ thể. Một phần thật nhỏ là có thể có người bị phản ứng chẳng hạn ngứa, sẩn hay chảy máu cam. Nếu thấy có những phản ứng như thế, nên tạm ngưng một thời gian rồi tiếp tục lại. Vì tác dụng của Bạch Quả làm giãn nở mạch máu, nên khi dùng Bạch Quả thì không nên dùng St John Worts hay Aspirin. Những người đang dùng các lọai thuốc làm nở mạch máu tim hay làm loãng máu cần phải tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị để được chỉ dẫn hoặc ấn định cách thức dùng. Trong những trường hợp không bình thường trong cơ thể hoặc có những bệnh trạng đặc biệt, chúng ta nên tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị để biết rõ số lượng dùng. Hiện nay trên thị trường có loại viên hay con nhộng từ 60mg, 80 mg, 120 mg, 160mg, 240mg. Vì Bạch Quả là dược thảo nên không cần toa bác sĩ, tuy nhiên chúng ta không nên vì thế mà lạm dụng nó. Tốt nhất khi dùng Bạch Quả, chúng ta nên nghe ngóng cơ thể xem phản ứng để có thể lui tới sao cho có lợi ích thiết thực cho cơ thể. Bạch quả và hệ thống não. Bạch Quả có khả năng ngăn ngừa bệnh Alzheimer nếu chưa bị bệnh , Khi bị bệnh rồi, dùng Bạch Quả giúp cho bệnh thuyên giảm hay giữ ở tình trạng không phát triển. Bạch Quả giúp cho máu chuyển lên não, giúp cho các tế bào thần kinh truyền thông với nhau, làm phục hồi trí nhớ. Bạch Quả cũng giúp cho não nhận được nhiều dưỡng khí và tẩy sạch những ô nhiễm trong não. Nó cũng giúp cho người xử dụng nhiều về trí não được sáng suốt, bền gỉ, giúp cho chống lại với những suy bại theo tuổi già. Bạch quả và hệ thống tuần hoàn. Bạch Quả giúp cho máu di chuyển trong cơ thể được dễ dàng, làm tiêu mỡ, tiêu những chất độc trong máu, đánh tan những cục máu (blood clots), làm cho máu không bị dính vào nhau, làm cho các mạch máu mềm mại, như thế có thể tránh được tình trạng đứt gân máu. Bạch Quả cũng giúp phục hồi các mạch máu bị nguy hại vì chất Nicotine, giúp cho hạ Cholesterol vì nó khử được các chất Oxyd hóa. Bạch quả cũng làm cho giãn mạch máu, nhất là khi tuổi già, mạch máu nổi gân xanh ở chân sẽ được giảm đi và do đó các cụ có thể đi lại, di chuyển một cách dễ dàng hơn. Sự thông máu trong hệ thống tuần hoàn giúp đưa máu và đồ ăn tới những li ti huyết quản, khai thông những bế tắc đó là nguyên nhân chính mang lại sức khoẻ toàn vẹn cho con người. Bạch quả với dị ứng và hen suyễn. Mới đây ở Hoa kỳ, người ta đã dùng Bạch Quả để chữa bệnh dị ứng (Allergy) và hen suyễn (Asthma). Bạch Quả làm dịu những vết sưng do dị ứng gây nên, và những liên hệ đến hệ thống hô hấp do dị ứng rồi đi đến nặng hơn đó là hen suyễn. Vì là dược thảo nên khi chúng ta dùng nó kết quả có khi cũng chậm hơn, do đó khi bị dị ứng nặng bất ngờ hay hen suyễn có nguy hại tới tính mạng, tốt hết ta hãy tìm gặp các y sĩ để điều trị cấp thời rồi sau đó tham khảo ý kiếng với y sĩ để dùng bạch quả. Người ta cũng dùng Bạch Quả thoa trên các lớp da khi bị khô hay bị cháy nắng hoặc ngứa sẩn lên. Bạch quả với các bà và các ông. Các bà khi có kinh nguyệt thường hay khó chịu, có khi bị đau trong cơ phận liên hệ. Dùng Bạch Quả, các bà thấy dễ chịu, tay chân đỡ bị sưng, đỡ đau bắp thịt, các bộ phận liên hệ không bị sưng, hết nhức đầu, hết chóng mặt nhờ lượng máu di chuyển đều hòa tới các bộ phận trong cơ thể. Với các ông cũng thế, kết quả thử nghiệm cho thấy rất khả quan khi các ông dùng