mardi 31 juillet 2018

Nữ Văn Sĩ Margaret M. Mitchell và Tác Phẩm Cuốn Theo Chiều Gió

Nữ Văn Sĩ Margaret M. Mitchell và Tác Phẩm Cuốn Theo Chiều Gió


Margaret Munnerlyn Mitchell (8/11/1900 – 16/8/1949) là nhà văn nữ người Mỹ, đã đoạt Giải Thưởng Pulitzer năm 1937 nhờ cuốn tiểu thuyết rất thành công của bà, với tên gọi là "Cuốn Theo Chiều Gió" (Gone with the Wind). Đây là một trong các tác phẩm danh tiếng nhất của mọi thời đại, được xuất bản năm 1936. Trong vòng 6 tháng, 1 triệu ấn bản đã được bán hết với sức mua là 50,000 cuốn mỗi ngày. Đây cũng là tác phẩm có số lượng cao nhất trong lịch sử xuất bản của Hoa Kỳ, đã vượt qua kỷ lục 12 triệu cuốn vào năm 1965, được dịch sang hơn 30 ngôn ngữ khác nhau và phổ biến trên 40 quốc gia. Riêng bản tiếng Anh, tác phẩm này đã được bán ra với trên 200,000 cuốn mỗi năm và còn là một trong các tiểu thuyết bán chạy nhất cho tới ngày nay.

Cuốn phim phỏng tác theo tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió được trình chiếu vào năm 1939, với nữ tài tử Vivien Leigh đóng vai Scarlett O' Hara còn thủ vai Rhett Butler là nam tài tử Clark Gable. Đây là một bộ phim xuất sắc trong lịch sử Điện Ảnh của Hollywood và đã nhận được 8 phần thưởng điện ảnh cao quý (Academy Awards).

1/ Cuộc đời lúc ban đầu.

Margaret M. Mitchell chào đời tại thành phố Atlanta, tiểu bang Georgia, vào ngày 8 tháng 11 năm 1900. Cô bé này được gia đình gọi bằng tên Peggy, đã lớn lên trong khung cảnh miền Nam Hoa Kỳ, đã sống với các bà con bên mẹ là những cựu chiến binh trong cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ (1861-65) và là những người dân của Phe Miền Nam thất trận. Vì vậy cô Peggy đã được nghe kể lại rất nhiều câu chuyện liên quan tới cuộc chiến tranh và các hậu quả.

Sau khi tốt nghiệp từ trường Washington Seminary (bây giờ là trường Westminster), cô Margaret đã theo học Đại Học Smith (Smith College) nhưng sau kỳ thi cuối cùng năm 1918, cô đã rút lui, không theo đuổi con đường học vấn. Do bà mẹ qua đời vì bệnh cúm, cô Margaret phải trở về Atlanta để lo công việc gia đình. Sau đó không lâu, cô tham gia vào ban biên tập của tờ nhật báo Atlanta (the Atlanta Journal) và thường viết bài cho ấn bản ngày Chủ Nhật.

Vào năm 1922, cô Margaret Mitchell kết hôn với ông Red Upshaw nhưng không lâu sau đó, hai người đã ly dị nhau vì cô khám phá ra ông chồng là người làm và nấu rượu lậu. Rồi cô lập gia đình với người bạn phù rể của chồng trước, là ông John Marsh vào ngày 4 tháng 7 năm 1925. Có câu chuyện kể rằng trước kia, cả hai anh Red Upshaw và John Marsh đều theo đuổi cô Margaret trong khoảng hai năm 1921 và 1922 nhưng anh Upshaw cầu hôn trước.

2/ Viết Tác Phẩm "Cuốn Theo Chiều Gió".

Khi phải nằm nhà để điều trị vì bị gẫy mắt cá chân, cô Margaret đã được ông chồng John Marsh mượn từ thư viện rất nhiều cuốn sách lịch sử. Sau một thời gian, ông John bảo vợ: "Peggy, nếu em muốn một tác phẩm khác nữa, tại sao em không tự viết ra một cuốn". Do vậy, Margaret đã dùng các kiến thức của mình về cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ cộng với những hoàn cảnh trắc trở trong cuộc đời của mình để viết nên một tiểu thuyết chứa đựng bên trong rất nhiều tình tiết và rồi tự đánh máy cuốn truyện bằng một máy chữ cũ Remington. Lúc đầu, Margaret đã gọi nhân vật nữ anh hùng của mình là "Pansy O' Hara và đồn điền Tara được gọi là "Fontenoy Hall", còn về tên gọi của cuốn truyện, Margaret phân vân trước hai tên sau: "Mang Gánh Nặng" (Tote your Heavy Load) và "Ngày Mai là một Ngày Khác" (Tomorrow is Another Day).

