samedi 9 décembre 2017

NGÀI ĐI QUA ĐỜI TÔI

NGÀI ĐI QUA ĐỜI TÔI

Tâm sự về người cha, người thầy, và người bạn rất thân thương

Đức Giám Mục Đaminh Mai Thanh Lương

Trần Mỹ Duyệt


 
Đối với giáo dân trong địa phận thì ngài là vị Giám Mục thánh thiện, hiền lành, nhân từ, và hòa đồng. Riêng đối với tôi thì ngài là người cha, người thầy, người bạn rất thân thương, rất gần gũi, và có thể tâm sự, cởi mở với nhau một cách tự nhiên, thân tình và thoải mái. Ngài chưa bao giờ xưng mình là giám mục, ngay cả tiếng “cha” với tôi. Ngược lại luôn luôn xưng là "mình", một chữ mình hết sức gần gũi, chan hòa tình thân hơn cả ruột thịt. Ngài cũng rất ít khi hoặc chỉ lỡ miệng gọi tôi bằng tiếng “ông", một tiếng gọi tuy thông thường nhưng nghe xa lạ trong mối tương quan giữa hai chúng tôi.

Ngài đến với tôi trong một dịp tình cờ. Năm 1993, tôi muốn xin “Imprimatur” cho một cuốn sách viết về đời sống đạo. Lúc đó, ngài còn là Đức Ông chính xứ Các Thánh Tử Đạo ở New Orleans, và mặc dù chưa một lần gặp mặt, ngài đã vui vẻ nhận lời và giúp tôi được chuẩn y của giáo quyền. Tình cảm của tôi dành cho ngài bắt đầu từ đó. Nhưng phải chờ đến dịp ngài được tấn phong Giám Mục, vị Giám Mục tiên khởi người Việt hải ngoại trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Lịch sử đã ghi nhận, ngày 25 tháng 4 năm 2003, Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange, một Giáo Phận có đông tín hữu Việt Nam. Ngài được tấn phong ngày 11 tháng 6 năm 2003. Hơn 10 năm trong thiên chức Giám Mục, ngài đã nghỉ hưu ngày 20 tháng 12 năm 2015. Và sau 2 năm sống trong âm thầm, khiêm tốn và chịu đựng chuẩn bị tâm hồn, lúc 10:20 sáng, Thứ Tư, ngày 6 tháng 12 năm 2017, ngài đã trút hơi thở cuối cùng về với Chúa như lòng ngài hằng mong ước tại bệnh viện St. Joseph, nơi mà ngài vẫn thường ra vào trong những tháng cuối đời vì bệnh tật, hưởng thọ 77 tuổi.

Ngài đi qua đời tôi như một cơn gió thoảng, như một hơi thở, và như một thoáng qua mau nhưng đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm không bao giờ quên. Tôi dự định sẽ đến thăm ngài vào khoảng 1 hoặc 2 giờ chiều, thì lúc 10giờ 30 đã nhận được tin ngài qua đời. Đúng là ngài đã tới và đã đi mà không cần một lời báo trước hay từ giã!!! Nếu tôi có ân hận gì đối với ngài thì chỉ là trong giờ phút lâm chung của ngài tôi không có ở bên giường bệnh ngài. Ngoài ra, trong suốt thời gian hưu dưỡng và trong những tháng cuối đời của ngài tôi luôn luôn có mặt bên ngài, có thể nói là hằng tuần hoặc hằng ngày. Cũng chính vì ở bên ngài, tôi mới nhận ra một điều rất riêng tư, nhưng cũng rất đau lòng, đó là, ngài rất cô đơn, và bệnh tật cũng như những lần ra vào nhà thương đã làm cho ngài rất đau đớn và mỏi mệt.
Một trong những điều khiến tôi ghi nhớ về ngài, là không bao giờ tôi nghe ngài phê bình hoặc chỉ trích ai. Ngài có lòng yêu mến giới tu trì. Ngài hiền từ, nhân hậu, đối xử một cách công bằng, tôn trọng, cũng như rộng rãi với những ai sống bên ngài.

