lundi 30 mars 2015

Hạnh phúc ở nơi đâu và vào lúc nào ?

 
Nếu hạnh phúc là thứ dễ tìm thấy thì có lẽ con người chẳng phải nếm mùi khổ đau nhiều như vậy? Nếu hạnh phúc là thứ ẩn nấp để cùng con người tham gia trò trốn tìm thì cuộc sống này liệu có còn thời gian tìm kiếm?     
 1/. Hạnh phúc ở nơi đâu?
    - Hạnh phúc nằm ở đôi môi của bạn?  
    Một đôi môi biết mỉm cười và biết nói lời yêu thương chính là cửa ngõ dẫn đến hạnh phúc an nhiên của con người.
    Nếu bạn chỉ biết than vãn, chỉ biết oán trách những trớ trêu của cuộc đời, chỉ biết dùng lời nói để chê bai, mỉa mai, công kích người khác thì đừng hỏi “Vì sao tôi không thấy hạnh phúc”. Hãy nói về những yêu thương tốt đẹp, hãy mỉm cười với cuộc sống xung quanh, hãy dành những lời ngọt ngào cho những người bạn yêu quý và bạn sẽ thấy hạnh phúc nảy nở từ đôi môi.    
    - Hạnh phúc nằm ở sự tha thứ?
    Chẳng có ai ôm trong lòng mối hận thù mà cảm thấy vui vẻ và thoải mái cả. Có thể, họ đã làm tổn thương bạn, họ đã phản bội lòng tin và hằn trong lòng bạn một vết thương sâu hoắm và nhức nhối nhưng hãy đặt tay lên ngực mình và dặn với chính mình “Cuộc đời này vốn không đủ dài để yêu thương chỉ sao lại phí hoài nó cho hận thù”.
      Vì thế, bằng cách này hay cách khác, hãy quên đi những vết thương và quên đi người để lại vết thương ấy, bạn cho đi sự tha thứ cũng chính là cách bạn tự cho chính mình một món quà chứa đầy hạnh phúc và an nhiên.
       Tôi không chắc chúng ta có thể lại tin, lại yêu người ấy như chưa có chuyện gì nhưng chỉ cần bản thân tha thứ được thì ta sẽ lại có thể mỉm cười khi giáp mặt nhau.  Như vậy, không phải sẽ tốt hơn sao?      
    - Hạnh phúc nằm ở chỗ Cho chứ không phải chỗ Đòi.
    Hãy cho đi những thứ bạn muốn, rồi cuộc đời sẽ trả lại cho bạn những gì mà bạn muốn, có thể nó không đến từ người bạn cần nhưng chắc chắn rằng trong dòng đời sau này, sẽ có người cho bạn lại những điều như thế.
    Đừng đòi hỏi điều gì khi bản thân không làm được. Sự hụt hẫng khi điều mình muốn không được đáp lại rất dễ đẩy bạn vào hố sâu của thất vọng.     
    Vì thế, đừng tự giết cảm xúc của mình chỉ vì những đòi hỏi cho thỏa mãn cảm xúc của bản thân, hãy học cách cho đi thật nhiều, cuộc sống này không để bạn chịu thiệt thòi đâu.      
2/. Hạnh phúc vào lúc nào?
    - Hạnh phúc là khi bạn biết Đủ?
    Nói theo Đạo học là “Thái quá hay Bất cập đều là dở cả” (thái độ cực đoan là không tốt).
       Yêu thương quá sinh ra gò bó, quan tâm quá sẽ khiến mất tự do, ghen tuông quá cũng mất vị tình yêu và cái gì cũng thế, chạm đến chữ Đủ sẽ chạm được hạnh phúc tròn vị.
    Đừng chạy theo cái gì quá hoàn chỉnh và cũng đừng ép bản thân phải trở nên quá hoàn hảo, yêu thương vừa đủ, ấm áp vừa đủ, quan tâm vừa đủ và bên nhau vừa đủ có lẽ sẽ hạnh phúc hơn.
     Do đó, chúng ta thấy hạnh phúc chẳng nằm ở đâu xa, mà nằm ngay nơi chính ta, và hạnh phúc cũng chẳng phải là cái đích đặt ra để chúng ta đi đến, mà là thứ luôn hiện hữu song hành bên ta trong cuộc sống, chỉ vì ta quá hướng ngoại mà không quan tâm quên mất nó đi thôi.  
    Vì thế, hạnh phúc của chúng ta hẳn phải do tự chúng ta xây lấy, chứ chẳng phải chạy theo một ai đó để xin ban. Thứ hạnh phúc xin ban chỉ là thứ hạnh phúc ảo, nó sẽ dần chết theo thời gian.
Nguồn: Góc Trái Tim
P.Anh chuyển

Thác nước Iguazu


Thác Iguazu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thác nước Iguazu
Iguacu-004.jpg
Thác nước Iguazu nằm trên sông Iguazu thuộc hai vườn quốc gia Argentina và Brazil.
Vị trí  Argentina, tỉnh Misiones.
 Brasil, bang Paraná.
Toạ độ 25°41′43″N 54°26′12″TTọa độ: 25°41′43″N 54°26′12″T
Loại thác thác nước lớn
Tổng chiều cao 60–82 mét (197–269 ft)[1]
Số tầng 275[1]
Tầng dốc cao nhất 82 mét (269 ft)[1]
Total width 2,7 kilômét (1,7 mi)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ][1]
Average
flow rate
1.756 m3/s (62.010 cu ft/s)[1]
Thác nước Iguazu hay Iguazú, Iguassu, Iguaçu (tiếng Bồ Đào Nha: Cataratas do Iguaçu [[[kataɾatɐz du iɡwasu]]]; Tây Ban Nha: Cataratas del Iguazú [[[kataˈɾatas ðel iɣwaˈsu]]]; Guarani: Chororo Yguasu [[[ɕoɾoɾo ɨɣʷasu]]]) là thác nước nằm trên sông Iguazu, biên giới của bang Paraná của Brasil và tỉnh Misiones của Argentina. Sông Iguazu chảy từ khu vực núi gần thành phố Curitiba hợp lưu với sông San Antonio hình thành ranh giới tự nhiên giữa Argentina và Brazil.
Cái tên "Iguazu" xuất phát từ tiếng Guarani hoặc Tupi "y" [[[ɨ]]], có nghĩa là "nước", và "ûasú" [[[wasu]]], có nghĩa là "lớn" [2]. Truyền thuyết kể rằng một vị thần đã kết hôn với một người phụ nữ đẹp tên Naipí, nhưng người đó đã chạy trốn với một người tên là Tarobá trong một chiếc xuồng. Trong cơn giận dữ, thần thái lát sông, tạo ra thác nước này.[2] Một người Tây Ban Nha Álvar Núñez Cabeza de Vaca đạt được danh hiệu conquistador là người tìm thấy thác nước này vào năm 1541.