Khởi đầu, Margaret viết truyện để làm vui cho chính mình dưới sự giúp đỡ của chồng và cô đã không nói cho các bạn biết rằng mình đã viết văn. Cô đã giấu kín các bản thảo trong các bao thư lớn, để dưới gầm giường hay trong phòng kho nhỏ. Margaret đã viết không theo thứ tự, bắt đầu bằng chương cuối cùng và đôi khi nhẩy cách từ chương này qua chương khác. Chồng của cô thường đọc các bản thảo để giúp cô duy trì sự liên tục trong cuốn truyện.

Vào năm 1929, khi vết thương tại mắt cá chân đã lành thì phần lớn cuốn truyện đã được viết xong và cô Margaret cũng cảm thấy không còn phấn khởi để ra thư viện tìm kiếm thêm các tài liệu. Margaret Mitchell đã sinh sống như một phụ nữ viết báo bình thường và khiêm tốn, tại thành phố Atlanta cho đến khi một buổi gặp gỡ định mệnh tới với cô vào năm 1935.

Vào thời gian này, một nhân viên của nhà xuất bản MacMillan tên là Howard Latham đã tới Atlanta để tìm kiếm các nhà văn mới của miền Nam Hoa Kỳ. Một người bạn trước kia làm việc với ông Lantham đã yêu cầu cô Margaret Mitchell đưa ông ta đi vòng quanh thành phố và ông Howard Latham thấy cô Margaret rất vui vẻ, hấp dẫn trong cách nói chuyện, nên đã hỏi xem cô Margaret đã từng viết một cuốn tiểu thuyết bao giờ chưa.

Margaret Mitchell rất ngần ngại vì trước kia, một người bạn đã chế giễu cô, nhân câu chuyện thường ngày: "Hãy tưởng tượng xem, một người cù lần như Peggy mà dám viết văn" và cô chưa từng nuôi mộng đưa bản thảo cho một nhà xuất bản. Ông Latham đã cầu khẩn: "Nếu cô đã viết ra một cuốn truyện rồi, làm ơn cho tôi coi cuốn đó trước các người khác".

Cô Margaret trở về nhà, rất lo lắng khi lục tìm các bao thư lớn chứa đựng bản thảo mà cô đã xếp vào một xó. Cô tới khách sạn Georgian Terrace vào lúc ông Latham đang chuẩn bị rời Atlanta và cô đã nói với ông ta: "Xin hãy giữ lấy thứ này trước khi tôi đổi ý". Ông Latham bèn mua một va li khác để chứa đựng khối lượng bản thảo lớn hơn con người nhỏ bé của tác giả. Khi trở về nhà, cô Margaret đã gửi một điện tín tới ông Latham: "Tôi đã đổi ý định. Xin hãy gửi lại cho tôi các bản thảo".

Nhưng, tất cả đã muộn. Ông Latham đã đọc rất nhiều trang viết và đã nhận ra rằng mình đang có trong tay một cuốn truyện rất hấp dẫn. Vì thế đáng lẽ trả lại bản thảo, ông Latham đã cho cô Margaret biết mình nghĩ thế nào về cuốn truyện và tin rằng sau khi xuất bản, cuốn tiểu thuyết này sẽ thành công. Ông Latham cũng gửi gấp tới cô Margaret một tấm ngân phiếu để yêu cầu cô viết xong cuốn tiểu thuyết, và nhà văn nữ Margaret Mitchell đã hoàn thành chương một, cuối cùng, vào tháng 3 năm 1936. Tên của cuốn tiểu thuyết bắt nguồn từ bài thơ "Cynara" của Ernest Dowson, với dòng đầu của đoạn thứ ba như sau: "Non sum qualis eram bonae sub regno Cynarae" = "Anh đã quên mất nhiều rồi, Cynara! Cuốn theo chiều gió". (I have forgot much, Cynara! Gone with the wind). Dòng chữ "cuốn theo chiều gió" cũng xuất hiện khi thành phố Atlanta bị quân đội Miền Bắc bắn phá, nàng Scarlett đã phải bỏ chạy về đồn điền Tara của gia đình và nàng tự hỏi: "Tara còn đứng vững không? Hay là Tara đã bị 'cuốn theo chiều gió', cơn gió mạnh thổi qua Georgia?". Cuốn tiểu thuyết "Cuốn Theo Chiều Gió" được in xong vào ngày 30 tháng 6 năm 1936.