Bạch Quả, máu huyết di chuyển điều hòa trong các cơ phận, khiến giảm thiểu tình trạng bất lực, làm cho các ông phấn khởi và trở nên tin tưởng vào sự cường tráng của mình, trở nên yêu đời hơn. Bạch quả và thính giác và thị giác. Nếu quý vị thấy bắt đầu bị lãng tai, mất thăng bằng, dĩ nhiên chúng ta phải đi ngay bác sĩ để biết nguyên do. Quý vị nên bàn thảo với bác sĩ để dùng Bạch Quả, vì khi dùng Bạch Quả nó đưa lại kết quả thật khả quan, Bạch Quả làm cho máu huyết di chuyển tới tai đều đặng, tạo sự liên hệ giữa não và tai. Bạch Quả cũng chữa được bệnh ù tai. Khi lớn tuổi, mắt bắt đầu yếu có thể vì con người hay võng mô, sự co giãn không đúng mức, sự hiện hình trên võng mô không rõ rệt, hay các cơ không còn điều tiết chính xác hay bị ảnh hưởng do bệnh tiểu đường. Khi thấy mắt có những triệu chứng bất bình thường, chúng ta phải đi gặp bác sĩ nhãn khoa để khám nghiệm để được chữa trị. Sau khi biết rõ bệnh và được điều trị, chúng ta nên dùng Bạch Quả, vì nó giúp đưa máu tới mắt, đưa chất bổ dưỡng tới mắt, làm cho mắt được khoẻ mạnh, đồng thời khử các chất độc trong mất, phục hồi các tế bào võng mô. Trong kết quả dùng Bạch Quả của bác sĩ Georges Halpern, một khoa hoc gia Đức, năm 1990 đã chẩn bệnh cho 25 người tuổi 75. Những người này dùng 160 mg Bạch Quả mỗi ngày trong 4 tuần lễ thấy mắt họ khả quan hơn trước nhiều. Kết quả nghiên cứu cũng cho biết Bạch Quả giúp cho dẫn máu tới những mạch máu thật nhỏ và có tính cách thật quan trọng trong võng mô. Bạch Quả cũng giúp cho người bị tiểu đường bằng cách làm cho mạch máu được mạnh và tẩy sạch những chất độc trong các tia máu trong mắt. Bạch Quả giữ cho máu khỏi bị hủy hoại do bệnh tiểu đường, do bệnh già và những yếu tố môi sinh gây ra. Nói tóm lại, Bạch Quả giúp cho chúng ta có một trí óc minh mẫn trong một cơ thể cường tráng. Nhờ đó giúp cho các tế bào và các mô là những đơn vị nhỏ nhất trong cơ thể con người được nuôi dưỡng, tẩm bổ, được tinh khiết, chống những phóng xạ do môi sinh, dụng cụ máy móc của cuộc sống văn minh tạo ra.
Bạch Quả giúp chúng ta
chống lại những suy thóai của cơ thể
khi về già, giúp đưa lại sinh lực và niềm tin, đem lại trí nhớ, trị hen suyễn, dị ứng, tê thấp, yếu tai mắt, máu huyết điều hòa và giúp cho hệ thống thần kinh được bén nhạy. Tài liệu tham khảo: 1. Ginkgo Biloba, an herbal fountain of youth for your brain. Glenn S. Rothfelf, MD, MAC and Suzanne Le Vert 2. Ginkgo, A practiacl guide, Georges Halpern, MD, PhD. Chè Bạch quả – Tuyết nhĩTheo khoa học, cây Bạch Quả còn có tên là cây Ngân Hạnh còn tên khoa học là câyGinkgo Biloba. Bạch Quả là loại cây quý, vừa cho bóng mát, vừa giúp làm trong lành môi trường ô nhiễm, lại vừa làm thuốc. Cây sống rất lâu năm, trồng trên 40 năm mới bắt đầu cho trái. Cả thân, lá, rễ hay trái Bạch Quả đều có khả năng giúp làm tiêu độc, kháng viêm, giãn mạch máu, khai thông khí huyết, đánh tan máu tụ máu đông, giảm nghẽn mạch vành, tránh phù, tiêu thủng, giảm mỡ máu, trị mất ngủ, rối loạn thần kinh, nhức mỏi tê bì chân tay, chóng mặt, buồn nôn, giảm trí nhớ … nên trong các thang thuốc hoạt huyết dưỡng não của bên Đông Y bao giờ cũng có cao Bạch Quả, còn bên Tây Y luôn dùng chiết xuất Ginkgo làm thuốc trị Alzheimer
Hôm nay đi Big C, mình mua được hai gói Bạch Quả tươi, loại 250gr/gói mang về nấu
chè Bạch Quả tuyết nhĩ.