Mục lục


Địa lý

Iguazu nằm trên sông Iguazu, trên cạnh của các cao nguyên Paraná, có chiều dài 23 km (14 dặm) tại thượng nguồn, sau đó hợp lưu của Iguazu với sông Paraná.[1] Nhiều hòn đảo dọc theo thác trải dài trên chiều dài 2,7 km phân chia thác thành nhiều thác nước nhỏ riêng biệt. Thác Iguazu có độ cao thay đổi từ 60 đến 82 mét (197 đến 269 ft). Số lượng những thác nước nhỏ dao động từ 150 tới 300, tùy thuộc vào lượng nước.[3] Một nửa của dòng chảy con sông đổ vào một vực thẳm dài và hẹp được gọi là Họng quỷ (Garganta del Diablo trong tiếng Tây Ban Nha hoặc Garganta do Diabo trong tiếng Bồ Đào Nha). Vực thẳm này có hình chữ U, cao 82 m rộng 150 m và dài 700 m (269 × 490 × 2.300 ft). Một số thác nhỏ hơn gần thác Iguazu, chẳng hạn như thác San Martin, thác Bossetti và nhiều thác khác [3].
Thác nước bên phía Argentina có khoảng 900 m (2950 ft) trên tổng chiều dài 2,7 km (1,7 dặm) là không có nước chảy bởi nước của sông Iguazu trong hẻm núi thấp hơn so với trên sông Paraná, và cách đập Itaipu không xa. Tại cửa sông Iguazu đổ vào Paraná là biên giới tự nhiên của ba quốc gia Brazil, Argentina và Paraguay. Tại đây gần các thành phố Foz do Iguaçu (của Brazil), Puerto Iguazú (của Argentina) và Ciudad del Este (của Paraguay).
Thác Iguazu được sắp xếp giống như một chữ "J" đảo ngược. Ở phần bên phải là lãnh thổ Brazil, trong đó có hơn 20% của thác, và bên trái là lãnh thổ Argentina chiếm gần 80% của thác.
Thác nước Iguazu được bảo vệ bởi hai vườn quốc giavườn quốc gia Iguaçu của Brazil và vườn quốc gia Iguazú. Cả hai vườn quốc gia này lần lượt được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 19841986 [4]. Đây cũng là một trong những khu vực bảo tồn rừng lớn nhất ở Nam Mỹ.
Khu vực thác nước lần đầu tiên được đề xuất thành lập vườn quốc gia của Brazil nhằm bảo vệ thiên nhiên cho thế hệ tương lai. Trong cuốn sách được viết vào năm 1876 của một kỹ sư tên là Andre Rebouças, thác nước được mô tả bằng những từ ngữ như "đẹp tuyệt vời", "đẹp như tranh vẽ", "được tạo ra bởi Đức Chúa Trời"...
Tham quan thác nước từ phía Brazil, chúng ta có thể đi bộ theo con đường dọc hẻm núi hoặc quan sát trên trực thăng. Nhưng Argentina đã cấm các tour du lịch trực thăng như vậy bởi vì nó gây các tác động tới môi trường, tới hệ động thực vật của thác [5]. Khách quốc tế tới sân bay Foz do Iguacu, sau đó đi taxi hoặc xe buýt tới cổng của vườn quốc gia cách đó khoảng 10 km.
Tại Argentina, chúng ta phải đi bằng tàu qua một khu rừng mưa nhiệt đới, sau đó khách du lịch có thể chiêm ngưỡng thác từ con đường mòn dài khoảng 1 km hoặc đi thuyền, xuồng cao su để chiêm ngưỡng thác nước từ chân của nó. Việc tạo tour du lịch từ cả hai quốc gia nhằm tạo lợi nhuận cho cả hai, đồng thời giảm thiệu lượng khách du lịch, giảm ô nhiễm và lượng khí thải. Dọc chuyến du lịch, chúng ta có thể chiêm ngưỡng các loài động vật quý hiếm của vườn quốc gia như báo đốm, bướm, gấu trúc, khỉ Prego, rắn san hô, chim Toucan, vẹt, cá sấu Caiman...

So sánh



Iguazú từ phía Argentina


Thác Iguazu


Du lịch và chiêm ngưỡng thác nước tại Brazil


Quan sát từ vệ tinh
Khi nhìn thấy Iguazu lần đầu tiên, chính khách Hoa KỳEleanor Roosevelt, vợ của tổng thống Franklin D. Roosevelt đã thốt lên "Poor Niagara!" [2]. Iguazu cũng thường được so sánh với thác Victoria ở châu Phi, là thác nước ngăn cách ZambiaZimbabwe. Thác Iguazu rộng hơn, nhưng bởi vì nó được chia thành khoảng 275 thác nước nhỏ bởi các đảo nhỏ nên thác Victoria là "bức màn lớn nhất" của các thác nước trên thế giới, với chiều rộng trải dài hơn 1.600 m (5249 ft) và cao 100 m (328 ft) (khi lưu lượng thấp, thác Victoria được chia thành 5 thác nhỏ; khi dòng chảy lớn, nó có thể đổ xuống mà không bị gián đoạn). Thác Iguazu cũng không rộng và chảy siết như thác Boyoma (với chiều rộng tới 100 km). Iguazu hiện đang có dòng chảy trung bình hàng năm lớn nhất trên thế giới, sau khi được so sánh với thác Niagara, với một tốc độ trung bình là 1.746 m3 / s (61.660 cu ft). Ghi lại dòng chảy tối đa của nó là 12.800 m3 / s (452.000 cu ft / s) [6] Để so sánh, lưu lượng trung bình của thác Niagara là 2.400 m3 / s (85.000 cu ft), với lưu lượng ghi nhận tối đa là 8.300 m3 / s. (293.000 cu ft / s) [7]. lưu lượng trung bình tại thác Victoria là 1.088 m3 / s (38.420 cu ft / s), với lưu lượng ghi tối đa 7.100 m3 / s (250.000 cu ft / s). [8]
Chỉ có độ cao từ 30 tới 150 mét (100 và 490 ft), còn tại thác Victoria có chiều cao 300 m (984 ft). Tuy nhiên, Iguazu có tầm quan sát tốt hơn, cùng với lối đi và hình dạng của nó cho phép quan sát được những khung cảnh ngoạn mục. Tại một thời điểm, một người có thể đứng bao quát 260 độ của thác nước. Iguazu được chia thành các thác nước nhỏ, người ta có thể quan sát được thác từ giữa thác. Victoria không cho phép điều này, vì nó cơ bản là một trong những thác nước rơi vào một hẻm núi và quá rộng để quan sát được từ đây (trừ khi quan sát từ trên không). Ngày 11 tháng 11 năm 2011, Iguazu đã được công bố là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên của tổ chức Bảy kỳ quan thế giới mới (NOWC)


Thác Iguazu

Xem thêm



Tài liệu tham khảo

  1. “Iguaçu Falls”. Encyclopædia Britannica . 2011. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2011.
  2. “Iguazu Falls”. Wondermondo.
  3.  “Iguazú Argentina - Portal de las Cataratas del Iguazú”. Iguazuargentina.com. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2012.
  4.  “Niagara Falls”. World Waterfall Database. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2010.