Những lần cha con đi ăn với nhau, ngài luôn cử xử một cách rất “galang”, có nghĩa là nay anh, mai tôi. Riêng những đồ vật gì ngài mua thì ngài tự tay trả tiền. Một lần hai cha con ghé vào một cửa hàng mua thức ăn, trong lúc bước ra khỏi cửa, có người ăn xin ngồi bên ngoài ngửa chiếc mũ ra xin tiền. Tôi có 4 đồng tiền lẻ và rút ra 2 đồng đưa cho người ăn xin. Ngài nhìn thấy vậy, nói ngay: "Sao không đưa hết cho ông ta?" Rồi ngài dùng tiếng Anh để nói với tôi một câu như vừa nhắc nhở, và cũng vừa trách khéo "stingy" có nghĩa là "cái thứ bần tiện”. Nhờ vậy, tôi đã học được đức bác ái và lòng rộng rãi của ngài để biết cách cư xử đối với những kẻ khốn cùng sau này.
Ai không quen biết ngài cứ tưởng ngài thiếu khôn ngoan hoặc quá dễ dãi, nhưng thật sự ngài hành động một cách rất quyết đoán và có suy nghĩ. Trong một lần chở ngài đi ăn trưa, thoạt đầu hai cha con đã quyết định đến một nhà hàng nọ, nhưng trên đường tôi muốn đổi ý, ngài liền nói ngay: "Đã quyết định cái gì thì phải làm. Thua thắng gì mình rút kinh nghiệm. Cứ tới nhà hàng mình đã chọn trước”.
Không chê ai và cũng không phê bình ai. Mỗi lần một vài anh em quây quần bên ngài, hoặc trong chỗ riêng tư, tôi muốn hỏi ngài điều gì mà có dính dáng đến người khác, ngài bao giờ cũng trả lời bằng một câu rất quen thuộc: “Mình biết ma gì!". Tôi hiểu là ngài không muốn đề cập đến chuyện đó. Qua hành động đó, ngài đã dạy tôi bỏ được cái tính tò mò về người khác khi không thuộc trách nhiệm và quyền hạn của mình.

Chân thành, tôn trọng người khác, ngài còn có một đặc tính đáng yêu nữa là tính đơn sơ, trong sáng. Thỉnh thoảng cha con hay giả dạng trốn mắt thiên hạ để gọi là "đi bụi”, tức là đi chợ, đi vào các siêu thị mua bán mấy thứ đồ dùng lặt vặt. Nhưng đã có mấy lần bị bại lộ. Thí dụ, lần đó, cha con rủ nhau đi mua trứng vịt lộn, ai dè khi bước vào tiệm, ông chủ nhận ra ngài rồi chào thưa rối rít. Khổ nữa là trong tiệm ngày hôm đó lại có một linh mục mới từ Việt Nam qua cũng được gia đình cho đi tham quan một vòng Little Saigon, và đang có mặt ở đó. Ngài tỏ vẻ bình thản và đơn sơ không một chút quan ngại. Trên đường về ngài nói: "Giám mục thì cũng đi mua trứng vịt lộn có sao." Rồi ngài trào phúng thêm: "Nhưng chắc ngày xưa thánh Phêrô muốn ăn trứng vịt lộn thì có bà Phêrô đi mua, chứ không như Giám Mục Lương”.