Với kiểu chè ăn giải nhiệt thế này
mình không thích chế biến cầu kỳ, cũng không thích cho
thêm sữa hay vani gì cả. Chỉ cần mua Bạch Quả tươi về rửa thật sạch rồi dùng dao tách nhẹ từng hạt bạch quả, lấy đầu dao nhọn trích lấy Tim Bạch Quả bỏ đi (giống lấy tim hạt Sen, tim Bạch Quả rất đắng, nếu lấy sót nấu chè sẽ khó ăn).
Tuyết Nhỉ (nấm tuyết loại ngon) rửa bóp nhiều lần cho sạch rồi ngâm nước ấm để nấm nở
bung sau đó vắt ráo, cắt nấm thành miếng nhỏ vừa ăn.
Táo đỏ rửa qua nước lạnh rồi ngâm trong nước ấm cho mềm.
Dùng nồi sâu lòng cho vào 2 lít nước
sạch, đổ hết Bạch Quả vào nấu vừa chín tới thì vớt
bọt để giúp nước trong rồi cho Tuyết Nhĩ, Táo đỏ, đường phèn vào nấu liu riu chừng 30 phút là tắt bếp.
Vì ăn giải nhiệt nên mình ít khi nấu
ngọt. Với 250gr Bạch Quả, 100 gr Táo đỏ và 1 tai
Nấm Tuyết to mình thường chỉ cho 1 viên đường phèn to bằng nắm tay em bé (tầm 50gr).
Nấu
xong hay cho cả nồi chè vào tủ lạnh, khi ăn thì múc chè đã mát ra bát.
Chao ôi, bạch
quả nấu lên rất dẻo, mềm ngọt, hơi nhân nhẩn đắng một xíu thôi nhưng rất dễ chịu, thêm tuyết nhĩ giòn giòn, táo đỏ thơm thơm tạo thành món chè ngon tuyệt vời, ăn không biết chán…! KIM LIÊN chuyển |
lundi 3 novembre 2014
BẠCH QUẢ (GINKGO BILOBA)
dimanche 2 novembre 2014
Bệnh Loãng Xương:Bs Nguyễn Thượng Chánh
Ngày xưa, khi còn ở bên nhà thì có ai nói đến bệnh loãng xương đâu. Già
cả, xương yếu, lưng còng, đi đứng lụm cụm không vững, cần phải chống
gậy hoặc nhờ con cháu dẫn dắt là chuyện rất bình thường mà thôi. Người
già, lỡ có té ngã, gãy tay gãy chân thì chuyện cũng thường thấy trong xã
hội.
Ngày nay Y học không xem tình trạng loãng xương là một định mệnh
(fatalité) của tuổi già nữa. Các bác sĩ tài ba (và kỹ nghệ dược phẩm) có
cả lố phương tiện để giúp cho các cụ có thể sống một cách “bình thường
có chất lượng” cho tới ngày ra đi.
Chú thích:
Tác giả không phải là Bs y khoa- Đây chỉ là một tập hợp các thông tin
tổng quát về vấn đề loãng xương. Mọi thắc mắc và nghi vấn xin các bạn
hãy trực tiếp tham khảo với bác sĩ gia đình (NTC).
Hình ảnh biến đổi của xương
Bệnh loãng xương là gì ?
Đây là bệnh xảy ra khi xương thiếu chất Calcium nên trở nên xốp, yếu và
có thể dễ gãy mỗi khi bị té ngã. Bệnh thường xảy ra ở những người lớn
tuổi. Thống kê cho biết cứ 1 trên 4 người đàn bà trong thời kỳ mãn kinh,
và 1 trên 8 người đàn ông tuổi trên 55 đều bị bệnh loãng xương ở những
mức độ khác nhau. Tuổi càng già càng dễ bị bệnh loãng xương.