*************************************** 

Iguazu National Park
The semicircular waterfall at the heart of this site is some 80 m high and 2,700 m in diameter and is situated on a basaltic line spanning the border between Argentina and Brazil. Made up of many cascades producing vast sprays of water, it is one of the most spectacular waterfalls in the world. The surrounding subtropical rainforest has over 2,000 species of vascular plants and is home to the typical wildlife of the region: tapirs, giant anteaters, howler monkeys, ocelots, jaguars and caymans.
    Iguazu National Park © Philipp Schinz
    Outstanding Universal Value
    Brief Synthesis
    Located in Misiones Province in the Northeastern tip of Argentina and bordering the Brazilian state of Parana to the north, Iguazú National Park, jointly with its sister park Iguaçu in Brazil, is among the world’s visually and acoustically most stunning natural sites for its massive waterfalls. It was inscribed on the World Heritage List in 1984. Across a width of almost three kilometres the Iguazú or Iguaçu River, drops vertically some 80 meters in a series of cataracts. The river, aptly named after the indigenous term for “great water” forms a large bend in the shape of a horseshoe in the heart of the two parks and constitutes the international border between Argentina and Brazil before it flows into the mighty Parana River less than 25 kilometres downriver from the park. Large clouds of spray permanently soak the many river islands and the surrounding riverine forests, creating an extremely humid micro-climate favouring lush and dense sub-tropical vegetation harbouring a diverse fauna.
    In addition to its striking natural beauty and the magnificent liaison between land and water Iguazu National Park and the neighbouring property constitute a significant remnant of the Atlantic Forest, one of the most threatened global conservation priorities. This forest biome historically covering large parts of the Brazilian coast and extending into Northern Argentina and Uruguay, as well as Eastern Paraguay, is known for its extreme habitat and species diversity, as well as its high degree of endemism. Around 2000 plant species, including some 80 tree species have been suggested to occur in the property along with around 400 bird species, including the elusive Harpy Eagle. The parks are also home to some several wild cat species and rare species such as the broad-snouted Caiman.
    Jointly with contiguous Iguaçu National Park in Brazil, which was inscribed on the World Heritage List in 1986, it constitutes one of the most significant remnants of the so-called Interior Atlantic Forest. Today, the parks are mostly surrounded by a landscape that has been strongly altered due to heavy logging, both historically and into the present, the intensification and expansion of both industrial and small-scale agriculture, plantation forestry for pulp and paper and rural settlements. Jointly, the two sister parks total around 240,000 hectares with this property’s contribution being c. 67,000 hectares.
    Criterion (vii):Iguazú National Park and its sister World Heritage property Iguaçu National Park in Brazil conserve one of the largest and most spectacular waterfalls in the world comprised of a system of numerous cascades and rapids and almost three kilometres wide within the setting of a lush and diverse sub-tropical broadleaf forest. The permanent spray from the cataracts forms impressive clouds that soak the forested islands and river banks resulting in a visually stunning and constantly changing interface between land and water.
    Criterion (x):Iguazu National Park, together with the contiguous World Heritage property of Iguaçu National Park in Brazil and adjacent protected areas, forms the largest single protected remnant of the Paranaense subtropical rainforest, which belongs to the Interior Atlantic Forest. The rich biodiversity includes over 2000 species of plants, 400 species of birds and possibly as many as 80 mammals, as well as countless invertebrate species.
    Rare charismatic species include the broad-snouted Caiman, Giant Anteater, Harpy Eagle, Ocelot and the Jaguar.
    Next to the waterfalls along the river and on the islands a highly specialized ecosystem full of life has evolved in response to the extreme conditions of the tumbling water and soaking humidity.
    Integrity
    Iguazú National Park has a long conservation history dating back to the early 20th Century and was declared a national park in 1934 illustrating the longstanding recognition of its quality. The integrity of Iguazú National Park must be considered in conjunction with the sister property in neighbouring Brazil. Jointly, the two properties constitute a valuable remnant of a once much larger forest area and adequately conserve the splendid system of waterfalls. Effective management of the protected areas and mitigating land use impacts in and from the surrounding landscape increase the likelihood of maintaining many of the values the property has been inscribed for, and contribute to the survival of species that live in the property and wider landscape. The prominent role as a major international and domestic tourism destination makes Iguazú National Park a highly visible property. Threats to it are likely to draw strong attention and there are important political and economic incentives to invest in the future of the property.
    Protection and management requirements
    Iguazu National Park is owned by the national government and is an integral part of Argentina’s National System of Federal Protected Areas SIFAP (under the National Parks Law Nº 22351) and was created as early as 1934 (Law Nº 12103).
    The management of this protected area is in the hands of trained professionals, including rangers. A budget is available to secure the infrastructure and equipment needs to carry out their duties responsibly. A regional technical office lends professional support, and there is a sub-tropical research centre engaged in ecological studies.
    Water levels are artificially modified through power plants upriver in Brazil, such as the José Richa or Salto Caxias Hydroelectric Plant, causing scenic and ecological impacts. These impacts require monitoring and mitigation and future impacts need to be prevented.
    Tourism management is a key task in the property minimizing the direct and indirect impacts of heavy visitation and maximizing the opportunities in terms of aware-raising for nature conservation and conservation financing.
    The value of the property is consolidated by the contiguity with the much larger Iguaçu National Park in Brazil but requires corresponding effective management on both sides of the international border. Over time, an increasing harmonization of planning, management and monitoring is highly desirable and indeed necessary. Ideally, a joint approach will encompass commitment at the highest political levels all the way to tangible activities on the ground based on existing efforts.
    Among the threats requiring permanent attention are existing and future hydro-power development upriver, ongoing deforestation in the broader region, including in the adjacent forests in nearby Brazil and Paraguay, agricultural encroachment, as well as poaching and extraction of plants. Tourism and recreation and corresponding transportation and accommodation infrastructure have undoubtedly been impacting on the property and can easily pass the limits of acceptable change.
    Given the ongoing transformation of the landscape around the properties in the recent decades future management will have to develop longer term scenarios and plans taking into account this reality. Beyond the relatively small park it will be important to strike a balance between conservation and other land and resource use in Misiones Province so as to maintain or restore the connectivity of the landscape. This will require working with other sectors and local communities. Eventually, the property should be buffered by adequate and harmonized land use planning in the adjacent areas in Argentina, Brazil and Paraguay.
    Long Description
    The site consists of the national park and national reserves in Misiones Province, north-eastern Argentina. The Iguazú River forms the northern boundary of both the reserves and park, and also the southern boundary of Iguaçu National Park World Heritage site in Brazil.
    The Iguazú Falls span the border between Argentina and Brazil. Some 80 m high and 3 km wide, the falls are made up of many cascades that generate vast sprays of water and produce one of the most spectacular waterfalls in the world.
    The vegetation is mostly subtropical wet forest rich in lianas and epithytes, although the forests have less species diversity when compared with others in Brazil and parts of Paraguay. Nonethless, over 2,000 species of vascular plant have been identified. Vegitation around falls is particularly luxuriant due to the constant spray.
    The fauna are typical of the region and include tapir, coati, tamandua, raccon. The site is particularly rich in bird speices with almost half of Argentina's bird species found there. Threatened mammals such as the jaguar, ocelot and tiger-cat number among the carnivores, and the giant anteater and Brazilian otter are also found. Primates include the black-capped capuchin and black howler monkey. There are also small populations of the endangered broad-nosed caiman and the threatened Brazilian merganser (sawbill duck).
    The first inhabitants in the area were the Caingangues Indians. This tribe was dislodged by the Tupi-Guaranies who coined the name Iguazú (Big Water). The first European to reach the falls was the Spaniard Don Alvar Nuñes Cabeza de Vaca in 1541 and some 10 years later Spanish and Portuguese colonization commenced. There are at least two sites of particular archaeological interest within the park.
    Source: UNESCO/CLT/WHC

    Links

    Liên kết ngoài



    samedi 28 mars 2015

    ĐỒNG CẢM VỚI CHÚA

    par le Pérugin
    ĐNG CM VI CHÚA

    Chuyện kể rằng khi quân Mông Cổ mở mang bờ cõi đến vùng Ba Tư, họ bắt được một tu sĩ công giáo.  Quân Mông Cổ giải vị tu sĩ đến gặp Thành Cát Tư Hãn.  Thấy người tù binh đeo một cây thánh giá trước ngực, vị đại hãn hỏi về ý nghĩa của dấu hiệu này. Thế là vị tu sĩ nhân cơ hội ngàn vàng kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu cho cả triều đình Mông Cổ nghe.  Vị đại hãn tỏ ra thích thú, cho đến khi nghe đoạn thương khó. 