Nổi bật nhất là lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và lòng yêu mến Đức Mẹ. Chính ngài đã khuyến khích tôi dịch cuốn Đàm Đạo Với Chúa Bằng Thánh Kinh, và biên cuốn Maria Mẹ Việt Nam mà cả cuốn sách ngài đều bỏ tiền in ấn và phổ biến. Cảm tình đầu tiên về ngài lúc mới làm Giám Mục, đó là một buổi chiều khi đến thăm ngài, tôi thấy ngài đang quì một mình trong nhà nguyện, mắt nhìn lên nhà tạm. Một hình ảnh thánh thiện, thiêng liêng mà sẽ không bao giờ tôi quên về Ngài. Do lòng yêu mến Thánh Thể và Mẹ Maria, chính ngài đã soạn tác phẩm: Thánh Thể và Chuỗi Mân Côi (7 Mẫu chầu và Mầu Nhiệm Mân Côi) để giúp tín hữu tăng lòng yêu mến Thánh Thể và Phép Lần Hạt Mân Côi.
Trong những ngày tháng bệnh tật, ngài thường dâng lễ một mình, có hôm chỉ có tôi và ngài hai cha con cùng dâng lễ. Thật là cảm động vào những ngày tháng sau cùng khi ngài không dâng lễ được nhưng không bỏ rước Thánh Thể. Hôm đó, tôi đến thăm ngài vào buổi sáng và ngài nói tìm một phó tế mang Mình Thánh Chúa cho ngài. Tôi đã hỏi ngài có muốn ăn uống chút gì cho tỉnh táo trước khi rước lễ không? Ngài đã trả lời: “Không cần gì hết, chỉ cần Chúa Giêsu thôi!". Lời nói này phản ảnh lòng đạo đức của ngài đã được chính Đức Giám Mục Kevin Vann nhắc lại trong thánh lễ đưa chân, 5:30 chiều, Thứ Tư, ngày 6 tháng 12 năm 2017, Đức cha nói: "Hôm thứ Ba khi ĐC Dominic Lương đã kiệt sức, ngài nói đi tìm cho ngài vị Tuyên úy nhà thương và tìm cho Ngài Chúa Giêsu ở đâu… Sr. Catherine đang ở đó với Ngài, và tòa giám mục biết tin… nên chính tôi đã tới đưa Mình Thánh Chúa trao ban cho ngài, và tôi nói với Ngài: Chúa Giêsu đến ở đây với Cha và ở với Cha luôn mãi đây…" (Vietcatholic.net).

Lòng yêu mến Chúa Giêsu gắn liền với lòng yêu mến Đức Mẹ. Khi ở nhà cũng như khi vào bệnh viện, tôi luôn thấy trên tay, trên giường bệnh ngài có cỗ tràng hạt. Mỗi lần đi đâu về món quà mà ngài tặng tôi thường là những cỗ tràng hạt đẹp, được Giáo Hoàng làm phép. Trong một clip ngắn do nữ tu Catherine Nguyễn, cựu thư ký của Đức Cha phổ biến, trước giờ lâm chung, Đức Cha và nữ tu Catherine đã cầu nguyện với Đức Mẹ, bằng với cả con tim và lòng yêu mến:

Mẹ ơi con yêu Mẹ.
Yêu từ hồi thuở bé,
yêu mãi đến tuổi già,
yêu tha thiết bao la.
Mẹ ơi con yêu Mẹ.
Yêu từ hồi thuở bé,
giờ chết Mẹ thương nhé,
chết trong tình yêu Mẹ.

Cả hai cha con đều hát một cách sốt sắng cho đến khi ngài chìm vào giấc ngủ…
Từ hôm nay, tôi không còn được nghe tiếng gọi thân yêu của ngài: "Mỹ Duyệt có bận gì không? Ghé qua đây, mình có chuyện muốn bàn." Hoặc: “Duyệt có rảnh không, ghé ăn trưa với mình, ở đây có nhiều thức ăn ngon lắm.” Đơn sơ, khiêm nhường và hiền lành. Ngài đã qua đi trong đời tôi như một thiên thần, nhưng trên hết là một người cha, người thầy và người bạn mà tôi sẽ không bao giờ quên.
Hãy nghỉ giấc bình an thưa cha! Trên cao xanh kia, bên Chúa và Đức Mẹ xin cha cầu cho chúng con, cho quê hương Việt Nam, cho hòa bình Việt Nam, cho Giáo Hội Việt Nam, và cho những người đang đau khổ, nghèo đói mà cha luôn dạy chúng con phải yêu thương họ.
 