Bệnh thường hay thấy xảy ra ở các dân tộc da trắng, và ở các sắc dân Á
Châu, mà đặc biệt nhất là ở những người có tầm vóc nhỏ con.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh loãng xương như dinh dưỡng thiếu chất
Calcium, thiếu hormone estrogen ở phụ nử trong thời kỳ mãn kinh. Ngoài
ra yếu tố di truyền, một vài loại dược phẩm và một số bệnh tật cũng có
thể đưa đến bệnh loãng xương.
Bệnh nhân thường hay cảm thấy đau lưng khi khom xuống để bưng đồ vật nặng.
Xương cổ tay, và cổ xương đùi (col du fémur) là hai nơi dễ bị gãy mổi
khi té ngã. Lâu ngày, lưng bị còm, bị gù và chiều cao vì lẻ đó bị giảm
đi, trường hợp nặng bệnh nhân có thể trở thành tàn phế.
Theo thống kê, tại Hoa Kỳ hằng năm có từ 15-20 triệu bà bị bệnh loãng
xương, kéo theo trên 1 triệu tường hợp gãy xương mà trong số nầy phải kể
250.000 ca gãy cổ xương đùi (hip fracture) và làm thiệt mạng 50.000 cụ
bà vì biến chứng của tai nạn trên.
Khuyến cáo ngừa loãng xương.
Trống đánh xuôi
Tại hải ngoại bệnh loãng xương (ostéoporosis) cần phải đựợc theo dõi để
phòng ngừa hoặc chữa trị nếu kết quả xét nghiệm mật độ xương quá kém
(osteodensitometry) và rơi vào “một giới hạn nào đó” (căn cứ trên T
score và Z score). Thông thưòng, tùy theo nặng nhẹ, bác sĩ sẽ kê toa
calcium vitamin D, hay thuốc nhóm Bisphosphonate (Fosamax,
Bonefost,Didronel, Didrocal, Actonel…) hoặc các loại thuốc khác. Uống
liên tục trong một thời gian nhiều năm liền, sau đó thì thẩm định lại.
Năm 2001, FDA Hoa kỳ có chấp thuận một loại thuốc tổng hợp dùng để tiêm
có tên là Teriperatide (Forteo) do Công ty dược phẩm Lilly sản xuất.
Thuốc chỉ dành cho các trường hợp loãng xương nặng, nguy cơ gãy xương
cao, hoặc đã bị gãy xương rồi. Bất tiện là thuốc phải được tiêm dưới da
(subcutaneous) mỗi ngày, liên tục và không được quá hai năm. Giá thuốc,
700-800$ cho một tháng.
Tại Québec, Canada, Forteo là thuốc đặc biệt và ngoại lệ nên cần phải
xin phép sử dụng của chính phủ và sẽ được Régie d’Assurance Maladie trả
tiền thuốc.(Demande d'autorisation de paiement - Médicaments
d'exception)
Phản ứng phụ của thuốc làm mọi người e dè ngần ngại. Cho dù thuốc uống
hay thuốc chích thì trở ngại chính là chúng đều có quá nhiều phản ứng
phụ nguy hiểm.
Nhóm thuốc uống Bisphosphonate (Fosamax, Fosavance v,v…) có thể làm
loét thực quản và bao tử ngoài ra cũng có thể mục xương hàm
(osteonecrosis) nơi chổ răng bị nhổ hay nơi gắn implant.,rất đau đớn và
phiền phức lắm.
Xương hàm có thể bị mục do phản ứng phụ của việc uống Fosamax trong thời gian lâu dài.
Thuốc Forteo thì có thể gây ra ung thư ác tính osteosarcoma ở xương. Đa
số phản hồi, của bệnh nhân nói chung đều rất tiêu cực…và làm chúng ta
lo nghĩ…(Mời bạn đọc xem các phản hồi trong mục tham khảo về Forteo ở
cuối bài)
Làm sao phòng bệnh loãng xương?
1. Nên nhớ là nhu cầu Calcium tăng theo các giai đoạn tăng trưởng, tình trạng mang thai, có cho con bú hay không ?…
2.
Nên sử dụng thức ăn thức uống đa dạng giàu Calcium. Nên uống thêm
supplement Calcium nếu thiếu chất vôi trong dinh dưỡng thường ngày.
3. Cần uống kèm theo vitamin D nếu uống Calcium. Có nhiều loại supplement Calcium bán trên thị trường có chứa vitamin D.
4.