3/ Nhà Văn Nữ Margaret Mitchell qua đời.

Vào tháng 8 năm 1949, Margaret Mitchell cùng với chồng băng qua con đường Peachtree, gần góc đường thứ 13 (13th Street) thì một xe taxi chạy quá tốc độ đã đâm vào nhà văn này. Năm ngày sau, Margaret Mitchell qua đời tại bệnh viện Grady vì các vết thương. Người tài xế xe taxi bị kết tội lái xe khi say rượu, nên đã gây ra tai nạn chết người và đã bị phạt phải làm lao động nặng trong 40 năm. Việc kết tội này cũng gây nên cuộc tranh luận bởi vì các người chứng kiến cho rằng cô Margaret đã bước xuống đường mà không nhìn hai phía và các bạn của cô cũng xác nhận rằng đây là khuyết điểm thường xuyên của cô.

Nhà văn nữ Margaret Mitchell qua đời năm 48 tuổi, được chôn cất tại nghĩa trang Oakland thuộc thành phố Atlanta.

Trong nhiều thập niên, người ta thường tin rằng Margaret Mitchell chỉ viết một cuốn truyện. Thực ra, Margaret có một người đã từng theo đuổi cô tên là Henry Love Angel. Người con trai của ông Angel này vào năm 1990 đã khám phá thấy trong số các bức thư mà cô Margaret gửi trong thập niên 1920 cho ông Angel, có bản thảo của một cuốn tiểu thuyết ngắn (novella) có tên là Lost Laysen, kể về một chuyện tình tại miền Nam Thái Bình Dương. Bản thảo này được chuyển tới Viện Bảo Tàng "Road to Tara" tại Atlanta và nơi này đã xác nhận cuốn truyện kể trên là thực sự của tác giả Margaret Mitchell. Một ấn bản đặc biệt của cuốn Lost Laysen đã được Debra Free biên tập và xuất bản vào năm 1996 do nhà in Scribner của nhà phát hành Simon & Schuster.

Cuốn truyện "Cuốn Theo Chiều Gió" đã được nhà sản xuất David O. Selznick chọn để quay thành phim, lần trình chiếu đầu tiên là vào ngày 15 tháng 12 năm 1939.

Ngày nay, căn nhà mà cô Margaret Mitchell đã sinh sống và viết ra bản thảo được gọi là "The Margaret Mitchell House", tọa lạc tại trung tâm thành phố Atlanta, đây là nơi du lịch chính. Một Viện Bảo Tàng dành cho việc lưu trữ cuốn sách và các y phục, các vật dụng liên quan tới cuốn phim, được gọi là "Scarlet On Square" hiện đặt tại Marietta, Georgia. Ngoài ra còn có Viện Bảo Tàng "The Road to Tara" ở trung tâm thành phố Jonesboro.

4/ Cốt truyện của Tác Phẩm "Cuốn Theo Chiều Gió".



Scarlett O' Hara là một hoa khôi của địa phương Georgia nên được nhiều chàng trai theo đuổi. Cô thường hay tham dự vào các buổi dạ tiệc, dạ vũ hay các lần họp bạn nấu ăn ngoài trời. Một hôm, Scarlett bị xúc động mạnh khi Ashley Wilkes, chàng thanh niên con ông chủ đồn điền bên cạnh, báo tin cho nàng biết rằng chàng đã hứa hôn với Melanie Hamilton, một cô em họ của Scarlett.

Khi không thể thuyết phục Ashley đổi ý, Scarlett bèn tán tỉnh Charles Hamilton và chàng trai này rất ngạc nhiên vì vẫn tưởng rằng người đẹp này sẽ không bao giờ chú ý đến mình. Trong khi các chương trình của Scarlett còn dang dở thì cuộc Nội Chiến tràn lan tới, các chàng thanh niên phải tham gia vào quân đội và Charles bị tử trận. Vì vậy Scarlett đã trải qua nhiều năm tại Atlanta, sống một cuộc đời buông thả, mặc cho các bạn gái cùng giai cấp chê trách.

Cuộc đời của Scarlett lại trở nên phức tạp khi xuất hiện Rhett Butler, một tên cướp biển trước kia và hiện nay là một kẻ cơ hội, nên không được chấp nhận tại thị xã sinh quán là Savannah. Rhett đã khiến cho Scarlett yêu thương mình nhưng tính bộc trực và những nhận xét ngay thẳng của chàng này đã làm cho Scarlett tức giận nhiều lần.