Trần Mỹ Duyệt
7 tháng 12 năm 2017

*******************************************************************

Đa Minh Mai Thanh Lương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương
Giám mục Phụ tá Giáo phận OrangeCalifornia
(2003 - 2015)
Giáo hộiCông giáo Rôma
Giáo phậnGiáo phận Orange
TòaGiáo phận Orange
Bổ nhiệm25 tháng 4 năm 2003
Tựu nhiệm11 tháng 6 năm 2003
Hết nhiệm20 tháng 12 năm 2015
Tiền nhiệmJaime Soto
Truyền chức
Thụ phong21 tháng 5 năm 1966
Tấn phong11 tháng 6 năm 2003
Thông tin cá nhân
Tên khai sinhMai Thanh Lương
Sinh20 tháng 12, 1940
Trục NinhNam ĐịnhViệt Nam
Mất06 tháng 12, 2017 (76 tuổi)
Quốc tịchHoa Kỳ Hoa Kỳ
Hệ pháiCông giáo
Con cáiKhông
Nghề nghiệpTu sĩ Công giáo
Alma materĐại chủng viện giáo phận
chủng viện Thánh Bênađô
Khẩu hiệu"Anh chị em không phải người xa lạ"
Cách xưng hô với
Đa Minh Mai Thanh Lương
Coat of Arms of Bishop Dominic Mai Luong.svg
Danh hiệuĐức Giám mục
Trang trọngĐức Giám mục, Đức Cha
Thân mậtCha
Khẩu hiệu" Anh chị em không phải người xa lạ "
TòaGiáo phận Orange
Đa Minh Mai Thanh Lương (hoặc Đôminicô Mai Thanh Lương), (1940-2017) là giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, từng giữ chức giám mục phụ tá của Giáo phận Orange (California) từ năm 2003 đến năm 2015.[1].

Thân thế và tu tập[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh ngày 20 tháng 12 năm 1940 tại huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu.[2] Ông còn có một người anh là linh mục Mai Ngọc Lợi, nay đã mất.[3] Năm ông 14 tuổi (1954), thì gia đình di cư vào miền Nam, cư ngụ tại Giáo phận Ðà Nẵng. Năm 16 tuổi, ông được cử qua Hoa Kỳ học tại Đại chủng viện giáo phận Buffalo (New York) và chủng viện Thánh Bênađô thuộc Đại học Canisius ở Buffalo.

Linh mục rồi Đức ông[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 21 tháng 5 năm 1966, ông được thụ phong linh mục tại Buffalo cho Giáo phận Đà Nẵng ở Việt Nam vì hoàn cảnh bấy giờ không về nước được.[4] Sau đó làm giáo sư tại Chủng viện Mỹ. Sau năm 1975, vì hoàn cảnh lịch sử, ông không thể về Việt Nam nên thi hành tác vụ linh mục tại Buffalo, rồi tại New York và cuối cùng gia nhập giáo phận New Orleans, năm 1976. Ông được giáo hoàng ban tước vị Ðức ông ngày 15 tháng 12 năm 1986. Ông là thành viên của Hội đồng Linh mục của giáo phận New Orleans, từ năm 1987 đến năm 1998; Từ năm 1989 đến năm 2003, ông được Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ bổ nhiệm phục vụ cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, vừa đồng thời là cha sở Giáo xứ Ðức Maria Nữ vương Việt Nam, tại New Orleans.[4]