Một số bệnh có thể làm thất thoát Calcium từ xương, và có thể gây ra
bệnh loãng xương thứ cấp (secondary osteoporosis) chẳng hạn: bệnh xơ
gan, bệnh Crohn (1 loại bệnh đường ruột), bệnh viêm khớp tự miễn
(rheumatoid arthritis), bệnh suy các tuyến sinh dục (hypogonadism), bệnh
cường giáp trạng (hyperthyroidism), bệnh cường phó giáp trạng (
hyperparathyroidism), bệnh suy thận mạn tính, trường hợp ghép bộ phận (
transplantation) và tình trạng nằm bất động lâu ngày.
5.
Một số thuốc Tây nếu xài thường xuyên trong một thời gian lâu dài (4-5
tháng) cũng làm mất Calcium của xương, chẳng hạn thuốc trị kinh phong co
giật Dilantin, thuốc kháng đông heparine, hormone tuyến giáp trạng
Synthroid, các thuốc trị cancer ( antineoplasic), các thuốc làm giảm
acid dạ dầy hay antacids có chứa chất nhôm aluminum, các thuốc nhóm
corticosteroids như thuốc Dexamethasone ( VN gọi là Đề Xa), Prednisone,
các loại thuốc GnRH (gonadotropin releasinghormones).
6.
Để phòng ngừa bệnh loãng xương, ngoài việc ăn uống một khẩu phần giàu
Calcium chúng ta cũng cần chú trọng đến việc tập thể dục thường xuyên,
bớt rượu, bớt trà, bớt cà phê và bỏ thuốc lá.
7.
Phụ nữ trong thời gian mãn kinh nên đi khám bác sĩ dể được xét nghiệm
và đo mật độ xương ( osteodensitometry), và nếu cần Bs sẽ kê toa cho
thuốc trị liệu.
8. Cẩn thận khi sử dụng một số thuốc trong một thời gian lâu dài,thí dụ các thuốc nhóm corticosteroids.
Thực phẩm nào chứa nhiều calcium ?
Calcium
có nhiều trong sữa, trong fromage, trong yogurt và nói chung trong các
sản phẩm chế biến từ sửa. Trong nhiều loại thức uống bán trong siêu thị,
chẳng hạn như sữa đậu nành và nước cam lon cũng thường được nhà sản
xuất cho tăng cường thêm chất Calcium và vitamin D.
Calcium
còn được thấy hiện diện trong: các loại đậu, hạt hạnh nhân, mè còn vỏ,
trong cải broccoli, cải Pok choy, cải Kale, Collards, green turnip, bắp
cải, artichaut, trong rau cần Tây, rau dền, rau mồng tơi, trong cá
salmon, trong cá mòi sardine còn xương,và trong tôm cua sò hến vv…Một
vài loại thức ăn có chứa chất oxalate (rau mồng tơi, rau dền) hoặc chất
phytate (có trong cám, trong các ngũ cốc còn nguyên hạt). Hai chất này
ngăn cản phần nào sự hấp thụ Calcium chứa đựng trong trong các loại thực
phẩm vừa kể.
Các loại supplément calcium
Trong thiên nhiên Calcium thường ở dưới dạng phối hợp với một vài chất
khác để cho ra những hổn hợp (compound) Calcium như: Calcium carbonate,
Calcium phosphate, Calcium citrate… Nồng độ Calcium hữu dụng chứa trong
hổn hợp còn được gọi là élemental calcium. Tùy theo loại hổn hợp mà số
lượng elemental calcium có khác nhau.
Khi mua các loại supplement Calcium nhớ đọc kỹ coi nó chứa thật sự bao nhiêu elemental calcium?
Calcium carbonate:
chứa 40 % Calcium và được chế biến từ vỏ sò hến. Hấp thụ chậm. Có thể
gây sình hơi và táo bón. Nên uống sau bữa ăn. Nguồn Calcium thường được
lấy từ vỏ sò hến. Đây là loại Calcium rẻ tiền và rất thông dụng trên thị
trường hiện nay.
Calcium citrate: chứa 20% Calcium, hấp thụ nhanh, có thể uống trước hoặc sau bữa ăn. Đắt tiền.
Calcium lactate: có 13% Calcium, uống sau khi ăn.
Calcium gluconate: có 9% Calcium. Uống sau khi ăn.
Dolomite: làm từ bột xương thú vật thu lượm từ lò sát sanh, từ các hổn hợp Calcium magnesium lấy từ nham thạch (limestone). Có thể chứa các chất độc như chì, thủy ngân, arsenic, v.v… Nên tránh sử dụng.