Trong khi thành phố Atlanta bị quân đội Miền Bắc bao vây, Scarlett bỏ chạy về đồn điền Tara của mình cùng với người bà con Melanie và cháu bé mới sinh tên là Beau. Tại nơi này, nàng Scarlett học cách sống còn trong các hoàn cảnh cực khổ trên cánh đồng và có khi cầm súng bắn các người lính Miền Bắc (Yankee soldiers) để bảo vệ ngôi nhà.

Khi chiến tranh chấm dứt, Scarlett lại phải đương đầu với các hoàn cảnh khó khăn khác. Chính quyền địa phương đã tăng thuế và các kẻ bất lương đang tìm cách cướp đi đồn điền Tara của nàng. Scarlett bèn trở về Atlanta, cố gắng gặp lại Rhett để lừa dối chàng này là mình sẽ kết hôn với chàng, với chủ đích mượn số tiền 300 mỹ kim để trả thuế. Khi cách thức kể trên không thành công, Scarlett đã ăn cắp tiền của Frank Kennedy, hôn phu của người em và món tiền này là để dành cho đám cưới. Vì muốn cứu lại đồn điền Tara, Scarlett đã phản bội người em, lập gia đình với Frank, trả phần thuế còn thiếu và tận tụy giúp cho cơ sở thương mại của Frank được phát đạt.

Sau khi tìm cách hối lộ để ra khỏi nhà tù vì cách làm ăn phi pháp trước kia, Rhett đã cho Scarlett một số tiền lớn để mua một nhà máy xẻ gỗ và nàng trở nên một nữ thương gia khôn khéo.

Một hôm, một tên da đen được giải phóng và một tên đồng lõa da trắng đã tấn công Scarlett trên đường về. Vì vậy bọn Ku Klux Klan đã báo thù cho nàng và trong trận đụng độ, Frank bị chết. Tới lúc này, Rhett cầu hôn với Scarlett và cô nàng nhận lời. Sau lần trăng mật dài và xa hoa tại New Orleans, Scarlett và Rhett trở lại Atlanta, họ sống trong một ngôi nhà lớn và giao tiếp với các người giàu sang. Trong cuộc hôn nhân gây chấn động này, Scarlett thường hay mơ tưởng hão huyền Rhett là Ashley. Nàng có thai lần thứ hai với Rhett và sinh ra bé gái Bonnie Blue Rhett.

Tình cảm của Scarlett với Rhett đã không thể cứu vãn được khi Bonnie, đứa con chung lên 4 tuổi, đã bị tử thương vì ngã ngựa. Hai người đã chia tay nhau. Khi Melanie qua đời, Scarlett hầu như sống cô đơn, không bạn bè, nhiều buồn phiền, nàng trở về đồn điền Tara để lấy lại sức sống bên bà già nuôi và cũng là người nô lệ khi trước, tên là Mammy. Đã quá muộn khi Scarlett khám phá ra rằng Rhett là người đàn ông duy nhất mà nàng yêu thương.

5/ Ý nghĩa của Tác Phẩm "Cuốn Theo Chiều Gió".

Tác phẩm "Cuốn Theo Chiều Gió" của Margaret Mitchell kể lại câu chuyện của một phụ nữ đẹp, có tính tình nổi loạn, thuộc miền Georgia, tên là Scarlett O' Hara. Nàng đã làm việc vất vả với các bạn bè, gia đình và các người yêu trong hoàn cảnh trước và sau cuộc chiến tranh Nam Bắc Mỹ và trong thời kỳ Tái Kiến Thiết. Đây cũng là chuyện tình nẩy nở giữa nàng Scarlett và chàng Rhett Butler.

Tác phẩm này cũng mang hàm ý bênh vực các lý tưởng của Phe Miền Nam trong cuộc Nội Chiến và cũng là cách tiểu thuyết hóa nền Văn Hóa của Miền Nam trước chiến tranh. Cuốn truyện cũng chứa đựng rất nhiều sự kiện lịch sử, đã mô tả rõ ràng các ngày sụp đổ của thành phố Atlanta vào năm 1864 và sự tàn phá của chiến tranh. Các nguồn tài liệu của Margaret Mitchell đã mang các tính cách đặc sắc của các nhà sử học và các nhà văn Miền Nam, và cũng vì các mô tả cuộc Nội Chiến, các cảnh tàn phá do chiến tranh gây nên mà tác phẩm "Cuốn Theo Chiều Gió" đã đoạt Giải Thưởng Pulitzer vào ngày 3 tháng 5 năm 1937.