Giám mục[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 25 tháng 4 năm 2003Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ông làm Giám mục phụ tá Giáo phận Orange, nơi có số lượng người Công giáo Việt Nam đông nhất tại hải ngoại.[4] Việc bổ nhiệm giám mục Lương là vị Giám mục Á Châu thứ hai tại Hoa Kỳ và là vị Giám mục Việt Nam đầu tiên tại Hoa Kỳ. Vị Giám mục Á Châu đầu tiên là Giám mục Ignatiô Uông Trung Chương quê quán tại Bắc Kinh, Trung Quốc được tấn phong Giám mục tại San Francisco vào tháng 1 năm 2003. Ðức Ông Mai Thanh Lương được tấn phong Giám mục tại Nhà thờ Thánh Columban ở Garden Grove, California vào ngày Thứ Tư 11 tháng 06 năm 2003.[4] Ông từng về Việt Nam lần đầu vào năm 2006 để viếng thăm Tổng giáo phận Huế và dòng Thánh Tâm với tư cách là một giám mục thuộc Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ. Cùng đi với ông còn có một giám mục phụ tá khác của Giáo phận Orange, 1 nữ tu dòng Mến Thánh Giá và 2 giáo dân người Mỹ.[5]
Ngày 20 tháng 12 năm 2015, văn phòng Toà Thánh loan tin Giáo hoàng Phanxicô chấp thuận đơn từ chức của ông vì lý do tuổi tác theo Giáo luật.[6] Ông nói rằng đây là điều ông mong muốn trong dịp sinh nhật của mình.[3] Cũng trong khoảng thời gian cuối năm 2015, ông đến Việt Nam thực hiện công việc mục vụ trong vòng một tháng, đến ngày 27 tháng 12, ông gặp gỡ Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, ông đã tới viếng Ðức Mẹ La Vang vào buổi sáng và ghé thăm và nói chuyện với các linh mục và Tu sĩ Dòng Thánh Tâm, theo lời mời của linh mục Antôn Huỳnh Ðầy, Bề trên Tổng quyền của Dòng.[3] Ông qua đời tại Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 12 năm 2017.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

jeudi 7 décembre 2017

Việt Nam đẹp ngỡ ngàng qua góc ảnh flycam

Việt Nam đẹp ngỡ ngàng qua góc ảnh flycam
Qua những góc ảnh độc đáo, lạ mắt từ flycam của các nhiếp ảnh gia, thiên nhiên đất Việt hiện lên vừa thơ mộng, vừa hùng vĩ và đầy sức sống.
Đồi chè bạt ngàn ở Lâm Đồng qua một góc máy ấn tượng. Bức ảnh nằm trong khuôn khổ cuộc thi ảnh nghệ thuật "Việt Nam nhìn từ trên cao" do Hội Nhiếp ảnh TP.HCM phối hợp cùng Công ty Lịch Xuân Phương Nam phát động. Cuộc thi kéo dài từ nay đến hết ngày 5/8, nhằm tạo ra sân chơi mới cho những người đam mê nhiếp ảnh, đặc biệt là những người chụp ảnh bằng flycam.
Đây là cuộc thi ảnh nghệ thuật chụp từ trên cao đầu tiên tại Việt Nam, hứa hẹn sẽ tìm ra được nhiều bức ảnh phản ánh nét đẹp mới lạ trên mọi miền đất nước qua góc nhìn từ trên cao bằng flycam, máy bay và các phương tiện khác. Trong ảnh là quần đảo Cát Bà (Hải Phòng) tấp nập tàu thuyền. Cát Bà nổi tiếng với mật độ núi đá vôi dày đặc và làn nước trong xanh, là một trong những điểm du lịch biển đảo không thể bỏ qua khi khám phá Việt Nam.
Một nhiếp ảnh gia chọn khung cảnh hồ Tà Đùng (Đắk Nông) làm tác phẩm dự thi. Mặt nước trong veo phản chiếu cảnh mây trời, hòa cùng vô số hòn đảo nhỏ, nổi bật giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Cuộc thi dành cho mọi công dân Việt Nam. Tác phẩm dự thi phải do chính tác giả chụp, ảnh màu, không chấp nhận các hình thức xử lý kỹ thuật (chỉ cho phép cân chỉnh màu sắc và cắt cúp).
Đảo Điệp Sơn nằm trong vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) gồm 3 đảo nhỏ: Hòn Bịp, Hòn Giữa và Hòn Đuốc. Đặc biệt nhất là con đường mòn trên biển độc đáo hiếm có dài khoảng 700 m thu hút sự tò mò của du khách.