    Khi nghe đến chuyện Chúa Giêsu bị phản bội, bị bắt, bị đánh đòn, rồi bị đóng đinh, càng lúc khuôn mặt của đại hãn càng lộ vẻ tức giận.  Đến lúc vị tu sĩ nói: “Chúa Giêsu kêu lớn: Elôi, Elôi lamma sabác thani” (Mc 15:34), Thành Cát Tư Hãn gầm lên: “Rồi sao nữa?”  Sau khi nghe chuyện Chúa Giêsu gục đầu tắt thở, màn đền thờ xé làm đôi, rồi viên đại đội trưởng tuyên bố “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:38), đại hãn trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Thế Thượng đế của các ngươi đã làm gì?”  “Ngài có sai quân binh trên trời xuống tàn sát những kẻ giết con của Ngài không?” 

    Khi thấy vị tu sĩ lắc đầu, Thành Cát Tư Hãn khoát tay đuổi ông ra và không muốn nghe thêm nữa.  Đại hãn bình luận: “Một chủ tể mà không bảo vệ được con của ngài, một quân vương mà không trả thù cho con của ngài, thì có gì mà đáng kính phục.” Và dĩ nhiên là Thành Cát Tư Hãn không theo đạo.



    ****************************
    Tội nghiệp vị đại hãn chưa có dịp nghe đoạn kết câu chuyện, vì nếu đã được nghe, có lẽ ông đã có một kết luận khác. Còn chúng ta, dĩ nhiên là chúng ta biết hết câu chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Chúa chết trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại và ba ngày sau Ngài sẽ sống lại.  Nhưng chúng ta có thật sự hiểu câu chuyện này không? Chúng ta có thực sự hồi hộp theo dõi từng tình tiết một, như vị đại hãn đã làm không?

    Có lẽ vì chúng ta nghe quá nhiều lần nên có khi đã không còn tâm tình cùng đi với Chúa Giêsu trên con đường tử nạn.  Có lẽ vì chúng ta biết Chúa sẽ sống lại nên khó cảm nghiệm được cảm giác của người nghe câu chuyện lần đầu. Bi thương, hùng tráng, giận dữ, chua xót, mất mát, đau buồn, v.v...  Những cảm giác đó mới chính là những gì chúng ta cần được cảm nghiệm trong Tuần Thánh này.  Kể từ hôm nay, chúng ta được mời cùng đi với Chúa Giêsu, với Mẹ của Ngài, từng ngày một, từng bước một, vào trong câu chuyện Thương Khó. 

    Cuộc Thương Khó giúp tôi ý thức sự giới hạn của lý trí khi tôi không có câu trả lời cho những vấn nạn của cuộc đời:  Tại sao tôi mất việc?  Tại sao gia đình tôi đổ vỡ?  Tại sao con cái tôi hư hỏng?  Tại sao em tôi bị bạo bệnh?  Tại sao bạn tôi chết khi còn quá trẻ?  Tại sao và tại sao?  Đó là những vấn nạn, đôi khi không có câu trả lời.  Nhìn lên Chúa, Chúa im lặng.  Nhìn sang Phật, Phật nhắm mắt.  Hỏi những người thông thái, họ lắc đầu: Không biết!  Phải chăng lúc đó tôi cũng kêu lên rằng: Lạy Chúa sao Chúa bỏ con?

    *********************************
    Bạn thân mến,
    Đau khổ là một thực tế không thể chạy trốn trong kiếp người. Tôi chỉ có thể trực diện với nó khi tôi biết Con Thiên Chúa cũng đã đi qua cái chung cuộc tồi tàn nhất của kiếp người. Bị bạn bè bán đứng, bị người thân chối bỏ.  Thân phận Ngài còn thua xa tên tội phạm Barabba.  Con Thiên Chúa đã chết một cách thầm lặng trần truồng trên thập giá.  Đứng dưới chân thập giá, có mấy người nhỏ lệ?  có bao nhiêu người hả hê?  Nếu Con Thiên Chúa, Đấng vô tội mà còn bị người đời đối xử thế đó, thì làm sao tôi là môn đệ Ngài có quyền đòi hỏi cái gì khác hơn.  Nếu Thiên Chúa đã im lặng khi Con của Ngài bị giết, thì làm sao tôi có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải lên tiếng khi tôi gặp đau khổ.

    Chúa Giêsu đã mang lấy một số phận nghiệt ngã hơn chúng ta nhiều lắm.  Thế nên khi gặp đau khổ hoạn nạn, tôi đừng vội trách Chúa sao lại gửi cho con thập giá quá nặng nề.  Không, Thiên Chúa không phải là tác giả của hình phạt dã man độc ác đó.  Chính con người chúng ta nghĩ ra những trò độc ác, những hình phạt dã man để hại nhau, giết nhau. Và rồi chính con ngưòi đóng đinh cả Con Thiên Chúa trên đó nữa.

    Nhưng phần Ngài, sao Ngài lại chấp nhận như thế?  Phải chăng khi chọn chén đắng của cuộc đời, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy đau khổ và sự chết không phải là tiếng nói sau cùng?  Phải chăng Ngài muốn chia sẻ thân phận mỏng dòn yếu hèn của chúng ta?  Đúng như lời thánh Phaolô tuyên bố: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8).  Quả thế, Con Thiên Chúa đã cúi mình xuống để nâng chúng ta lên với Ngài.  Dù chúng ta phải đi qua con đường khổ giá, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đi một mình.  Qua những người chung quanh, Chúa Kitô ghé vai cùng vác thập giá cùng chia sẻ cuộc đời với chúng ta.

    Palm & Cross-A


     Chủ Nhật Lễ Lá hôm nay cũng còn gọi là Chủ Nhật Thương Khó.  Đây là chủ nhật đặc biệt nhất trong năm vì có đến hai bài Phúc âm được đọc.  Một bài Phúc âm về reo hò mừng vui của việc đón rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem… và sau đó là bài Phúc âm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, bắt đầu từ âm muu nộp Chúa của Giuđa cho đến lúc táng xác Chúa.

    Hai bài Phúc âm với hai tâm tình trái ngược.  Dân chúng hôm trước thì tung hô, mấy hôm sau thì đả đảo. Các môn đệ hôm trước thì hãnh diện đi với Thầy, vài hôm sau trốn chui trốn nhủi.  Các kinh sư và Biệt phái hôm trước thì e dè, vài bữa sau thì hả hê.  Tâm tình của con người là thế đó.  Và Chúa Giêsu biết điều đó.  Ngài chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, tha thứ tất cả.