British Medical Journal cho biết là việc sử dụng calcium trong thời
gian lâu dài có thể làm hại tim (calcium đóng trong mạch máu)?
Thực phẩm nào chứa nhiều vitamin D
Rất ít thực phẩm có chứa vitamin D. Vitamin D có thể được thấy trong
các loại sữa, trong margarine đã được cho tăng cường thêm chất nầy.
Vitamin D cũng thấy trong các loại cá có nhiều mỡ, trong lòng đỏ hột gà,
trong cá mòi sardine, trong cá salmon, cá herring,và cá mackerel
vv…Phơi nắng 15-20 phút cũng đủ để cho da tạo ra vitamin D. Dưới tác
dụng của tia cực tím, của ánh sáng mặt trời chất cholecalciferol ở dưới
da được chuyển ra thành vitamin D3 không hoạt tính và sau đó được đưa
đến gan để trở thành chất 1,25-dihydroxycholecalciferol, hay là vitamin D
thật sự có hoạt tính. Nghiên cứu mới đây tại Quebec (2005) cho biết
rằng trong giai doạn mới bắt đầu mãn kinh (perimenopause), Calcium và
vitamin D có thể giúp các bà ngừa được phần nào nguy cơ bị cancer vú.
Trong thí nghiệm vừa kể, các phim chụp cho thấy mật độ mô vùng vú có vẻ
trong sáng hơn ở nhóm người sử dụng thường xuyên các loại thực phẩm giàu
Calcium và vitamin D.
Nhu cầu vitamin D ở người lớn là 400- 800 UI / ngày. Có thể chấp nhận
nồng độ tối đa 2000 IU vitamin D trong một ngày nhưng người ta khuyên
không nên sử dụng liều lượng nầy trong một thời gian lâu dài. Vitamin D
là vitamin tan trong chất béo, và nó có thể tích tụ trong cơ thể. Sự
thặng dư vitamin D lâu ngày có thể làm nhức đầu, nôn mửa, giảm cân, mỏi
mệt và hiếm thấy hơn, nó có thể gây tiêu chảy, gia tăng lượng nước tiểu (
polyuria), làm hại thận và làm tăng nồng độ Calcium trong máu lên
nhiều.
Kèn thổi ngược: Huyền thoại về loãng xương-
Tác giả phỏng dịch nguyên văn ba tác phẩm:Huyền thoại về vấn đề loãng xương
1) Le Mythe de l’ostéoporose: Introduction du nouveau livre de Thierry Souccar
“Đề tặng cho tất cả phụ nữ đã và đang phải khổ sở một cách vô ích vì
những bệnh do “người ta” tạo ra trọn vẹn, một sự xét nghiệm truy tìm
nhưng không tìm ra được gì cả, và những cách chữa trị cũng không trị
được gì hết.”
“Nếu bạn hỏi một người đàn bà lớn tuổi, một bác sĩ hay một nhà báo,
ostéoporose là gì thì chắc chắn bạn sẽ nghe họ trả lời như sau:
Ostéoporose là một loại bệnh và thường là nguyên nhân làm gãy xương khi
các cụ bị té ngã. Để phòng ngừa cần phải làm xét nghiệm bằng kỹ thuật đo
mật độ xương (osteodensitometry) để xác định những đối tượng có nhiều
nguy cơ. Để có thể tránh tai nạn bị gãy xương khi té ngã, các cụ cần
phải tiêu thụ nhiều sữa vả sản phẩm của sữa cũng như theo đuổi một chế
độ dinh dưỡng giàu chất calciun thậm chí kể luôn việc cần phải uống
thuốc Tây.
Tất cả những đều nói trên rất quen thuộc đối với tất cả mọi người trong chúng ta nhưng đây là ý kiến hoàn toàn sai lầm.
Hằng chục triệu người đã bị tập đoàn, gồm có giới bác sĩ, tài phiệt về
kỹ nghệ dược phẩm, kỹ nghệ thực phẩm, kỹ nghệ sản xuất máy quang tuyến X
nhét vào đầu ý niệm trên. Phải chăng đây là một âm mưu vì quyền lợi hay
vì mù quán mà các bác sĩ và những nhà khảo cứu tài ba đã phục vụ quyền
lợi của các đại đại tài phiệt quốc tế mà mục tiêu chính của giới nầy là
bán sản phẩm với một giá vô cùng đắt nhưng trị liệu không ra hồn và tạo
nguy hiểm cho cả thế hệ baby boomer đang bước vào tuổi già”.