Đồi chè ở Mộc Châu (Sơn La) thơ mộng dưới ánh nắng dìu dịu. Mộc Châu cũng là một trong những điểm đến phổ biến nhất ở miền Bắc.

Trái với vẻ hoang sơ, kỳ vĩ của thiên nhiên, TP.HCM mang vẻ đẹp hiện đại với những tòa nhà cao tầng và nhà cửa san sát, gợi lên nhịp sống hối hả, bận rộn.

Đầm Ô Loan là một thắng cảnh tiêu biểu của tỉnh Phú Yên, cách thành phố Tuy Hòa khoảng 20 km về phía bắc, xung quanh là những dãy đồi nhỏ, tạo ra khung cảnh nên thơ, yên bình, đặc biệt khi hoàng hôn buông xuống.

Eo Gió (Bình Định) cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 20 km về phía đông bắc. Góc nhìn từ trên cao khắc họa rõ hình ảnh rặng núi đá uốn lượn, tạo nên eo biển hút gió giữa làn nước trong xanh.

Mây trời bao phủ thành phố Quy Nhơn, tạo ra khung cảnh tuyệt đẹp.
Tháp Bánh Ít (Bình Định) rực rỡ dưới ánh mặt trời. Đây là một trong những công trình tiêu biểu cho vẻ đẹp của kiến trúc Chăm mà ít người biết tới.
Làng rau Quảng Thành (huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) đầy sống động với nhiều màu sắc rực rỡ.


TP.HCM là nguồn cảm hứng lớn với nhiều tay máy. Những tác phẩm đoạt giải sẽ được triển lãm tại đường sách Nguyễn Văn Bình (TP.HCM) vào ngày 9/9.
Ánh Ngọc
Trần Anh sưu tầm

Đời người như bốn mùa

Đời người như bốn mùa

Một người đàn ông giàu có sinh được 4 người con trai. Ngay từ khi các con còn nhỏ, ông đã luôn chú trọng dạy con cách làm người, cách đối nhân xử thế vì ông không muốn con mình dựa dẫm vào gia thế giàu có mà khoe khoang kiêu ngạo buông thả bản thân và không chịu phấn đấu.
Một lần, vì muốn các con của mình hiểu được một điều quan trọng của cuộc sống thông qua trải nghiệm thực tế nên ông đã nói họ đi đến một nơi rất xa, ở đó có trồng một loại lê quý. Mỗi người con sẽ đến đó một lần vào các thời điểm khác nhau trong năm. Ông muốn họ quan sát cây lê để rồi kể lại cho ông những gì họ đã thấy ở đó.


Xuân

Người cha phân công con trai cả sẽ đi tới chỗ cây lê quý đó vào mùa đông, nhìn ngắm kỹ cây lê rồi quay về. Con trai thứ hai đi đến đó vào mùa xuân, con trai thứ ba đến đó vào mùa hè và con trai út sẽ đến đó vào mùa thu.
Bốn người con vâng lời cha và họ lần lượt đi tới chỗ đó, vượt qua chặng đường xa xôi, nắng mưa và đôi khi cả gió rét. Đợi tới khi người cuối cùng quay trở về, người cha gọi họ đến và muốn được nghe trải nghiệm của họ trong cuộc hành trình này.
Bốn người con đều nóng lòng muốn chia sẻ với cha những gì họ đã thấy.
Con trai lớn kể lại: “Con thấy cái cây đó xấu xí lắm, thân cong, lá xác xơ. Nó dường như không có chút sức sống nào cả”.
Người con thứ hai lập tức ngắt lời: “Không đúng, cái cây đó đầy những chồi non xanh mơn mởn”.
Người con thứ ba nghe vậy lắc đầu: “Con cảm nhận được hoa của cây có mùi thơm ngọt dịu và trông rất đẹp. Đó là loài hoa đẹp nhất so với tất cả các loài hoa mà con từng nhìn thấy trước đây”.