Trong khi Margaret Mitchell đã từng nói rằng các nhân vật trong truyện không được viết dựa vào những người thật ở ngoài đời, nhưng các nhà khảo cứu đã tìm thấy nhiều điểm tương tự giữa một số nhân vật và các người quen của tác giả. Rhett Butler được diễn tả căn cứ vào người chồng đầu tiên Red Upshaw, người mà nàng Margaret đã kết hôn vào năm 1922 rồi sau đó ly dị vì khám phá ra chàng đã từng là kẻ nấu và buôn rượu lậu. Và cũng có người tin rằng Rhett Butler còn là hình ảnh của Sir Godfrey Barnsley của thành phố Adamsville, thuộc tiểu bang Georgia.

Nhân vật Scarlett O' Hara có thể là hình ảnh của bà Martha Bulloch Roosevelt, bà mẹ của Tổng Thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt. Nhà sử học David McCullough, người chuyên viết tiểu sử của Tổng Thống Roosevelt, đã tìm thấy các tài liệu cho biết Margaret Mitchell khi làm phóng viên cho tờ nhật báo Atlantic (the Atlantic Journal), đã phỏng vấn bà Evelyn King Williams, ở tuổi 87, đây là một trong các người bạn thân nhất và cũng là cô phù dâu của bà Martha Roosevelt. Nhờ cuộc phỏng vấn này, Margaret Mitchell đã thấy rõ vẻ đẹp bên ngoài, sự duyên dáng và trí thông minh của bà Martha rồi dùng các chi tiết này mà áp dụng vào việc mô tả cô nàng Scarlett O' Hara.

Cuốn Theo Chiều Gió là một chuyện tình, là nỗi suy tư về các đổi thay đã thổi qua Miền Nam Hoa Kỳ trong thập niên 1860. Cuốn truyện bắt đầu vào năm 1861 trước khi xẩy ra cuộc Nội Chiến và chấm dứt vào năm 1871 khi các người Dân Chủ (the Democrats) nắm quyền kiểm soát miền Georgia. Trong các năm chiến tranh này, Miền Nam đã thay đổi hoàn toàn và cuốn tiểu thuyết của Margaret Mitchell đã minh họa sự tranh đấu của người dân Miền Nam trong các nghịch cảnh.

Cuốn truyện mở đầu với miền Georgia, một địa phương còn các tập quán, các niềm kiêu hãnh về những tác phong mã thượng, rồi chiến tranh lan tràn tới Atlanta đã gây nên cảnh đổ vỡ trong các cấu trúc quyền lực và các tập quán truyền thống. Miền Nam đã thua trận, các người nô lệ da đen được giải phóng, lối sống của Miền Nam này khác trước, đã có các xung đột nội bộ: người da trắng sợ người da đen, dân miền Nam ghét dân miền Bắc vừa thống trị, vừa lợi dụng, giới thượng lưu cũ căm thù các kẻ mới giàu. Ashley là nhân vật tượng trưng cho Miền Nam cũ, hoài cổ nhưng bất lực trước các đổi thay, chàng yếu đi và tàn dần. Rhett là kẻ thực tế, cơ hội, đã phát triển do đứng cả hai chân: vừa theo phe Miền Nam, vừa theo phe Miền Bắc và đôi khi còn bênh vực các kẻ Miền Bắc (Yankees).

Tác phẩm còn mô tả Scarlett đã vượt qua được các nghịch cảnh bằng sức mạnh của ý muốn. Nàng là một nữ anh hùng, không cần giúp đỡ của người khác, đã trông cậy vào chính mình và sống còn sau trận Nội Chiến và thời kỳ Tái Xây Dựng. Nàng đã khôi phục được đồn điền Tara, chăm sóc các người bà con và các bạn bè và đôi khi tác giả còn cho rằng muốn vượt qua các nghịch cảnh, cần tới sự xảo quyệt. Và có lẽ nhờ đặc tính này mà Scarlett là một nữ thương gia tàn nhẫn, một người vợ áp chế chỉ vì muốn thành công.