Đo mật độ xương bằng kỹ thuật osteodensitometry là một sáng tạo của kỹ nghệ dược phẩm.
Vâng đúng vậy: loãng xương là một sự thật chớ không phải là một bệnh.
Loãng xương thật sự ra chỉ là một yếu tố nguy cơ (facteur de risque) mà
thôi, nhưng không nhứt thiết là quan trọng nhứt gây gãy xương, đây mới
là điều mới lạ.
Vâng, đúng vậy, loãng xương là một chuyện có thật chớ đây không phải là
bệnh.” (Dịch nguyên văn từ Le mythe de l’ostéoporose-tác giả Thierry
Souccar)
2) ‘The Myth of Osteoporosis – revised edition’
June 1, 2011 by Gillian Sanson
Hướng dẫn mới về cách chẩn đoán loãng xương: một bãi mìn để thương lượng.
“Nếu may mắn, bạn là một phụ nữ Hoa Kỳ trên 50 tuổi, bạn đã được đo mật
độ xương rồi. Rất có thể kết quả đã làm bạn hoảng hốt và lập tức bạn
phải mau mau chọn lựa phương cách chữa trị. Bạn không phải là người duy
nhứt đâu. Tuy kỹ thuật chẩn đoán mật độ xương không bao giờ là một dự
báo chính xác để báo hiệu một sự gãy xương, nhưng có thể ước lượng là
phải có trên nửa số phụ nữ Hoa Kỳ trên 65 tuổi (và một số không nhỏ phụ
nữ trẻ hơn) đã được chữa trị loãng xương bằng dược phẩm, những thuốc lợi
thì ít mà hại hại thì nhiều.
Ngày nay, năm 2011, lãnh vực chẩn đoán chẳng khác gì một bãi mìn. Bất
kể bạn là nam hay là nữ, bản hướng dẫn mới của bác sĩ về cách chẩn đoán
đã tăng cơ may (hay rủi) liệt bạn vào nhóm người có nguy cơ của tình
trạng loãng xương và cần phải được chữa trị gấp. Bản Fracture Risk
Assessement Tool (FRAX), do Y Tế Thế Giới lập ra và được US National
Osteoporosis và một số giáo sư uy tín (august bodies) thừa nhận. FRAX có
mặt trên net. Mỗi ngày có lối 60 000 lần truy cập.
Đoán mò một cách chính xác lúc nào sẽ bị gãy xương là một khoa học quá ấu trĩ…
Tổ chức National Osteoporis Foundation Hoa Kỳ (NOF) đề nghị làm xét
nghiệm tất cả phụ nữ trên 50 tuổi. Nếu đạt đuợc mục tiêu thì sẽ có ít
lắm là 72% các bà Mỹ trắng trên 65 tuổi và 93% các bà trên 75 tuổi đều
phải bị bắt buộc phải được điều trị (uống thuốc, tiêm thuốc)…
Đối với các ông Mỹ trắng: ít nhứt 34% trên 65 tuổi hay già hơn, và 49%
các cụ trên 75 tuổi hay cao hơn đều “bị khuyên” cần phải trị liệu bằng
thuốc” (Dịch nguyên văn Gillian Sanson-New osteoporis diagnostic
guidelines: a minefield to negotiate).
3) S.O.S.os, Des os solides à tout âge
Par Jean-Yves Dionne, pharmacien et auteur
Một bộ xương chắc bất luận tuổi tác
“Mặc dù có nhiều khám phá gần đây, loãng xương vẫn còn được đa số bác
sĩ và dược sĩ xem như là một thứ bệnh có thể kéo theo nhiều biến chứng,
như gãy xương và dứt khoác nó phải được chữa trị bằng thuốc men (nhóm
biphosphonates như Fosamax). Ngoài thuốc ra, người ta còn khuyên bệnh
nhân phải uống thêm calcium (1500mg/ngày) kèm theo vitamin D (800 UI).