Hạ
Người con trai út không cùng quan điểm với ba anh: “Cây có rất nhiều quả chín, có nhiều quả còn rơi xuống. Lá của nó có chiếc màu vàng nhạt, có chiếc màu vàng đậm. Nhưng con cảm nhận được một sự hài hòa và yên bình khi ngắm nhìn cây lê đó”..
Sau khi nghe từng người con trai chia sẻ, người cha nói: “Không ai sai cả. Tất cả các con đều đúng. Mỗi con chỉ nhìn thấy được thực trạng của cây trong mùa một mùa nhất định, do đó các con đã nói về những gì bản thân nhìn thấy về trạng thái của cây ở thời điểm đó. Trạng thái của cây thay đổi theo thời gian, cũng giống như trạng thái của con người. Chúng ta không nên phán xét ai đó bằng cách chỉ nhìn người ta tại một thời điểm nhất định trong cuộc sống của họ. Đó là những gì cha muốn các con phải học”..
Thu
Người cha tiếp tục nói: “Nếu các con bỏ cuộc khi đối diện với mùa đông giá lạnh, các con sẽ bỏ lỡ những triển vọng tốt đẹp khi mùa xuân đến, rồi sẽ bỏ lỡ cả vẻ đẹp trong mùa hè và sự trọn vẹn khi mùa thu tới.”

Trong cuộc đời của chúng ta, biết người thì dễ, hiểu người thì khó, mà biết người, hiểu người nhưng không phán xét họ lại càng khó hơn. Thói quen so sánh, đánh giá dường như trở thành cố hữu trong chúng ta. Tuy nhiên, những điều ta nhìn thấy ở họ tại thời điểm ấy lại chỉ là một lát cắt của cuộc đời họ, là họ ở khoảnh khắc đó mà thôi.

  Đông


Giống như một người phụ nữ, người ta sẽ thấy cô là một doanh nhân quyết đoán, có tầm nhìn, có tài lãnh đạo khi quan sát cô làm việc. Tuy nhiên, trở về nhà với cương vị là một người mẹ, cô lại hiền dịu, đảm đang và giản dị.
Chính bởi vậy, những điều mắt ta có thể nhìn thấy lại không đủ để đánh giá một con người. Bản chất của một người cần chúng ta qua thời gian lâu dài tìm hiểu mới có thể thấu hiểu, cần chúng ta có dũng khí hạ bỏ cái tôi của mình, bước vào thế giới của họ với một trái tim nhân hậu và tấm lòng cảm thông. Rốt cuộc thì nhân cách, đạo đức, phẩm hạnh của một người mới thực sự trả lời cho câu hỏi họ là ai.

Cũng như thế, đối với một cuộc hành trình, một sự việc, đừng vì chút khó khăn nhất thời mà đứt gánh giữa đường, đừng vì chút áp lực mà từ bỏ niềm tin và nguyên tắc sống đúng đắn của mình. Nghịch cảnh chỉ là một phép thử, để xem với những gì chính bản thân mình đã lựa chọn, ta có đủ dũng khí và kiên định đi đến cuối con đường hay không.

Tình yêu và hạnh phúc mà chúng ta đạt được trong cuộc sống chỉ có thể được đánh giá đúng vào thời điểm cuối cùng, khi chúng ta đã trải qua hết thảy bốn mùa trong một năm, trải qua tất cả các giai đoạn trong cuộc sống.

Hồng Công chuyển