    Thật dễ dàng để suy tư về ý nghĩa của Tuần Thương Khó, nhưng không thật dễ dàng để cảm nghiệm được những đau đớn của Tuần Thương Khó.  Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy để những cảm giác đau đớn, giận dữ, khó chịu, kinh sợ, v.v... nổi lên trong lòng chúng ta.  Những cảm xúc này thật cần thiết để mỗi khi bị phản bội, bị bỏ rơi, bị lăng mạ hay bị kết án, bị trù dập hay bị sỉ nhục, bị chế diễu, bị lột trần hay bị đóng đinh, chúng ta có thể nhìn lên thập giá với một niềm an ủi. 

    Ước gì mỗi người chúng ta bước vào Tuần Thương Khó với tâm tình của Chúa Giêsu, để rồi khi chúng ta cùng chết đi với Ngài, chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài.

    Xin cầu chúc bạn một Tuần Thánh được cử hành trong niềm tin và ân sủng của Đấng đã chịu chết vì chúng ta. Amen.

    Antôn-Phaolô
    P.Anh chuyển

    Câu chuyện Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem



    Video: Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 19/03 - 25/03/2015: Câu chuyện Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem
    VietCatholic Network3/25/2015


    1. Hãy thương xót, đừng đóng cửa con tim lại

    Giáo Hội “là nhà của Chúa Giêsu”, một ngôi nhà của lòng thương xót chào đón tất cả, và do đó không phải là một nơi mà các Kitô hữu có thể đóng cửa lại trước những ai muốn vào . Đây là thông điệp trọng tâm trong bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thánh Lễ sáng thứ Ba 17 tháng Ba tại nhà nguyện Santa Marta.

    Một thông điệp mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong quá khứ: đó là Đức Giêsu luôn mở rộng cửa cho bất cứ ai tìm Ngài và đặc biệt là cho những người xa Ngài. Nhưng, Đức Giáo Hoàng than thở là một số Kitô hữu lại đóng cửa lại trước những người gõ cửa Giáo Hội. Trong khi Chúa Kitô trao ban toàn bộ lòng thương xót, những người tuyên xưng niềm tin vào Ngài đôi khi lại cản trở Ngài bằng cách đóng cửa trước những người khác.

    Suy tư của Đức Thánh Cha bắt đầu với nước, là nhân vật chính trong bài đọc phụng vụ hôm thứ Ba. Đức Thánh Cha đã bình luận về lời mô tả của tiên tri Ezekiel về dòng nước nhỏ giọt chảy ra từ ngưỡng cửa của đền thờ, và gọi đó là “nước chữa lành”. Dòng nước ấy trở thành một dòng sông cuồn cuộn đầy cá, có khả năng chữa lành bất cứ ai. Và, trong Tin Mừng, đó là dòng nước của hồ Bethesda, nơi một người đàn ông bị liệt đang buồn bã nằm bên bờ hồ. Đức Giáo Hoàng đã miêu tả ông ta như là một người có chút “lười biếng” vì ông chưa bao giờ tìm cách đắm mình trong làn nước đang chuyển động hầu tìm kiếm sự chữa lành. Nhưng, Chúa Giêsu đã chữa lành anh ta và khuyến khích anh ta “bước đi”, nhưng điều này gây ra sự chỉ trích của các thầy thông luật vì sự chữa lành đã diễn ra vào ngày thứ Bảy. Đó là một câu chuyện mà Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng đang xảy ra “nhiều lần” ngày hôm nay:

    Ngài nói:

    “Một người đàn ông - một người phụ nữ - những người cảm thấy bị bệnh trong tâm hồn, buồn bã, những người đã mắc nhiều sai lầm trong cuộc sống, tại một thời điểm nào đó cảm thấy được các dòng nước đang di chuyển - Chúa Thánh Thần đang di chuyển một cái gì đó - hoặc họ nghe thấy một từ nào đó hoặc một ý muốn “Ah, tôi muốn được bước đi! ' ... Và họ thu hết can đảm của mình và bước đi. Và bao nhiêu lần trong cộng đồng Kitô hữu ngày nay họ sẽ tìm thấy những cánh cửa đóng kín! “Nhưng bạn không thể, không thể vào. Bạn đã phạm tội và bạn không thể vào đây . Nếu bạn muốn đến, hãy đến với lễ Chúa Nhật, nhưng bao nhiêu đó thôi - đó là tất cả những gì bạn có thể làm. Như thế, những gì Chúa Thánh Thần đã tạo nên trong trái tim của con người, những người Kitô hữu với não trạng của những thầy thông luật đã triệt tiêu hoàn toàn”.

    “Điều này khiến tôi đau khổ” Đức Giáo Hoàng nói trong khi nhắc lại rằng Giáo Hội luôn luôn giữ cho cửa được rộng mở.

    “Giáo Hội là nhà của Chúa Giêsu và Chúa Giêsu chào đón tất cả. Nhưng không chỉ dừng lại ở việc chào đón, Ngài tiến ra ra để tìm kiếm con người như Ngài đã tìm người đàn ông này. Và với những người bị thương, Chúa Giêsu làm gì với họ? Mắng chửi họ vì họ đã bị thương chăng? Không, Ngài đến và mang vác họ trên vai Ngài. Và điều này được gọi là lòng thương xót. Và khi Chúa quở trách dân Ngài: “Ta muốn lòng thương xót cứ không phải là của lễ hy sinh!” - Ngài đang nói về điều này.

    “Anh chị em là ai mà dám đóng cửa con tim mình trước một người muốn cải thiện, muốn quay về trong hàng ngũ dân Chúa - bởi vì Chúa Thánh Thần đã khuấy động trái tim của người đó?”

    Đức Thánh Cha kết luận rằng mùa Chay giúp chúng ta tránh những sai lầm tương tự như những người coi thường tình yêu Chúa Giêsu dành cho người bại liệt, chỉ vì điều đó là trái với lề luật:

    “Chúng ta xin Chúa trong thánh lễ ngày hôm nay cho chúng ta, cho mỗi người chúng ta và cho toàn thể Giáo Hội, một lòng hoán cải hướng về Chúa Giêsu, một lòng hoán cải hướng về lòng thương xót của Chúa Giêsu. Và như thế, Lề Luật sẽ được thực hiện đầy đủ, vì Lề Luật chính là hãy yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như chính mình.”

    2. Hãy có không gian cho tình yêu Chúa để Ngài có thể thay đổi chúng ta

    Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng chúng ta được yêu thương bởi Thiên Chúa trong một cách thế không thần học gia nào có thể giải thích. Ngài đã phát biểu như trên trong Thánh Lễ sáng thứ Hai 16 tháng Ba tại nhà nguyện Santa Marta

    Lấy ý từ bài đọc thứ nhất trích từ sách tiên tri Isaia trong đó Chúa nói Ngài sẽ “tạo ra một trời mới và đất mới”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng kỳ công sáng tạo lần thứ hai của Thiên Chúa còn hơn “tuyệt vời” hơn trước bởi vì trời mới đất mới này được hình thành nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài làm mới tất cả mọi thứ và biểu lộ niềm vui bao la của Ngài. Đức Thánh Cha nói:

    “Chúng ta thấy Chúa đã rất nhiệt thành: Ngài nói về niềm vui và rằng: ‘Ta sẽ hân hoan nơi dân Ta’. Chúa nghĩ về những gì Ngài sẽ làm và Ngài sẽ vui mừng với dân Ngài như thế nào. Thật gần như là một giấc mơ. Thiên Chúa có một giấc mơ. Ước mơ của Ngài về chúng ta. ‘Oh, thật là vui khi tất cả chúng ta quy tụ cùng nhau, khi này và người kia sẽ đi với tôi ... Tôi sẽ hân hoan trong thời điểm đó!’ Để mang lại cho anh chị em một ví dụ có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn, tôi muốn nói về một cô gái hay một cậu bé nghĩ về người yêu của mình: ‘Khi chúng ta được ở bên nhau, khi chúng ta kết hôn ...’. Đó là ‘giấc mơ’ của Thiên Chúa”.