Tôi cảm thấy cần phải nhắc lại với quý vị cho rõ là loãng xương không
phải là bệnh, không khác gì hơn tình trạng mãn kinh hay giai đoạn thanh
niên choai choai. Đây là một điều kiện, một trạng thái thuận nghịch suy
yếu của bộ xương, một yếu tố nguy cơ có thể kéo theo sự gãy xương. Tin
vui là chúng ta có trong tay tất cả công cụ giúp giảm hay ngăn ngừa sự
yếu xương và biến chứng của nó hầu có được một cuộc sống tốt hơn.
Sau khi đọc qua quyển sách S.O.S OS các bạn sẽ hiểu tại sao thuốc men
không phải là món trị bách bệnh như người ta muốn mình tin như thế.
Thuốc chỉ là một sự chọn lựa cuối cùng dùng cho các ca nặng, khi không
còn cách nào tốt đẹp hơn nữa. Sức khỏe đâu phải cần vỏn vẹn chỉ có một
viên thuốc không thôi đâu. (page 33).
Một sự lựa chon đơn giản:
“Cuối
cùng, câu hỏi thật sự liên quan đến thuốc và loãng xương phải là như
thế nầy: Tại sao phải cần đến thuốc với nguy cơ phản ứng phụ kèm theo
giá cả ngoài sức tưởng tượng trong khi một sự tiếp cận theo lối thiên
nhiên, chỉ pha trộn dinh dưỡng, và thể dục mà thôi cũng đủ loại trừ tình
trạng loãng xương và tăng chất lượng cuộc sống của chúng ta lên”.
“Trong
tác phẩm S.O.S os Ds Jean Yves Dionne cho biết trong việc phòng ngừa
vấn đề loãng xương không phải chỉ có duy nhất chất calcium của sữa và
các sản phẩm được sản xuất từ sũa không đâu. Chúng ta còn phải cần đến
các loại rau quả đủ màu sắc vì chúng chứa những chất dinh dưỡng cần
thiết như lycopène (trong cà tomate).
Chính trong thực phẩm mà chúng ta có thể tìm ra đủ vũ khí hữuu hiệu để phòng trị loãng xương.”
Kết luận:
Để phòng bệnh loãng xương, chúng ta nên dùng những loại thực phẩm đa
dạng, nhiều màu sắc, giàu Calcium, phơi nắng, tập thể dục, bỏ thuốc lá,
bớt cà phê, bớt nước ngọt có gaz (như Coca v,v…), bớt muối, bớt rượu,
nếu cần thì uống thêm supplement Calcium + vitamin D, đó là những phương
pháp dễ thực hành mà bất cứ ai cũng đều có thể làm được.
Điều quan trọng nhứt là tránh khiêng vác đồ vật nặng và tránh té ngã, nhứt là đối với lớp các ông các bà lớn tuổi.
Theo định kỳ nhớ đi khám bác sĩ./.
Tham khảo
- Các loại thuốc chữa trị loãng xương-Types of Osteoporosis Medications by National Osteoporosis Foundation
- Mayo Clinic-T score and Z score
- Ts Nguyễn Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Garvan, Sydney, Autralia-Loãng xương
- Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức- Bệnh loãng xương
- L'ostéoporose d'un coup d'oeil
- Vivre bien avec l'ostéoporose
- Top 10 Calcium-Rich Foods
- The Forteo Mystery: What You Should Know About this puzzling Drug
Bs Nguyễn Thượng Chánh 05-2014
Hồng Phúc sưu tầm
Bs Nguyễn Thượng Chánh 05-2014
Hồng Phúc sưu tầm
samedi 1 novembre 2014
Thánh ca "tháng 11"
Các anh chị em thân mến,
Tháng 11 là tháng người đạo Công Giáo đặc biệt cầu nguyện cho các linh hồn thân nhân đã qua đời.
Xin được giới thiệu 2 bài hát Cầu Hồn do Trầm Thiên Thu sáng tác.
Dịp này chúng ta cũng riêng nhớ tới linh hồn Cố Tổng Thống Gioan Baotixita Ngô Đình Diệm.
Trình Diện -Trầm Thiên Thu - Tiếng hát Việt Thắng
Kiếp Hoa -Trầm Thiên Thu - Tiếng hát Bích Phượng
Ngoài ra cũng xin gởi 2 bài Thánh ca của Linh Mục Mi Trầm:
THÂN LÚA MIẾN - Lm Mi Trầm - Tiếng hát Diệu Hiền & Nhóm bè New Day
Chúa Sẽ Đền Bù - Lm Mi Trầm - Tiếng hát Diệu Hiền
Duy Hân
Inscription à :
Articles (Atom)