    Đức Thánh Cha nói tiếp rằng “Thiên Chúa nghĩ về mỗi người chúng ta và yêu thương mỗi người chúng ta. Ngài 'mơ' về chúng ta. Ngài mơ ước sẽ vui mừng thế nào với chúng ta. Đó là lý do tại sao Chúa muốn ‘tái tạo’ chúng ta, Ngài muốn làm mới tâm hồn chúng ta để niềm hân hoan có thể ngự trị.

    Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

    “Anh chị em đã bao giờ nghĩ về điều đó chưa? Chúa ước mơ về tôi! Ngài nghĩ về tôi! Tôi đang ở trong tâm trí Chúa và trong trái tim của Ngài! Chúa có thể thay đổi cuộc sống của tôi! Và Ngài có nhiều dự án: 'chúng ta sẽ xây nhà và trồng vườn nho, chúng ta sẽ dùng bữa chung với nhau’ ... đó là những giấc mơ của những người đang yêu .... Như vậy chúng ta có thể thấy rằng Chúa đang trong tình yêu với dân Ngài. Và khi Ngài nói với dân Ngài: ‘Ta đã không chọn con vì con là người mạnh nhất, lớn nhất, quyền thế nhất. Ta đã chọn con vì con là người nhỏ nhất trong tất cả. Anh chị có thể thêm: đau khổ nhất. Đây là người mà Ta đã chọn. Đây là tình yêu’”.

    Thiên Chúa “đang trong tình yêu với chúng ta” - Đức Giáo Hoàng lặp đi lặp lại, khi ngài nhận xét về bài Tin Mừng nói về phép lạ chữa lành cho đứa con trai một viên quản đội:

    “Tôi không nghĩ rằng có một nhà thần học nào có thể giải thích điều này: thật là không thể giải thích được. Chúng ta chỉ có thể nghĩ về điều đó, cảm nhận và khóc với niềm vui này. Chúa có thể thay đổi chúng ta. ‘Và tôi phải làm gì đây?’ Hãy tin. Tôi phải tin rằng Chúa có thể thay đổi được tôi, rằng Ngài có quyền năng làm như vậy: giống như người trong Phúc Âm có đứa con trai bị ốm. 'Xin Ngài đến, trước khi con tôi chết’. Chúa Giêsu nói với người ấy ‘Ông cứ đi đi. Con trai ông sẽ sống!’ Người đàn ông ấy tin tưởng vào những lời của Chúa Giêsu và đã lên đường. Ông tin. Ông tin rằng Đức Giêsu có quyền năng để thay đổi con mình, sức khỏe của nó. Và ông đã thắng. Có đức tin là có không gian cho tình yêu Thiên Chúa, có không gian cho quyền năng của ngài, cho sức mạnh của Thiên Chúa. Không phải cho sức mạnh của một người quyền thế, nhưng cho sức mạnh của một người yêu thương tôi, là người đang ở trong tình yêu với tôi và muốn vui mừng với tôi. Đây là đức tin của chúng ta: hãy có không gian cho Chúa để Ngài có thể đến và thay đổi tôi”.

    3. Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem

    Kính thưa quý vị và anh chị em,

    Trong Tuần Thánh, Giáo Hội cho con cái mình được dịp tham dự những ngày cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu ở trần gian. Phụng vụ Chúa Nhật Lễ Lá được mở đầu bằng nghi thức làm phép lá và rước lá. Trong nghi thức này, cộng đoàn dân Chúa được nghe đọc bài Tin Mừng tường thuật lại việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem với tư cách của Ðấng Mêsia. Hình ảnh Chúa Giêsu cưỡi trên lưng lừa khiến người ta nhớ lại lời sấm ngôn nói về Ðấng Mêsia được ghi lại trong sách ngôn sứ Dacaria: "Này thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò, vì kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Ðấng Chính Trực, Ðấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa vẫn còn theo mẹ".

    Hình ảnh dân chúng reo hò tung hô Chúa Giêsu cũng gợi nhớ đến cuộc lễ đăng quang của vua Salomon được ghi lại trong sách các vua quyển thứ nhất: "Hãy đưa các bề tôi của Chúa Thượng đi theo các ngươi để Salomon, con ta, cỡi con la cái của ta rồi đưa nó xuống Ghikhô, ở đấy tư tế Sađốc và ngôn sứ Natan sẽ xức dầu phong nó làm vua Israel. Các ngài sẽ rúc tù và và tung hô vua Salomon muôn năm".

    Khi Thầy trò đến gần thành Giêrusalem và tới làng Bếtphaghê, phía núi Ôliu, Ðức Giêsu sai hai môn đệ và bảo: "Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có lừa con bên cạnh. Các anh tháo dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay". Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ:

    Hãy bảo thiếu nữ Xion:

    Kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ.

    Các môn đệ ra đi và làm theo lời Ðức Giêsu đã truyền. Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Ðức Giêsu cỡi lên. Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành lá mà rải lên lối đi. Ðám đông, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy:

    Hoan hô Con vua Ðavít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa!

    Hoan hô trên các tầng trời.

    Khi Ðức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: "Ông này là ai vậy?" Ðám đông trả lời: "Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy".

    Kính thưa quý vị và anh chị em,

    Qua việc công khai vào thành một cách long trọng như thế, Chúa Giêsu khẳng định Người là Ðấng Mêsia và là vua của dân Israel. Tuy nhiên, Người không xây dựng vương quốc bằng cách đánh nam dẹp bắc hay bằng cách phát triển các sức mạnh kinh tế, mà bằng cách thi hành thánh ý Thiên Chúa Cha trong vai trò người tôi tớ trung thành đã được ngôn sứ Isaia mô tả trong bốn bài ca của ông. Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem này chỉ là bước khởi đầu cho cuộc thương khó mà Chúa Giêsu phải trải qua để chiến thắng sự dữ và sự chết, mở ra cho loài người lối đi đến cõi phúc bất diệt bên Thiên Chúa.

    Lạy Chúa Giêsu, xin cho con hăng hái bước vào Tuần Thánh, không phải chỉ bằng việc tham dự đầy đủ các lễ nghi, nhưng còn bằng việc thông dự thật sự vào những khổ đau của Chúa, để con học được bài học yêu thương và vâng phục mà đem ra thực hành suốt cả đời con, xin cho con đừng ngơi nghỉ bao lâu còn đóng đinh với Chúa trên thập giá.

    4. Kitô hữu phải trung thực trong lời nói và việc làm

    Chúng ta có thể cống hiến ba điều cho tất cả những ai “muốn thấy Chúa Giêsu”: sách Phúc Âm, Thánh Giá và chứng tá đức tin nghèo nàn nhưng chân thành của chúng ta. Phúc Âm: trong đó chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu, lắng nghe Người và hiểu biết Người. Thánh Giá; dấu chỉ tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã tự trao ban cho chúng ta. Và một đức tin được diễn tả ra trong các cử chỉ đơn sơ của tình bác ái huynh đệ.

    Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 22 tháng Ba tại quảng trường thánh Phêrô. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: trong Chúa Nhật thứ Năm Mùa Chay, thánh sử Gioan lôi kéo sự chú ý của chúng ta với một chi tiết lạ kỳ: vài người Hy Lạp” theo Do thái giáo đến Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua, hướng tới tông đồ Philiphê và nói: “Chúng tôi muốn trông thấy Đức Giêsu” (Ga 12,21).

    Trong thành thánh, nơi Chúa Giêsu đến lần cuối cùng, có nhiều người. Có những người bé nhỏ và đơn sơ đã tiếp đón vị ngôn sứ thành Nagiarét vui như lễ hội, vì họ nhận ra nơi Ngài Đấng Chúa Sai Đến. Có những thượng tế và các vị lãnh đạo của dân muốn loại trừ Ngài, bởi vì họ coi Ngài là lạc giáo và nguy hiểm. Cũng có những người, như những người Hy lạp tò mò muốn trông thấy Ngài và hiểu biết hơn về con ngưòi và các việc Ngài đã làm, mà việc sau cùng là cho ông Ladarô sống lại đã gây nhiều ồn ào.

    Đức Thánh Cha quảng diễn lời xin của các người Hy lạp như sau:

    “Chúng tôi muốn trông thấy Đức Giêsu”: các lời này, như biết bao lời khác trong các Phúc Âm, vượt ngoài giai thoại đặc biệt này và diễn tả một cái gì phổ quát. Chúng vén mở cho thấy một uớc mong hiện hữu trong con tim của biết bao nhiêu người đã nghe nói tới Đức Kitô, nhưng chưa gặp được Ngài. “Tôi muốn trông thấy Đức Giêsu”, Ngài cảm thấy lời này trong trái tim của dân chúng. Trả lời một cách gián tiếp, một cách ngôn sứ, cho lời xin có thể trông thấy Ngài, Chúa Giêsu nói lên một lời tiên tri vén mở cho thấy căn cước của ngài và chỉ cho thấy con đường giúp hiểu biết Ngài thực sự: “Đã đến giờ con người được tôn vinh” (Ga 12,23). Đó là giờ của Thập Giá! Đó là giờ bại trận của Satan, ông hoàng của sự dữ, giờ chiến thắng vĩnh viễn của tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa. Chúa Kitô tuyên bố rằng “Ngài sẽ được nâng cao khỏi đất” (c. 32), đây là một kiểu diễn tả có hai nghĩa: “được nâng cao” bởi vì bị đóng đinh, và “được nâng cao” bởi vì được Thiên Chúa Cha tán dương trong việc Sống Lại, để lôi kéo tất cả mọi người đến với Ngài và hòa giải con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Giờ của Thập Giá, giờ đen tối nhất lịch sử, cũng là suối nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Ngài.

    Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: tiếp tục lời tiên tri về lễ Vượt Qua của Ngài gần kề, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh đơn sơ và gợi ý, đó là hình ảnh “hạt lúa” rơi xuống đất, chết đi để sinh bông hạt (c. 24). Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

    Trong hình ảnh này chúng ta tìm thấy một khía cạnh khác nữa của Thập Giá Chúa Kitô: đó là hình ảnh của sự phong phú. Thật vậy, cái chết của Chúa Giêsu là một nguồn suối vô tận của sự sống mới, bởi vì nó mang theo trong chính nó sức mạnh tái sinh của tình yêu thương của Thiên Chúa. Được dìm mình trong tình yêu đó qua bí tích Rửa Tội, kitô hữu có thể trở thành “các hạt lúa” và đem lại nhiều bông hạt, nếu họ “đánh mất sư sống mình” vì tình yêu thương Thiên Chúa và các anh chị em khác như Chúa Giêsu (c. 25). Vì thế cho những người ngày nay “muốn trông thấy Chúa Giêsu”; cho những ngưòi kiếm tìm gương mặt của Thiên Chúa; cho những người từ nhỏ đã nhận được giáo lý và rồi đã không đào sâu nó; cho biết bao nhiêu người còn chưa gặp được Chúa Giêsu một cách cá nhân; cho tất cả những người đó chúng ta có thể cống hiến ba điều: sách Phúc Âm, Thánh Giá và chứng tá đức tin nghèo nàn nhưng chân thành của chúng ta. Phúc Âm: trong đó chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu, lắng nghe Người và hiểu biết Người. Thánh Giá; dấu chỉ tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã tự trao ban cho chúng ta. Và một đức tin được diễn tả ra trong các cử chỉ đơn sơ của tình bác ái huynh đệ. Nhưng một cách chính yếu trong sự trung thực của cuộc sống giữa điều chúng ta nói và điều chúng ta sống, sự trung thực giữa đức tin và cuộc sống, giữa các lời nói và các hành động của chúng ta. Sách Tin Mùng. Thánh Giá và chứng tá. Xin Đức Maria Mẹ chúng ta giúp chúng ta theo Chúa Giêsu trên con đường của thập giá và sự sống lại.

    5. Trẻ em là một món quà và sự giầu có lớn cho nhân loại và cho Giáo Hội

    Trẻ em là một món quà và một sự giầu có lớn cho nhân loại và cho Giáo Hội. Chúng mang lại sự sống, niềm vui và hy vọng và liên lỉ nhắc nhở cho chúng ta biết điều kiện cần thiết để được vào Nước Thiên Chúa: đó là không coi mình là đủ rồi, nhưng cần sự trợ giúp, tình yêu và ơn tha thứ.

    Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 20,000 tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 18 tháng Ba tại quảng trường thánh Phêrô.

    Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã duyệt xét các gương mặt khác nhau trong gia đình: cha mẹ, con cái, anh chị em, ông bà nội ngoại. Đức Thánh Cha nói hôm nay ngài muốn kết thúc loạt bài giáo lý với các trẻ em: trước hết trẻ em là một món quà lớn cho toàn nhân loại. Đúng thật chúng là một món quà lớn cho nhân loại, nhưng cũng là những kẻ bị loại bỏ lớn, bởi vì người ta không để cho chúng được sinh ra; và lần tới tôi sẽ nói tớí vài vết thương rất tiếc làm cho tuổi thơ phải đau khổ.

    Nhớ lại kỷ niệm gặp gỡ với các trẻ em Á châu trong chuyến công du mục vụ mới đây Đức Thánh Cha tâm sự:

    Tôi nhớ tới biết bao nhiêu trẻ em mà tôi đã gặp trong chuyến du hành mới đây của tôi tại Á châu: chúng tràn đấy sức sống, lòng hăng say, nhưng đàng khác rất tiếc tôi cũng trông thấy trong thế giới nhiều trẻ em sống trong các điều kiện không xứng đáng với con người… Thật thế, người ta có thể phán đoán một xã hội theo cách nó đối xử với các trẻ em, không phải chỉ trên bình diện luân lý, nhưng cả trên bình diện xã hội học nữa, xem nó có phải là một xã hội tự do hay một xã hội nô lệ các lợi lộc quốc tế.

    Đức Thánh Cha nói tiếp:

    Trước hết các trẻ em nhắc cho chúng ta nhớ rằng trong các năm đầu của cuộc sống chúng ta tất cả đều hoàn toàn tùy thuộc các săn sóc và lòng nhân từ của người khác. Và Con Thiên Chúa đã không quản ngại đi qua con đường này. Đó là mầu nhiệm mà chúng ta chiêm ngưỡng hằng năm vào lễ Giáng Sinh. Hang đá là hình ảnh thông truyền cho chúng ta thực tại này một cách đơn sơ và trực tiếp.

    Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói thật là lạ: Thiên Chúa không gặp khó khăn làm cho các trẻ em hiểu Ngài, và các trẻ em không có vấn đề hiểu Thiên Chúa. Không phải vô tình mà trong Phúc Âm có vài lời rất đẹp và mạnh mẽ liên quan tới các “trẻ nhỏ”. Từ “trẻ nhỏ” ám chỉ tất cả những người tùy thuộc nơi người khác, và một cách đặc biệt các trẻ em. Thí dụ Chúa Giêsu nói: “Lậy Cha là Chúa trời đất, con tạ ơn Cha vì Cha đã dấu những điều này với những kẻ khôn ngoan và thông thái, nhưng lại mạc khải cho nhũng người bé nhỏ” (Mt 11,25). Lại nữa: “Các con hãy coi chừng đừng khinh rẻ một trong những kẻ bé mọn này, bởi vì Thầy bảo cho các con biết các thiên thần của chúng ở trên trời hằng xem thấy mặt Cha Thầy ở trên trời” (Mt 18,10).

    Như thế, các trẻ em tự chúng là một sự giầu có cho nhân loại và cả cho Giáo Hội nữa, bởi vì chúng liên lỉ nhắc cho chúng ta nhớ tới điều kiện cần thiết dể được vào Nước của Thiên Chúa: đó là không tự coi mình là đủ, nhưng cần đến sự trợ giúp, tình yêu thương và ơn tha thứ. Và chúng ta tất cả đều cần đến sự trợ giúp, tình yêu thương và ơn tha thứ.

    Các trẻ em còn nhắc cho chúng ta một điều hay đẹp khác nữa: chúng nhắc cho chúng ta biết rằng chúng ta luôn luôn là con: cả khi một người trở thành người lớn, hay người già, cả khi có trở thành cha mẹ, chiếm một địa vị có trách nhiệm, thì bên dưói tất cả những thứ đó vẫn còn căn tính là con. Tất cả chúng ta đều là con. Và điều này luôn đưa chúng ta tới sự kiện chúng ta không tự ban sự sống cho chính mình mà nhận được nó. Ơn lớn lao của sư sống là món qua đầu tiên chúng ta nhận được.

    Đôi khi chúng ta sống mà quên đi điều này, làm như thể chúng ta là chủ nhân cuộc sống của mình, trái lại chúng ta tùy thuộc một cách triệt để. Trên thực tế đó là lý do của niềm vui lớn cảm thấy rằng trong mọi lứa tuổi của cuộc sống, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi điều kiện xã hội, chúng ta là con, và luôn là con. Đó là sứ điệp chính mà trẻ em trao ban cho chúng ta với sự hiện diện của chúng: chỉ với sự hiện diện chúng nhắc cho chúng ta nhớ rẳng tất cả chúng ta và từng người chúng ta là con.

    Đề cập tới các món quà mà trẻ em đem lại cho nhân loại Đức Thánh Cha nói:

    Nhưng có biết bao nhiêu món qua , biết bao nhiêu phong phú mà các trẻ em đem đến cho nhân loại. Tôi chỉ xin nhắc đến vài điều thôi.

    Các trẻ em đem lại cho chúng ta kiểu nhìn thực tại với một cái nhìn tin tưởng và trong sáng. Trẻ em có một sự tin tưởng tự phát nơi cha mẹ; và có một lòng tin tưởng tự phát nơi Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu, nơi Đức Mẹ. Đồng thời cái nhìn nội tâm của trẻ em trong sạch, chưa bị ô nhiễm bởi tính hiểm độc, hai mặt, bởi các cáu cặn của cuộc sống làm chai cứng con tim. Chúng ta cũng biết rằng các trẻ em có tội tổ tông, chúng có các ích kỷ của chúng, nhưng chúng duy trì một sự trong trắng, một sự đơn sơ nội tâm. Các trẻ em không ngoại giao: chúng nói lên điều chúng cảm, chúng thấy một cách trực tiếp. Và biết bao nhiêu lần chúng khiến cho cha mẹ gặp khó khăn, khi chúng nói trước mặt các người khác: “Con không thích cái này, vì nó xấu”. Nhưng mà các trẻ em nói lên điều chúng trông thấy, chúng không phải là những người hai lòng, chúng chưa học cái khoa học hai mặt mà rất tiếc người lớn chúng ta đã học.

    Ngoài ra, trong sự đơn sơ nội tâm của chúng, các trẻ em còn đem theo với chúng khả năng nhận và cho đi sự âu yếm. Âu yếm là có một con tim “bằng thịt” chứ không phải “bằng đá” như Thánh Kinh nói (x. Ed 36,26). Sự âu yếm cũng là thơ văn: là “cảm thấy” các sự vật và các biến cố, không đối xử với chúng như đồ vật thuần tuý, chỉ để dùng chúng vì chúng phục vụ…

    Các trẻ em có khả năng cười và khóc: Vài đứa khi chúng ta bế chúng trên tay, chúng cười; vài đứa khác khi trông thấy tôi mặc áo trắng, chúng tin rằng tôi là bác sĩ đến chích ngừa cho chúng và chúng khóc… nhưng một cách tự phát! Các trẻ em là thế: chúng cười và khóc, là hai điều mà nơi chúng ta là người lớn thường bị “chặn đứng”, chúng ta không có khả năng… Biết bao nhiêu lần nụ cuời của chúng ta trở thành một nụ cười bằng giấy, không có sự sống, một nụ cười không sống động, cả một nụ cười giả tạo, bằng rơm nữa. Các trẻ em cười một cách hồn nhiên và khóc một cách hồn nhiên.

    Điều này luôn luôn tùy thuộc con tim. Và thường khi con tim của chúng ta bị “chặn lại” và mất đi khả năng cười, khóc này. Và khi đó trẻ em có thể dậy cho chúng ta lại biết cười và biết khóc. Và chính chúng ta, chúng ta phải tự hỏi: tôi có cười một cách hồn nhiên không, với sự tươi mát, với tình yêu thương và nụ cuời của tôi có giả tạo không? Tôi có còn khóc không, hay tôi đã mất đi khả năng khóc rồi? Đó là hai câu hỏi rất nhân bản mà trẻ em dậy cho chúng ta.

    Vì tất cả những lý do đó Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài “trở nên như trẻ em”, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng” (x. Mt 18,3; Mc 10,14).

    Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, các trẻ em đem lại sự sống, niềm vui và hy vọng, và cả các bất hạnh nữa. Dĩ nhiên, chúng cũng đem theo các lo lắng và đôi khi biết bao nhiêu vấn đề; nhưng một xã hội với các lo lắng này và các vấn đề này thì vẫn hơn là một xã hội buồn sầu và xám xịt vì không có trẻ em. Và khi chúng ta thấy rằng mức độ sinh của một xã hội chỉ tới gần một phần trăm thôi, chúng ta có thể nói rằng xã hội này buồn, xám xịt, bởi vì nó không có trẻ em.