Đất đai cũng là một chủ đề của tác giả. Scarlett O' Hara đã thương nhớ đồn điền Tara, nàng đã yếu đi và trở nên bệnh hoạn khi phải sống xa miền đất yêu dấu, bởi vì, khi nằm trên mặt đất của đồn điền Twelve Oaks bên cạnh, nàng đã cảm thấy đất đai thì: "mềm và dễ chịu như chiếc gối". Nàng Scarlett đã đánh giá cao miền đất quê hương hơn là tình yêu và Ashley đã phải nói rằng Scarlett yêu mến đồn điền Tara hơn là yêu chàng.

Tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió còn mô tả các phụ nữ có đầy đủ trí thông minh và lòng cam đảm dù cho ở vào thời đại đó, đã không có sự bình đẳng giữa hai giới tính. Scarlett thì khôn khéo, đã điều khiển các người đàn ông dễ dàng, đã điều hành xưởng xẻ gỗ một cách thành công và khiến cho người chồng trở thành kém khả năng. Melanie, mặc dù là một nhân vật phai mờ trong truyện, đã có đặc tính mạnh mẽ nhất, nàng khiến cho Scarlett có đủ sức mạnh để bảo vệ Ashley trước thế giới mà chàng phải đối phó và nàng cũng phục hồi được xã hội Atlanta. Hai nhân vật nữ khác có đủ trí óc sáng suốt và sức mạnh tinh thần là bà cô già Fontaine và Ellen.

Tật xấu uống rượu cũng là một đề tài trong tác phẩm, với các nhân vật như Gerald, Scarlett và Rhett... Họ đã dùng rượu để quên đi các căng thẳng tinh thần, và sau rượu là các tai họa. Gerald chết cũng vì rượu. Scarlett tiếp tục uống rượu tại đồn điền Tara khi nàng cảm thấy rắc rối, buồn phiền và Rhett đã uống thật say khi đứa con Bonnie qua đời.

Nạn mãi dâm cũng được đề cập trong cuốn truyện. Scarlett nhìn thấy cô gái điếm đầu tiên tại Atlanta: Belle Watling. Belle là một hình ảnh khác và quá đáng của Scarlett: cả hai cùng quên đi các điều lệ của xã hội, đều tìm cách quyến rũ đàn ông, đổi trác dục tính lấy tiền bạc và nếu Scarlett tượng trưng cho một loại gái mãi dâm hạng sang thì Belle thuộc loại thấp hèn của xã hội, và tác giả Margaret Mitchell đã mô tả Belle còn là con người đại lượng, có tình nhân đạo và nếu xét về phương diện đạo đức, nàng Belle này còn cao cả hơn cô Scarlett tàn nhẫn.

Ngoài ra, tác giả Margaret Mitchell còn mô tả thành phố Atlanta đã bị quân lính Miền Bắc đốt cháy ra sao, xây dựng lại như thế nào, và nơi này tượng trưng cho cách thích nghi nhanh chóng của Miền Nam. Sau chiến tranh, Atlanta trở nên một thành phố mới với các đặc tính giàu có lòe loẹt ở một phía và cảnh nghèo khó dơ bẩn ở phía kia.

6/ Thực hiện cuốn phim Cuốn Theo Chiều Gió.

Vào tháng 5 năm 1936, nhà biên tập truyện phim Kay Brown đã đọc ấn bản trước khi phổ biến của tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió, đã khuyên nhà đạo diễn David O. Selznick mua bản quyền để chuyển tác phẩm này thành phim ảnh. Một tháng sau khi cuốn truyện được phát hành, đạo diễn Selznick đã trả $50,000 mỹ kim cho tác giả, đây là một kỷ lục vào thời kỳ đó. Tiếp theo là công cuộc tìm kiếm một nữ tài tử để đóng vai nàng Scarlett O' Hara. Vivien Leigh là một trong hai tài tử vào chung kết, người kia là Paulette Goddard. Nữ tài tử trẻ đẹp người Anh là Vivien Leigh đã được chọn mặc dù còn rất nhiều tài năng xuất sắc khác như Katherine Hepburn, Norma Shearer, Bette Davis, Babara Stanwyck, Joan Crowford, Lana Turner, Susan Hayward, Carole Lombard, Paulette Goddard, Irene Dunne, Merle Oberon, Ida Lupino, Joan Fontaine, Loretta Young, Miriam Hopkins, Jean Arthur, Joan Bennet, Frances Dee và Lucille Ball.

Đối với vai Rhett Butler, Clark Gable là nam tài tử được ưa thích của cả quần chúng lẫn đạo diễn Selznick. Các vai chính khác do Leslie Howard (Ashley Wilkes), Olivia de Havilland (Melanie Hamilton) và Hattie McDaniel (Mammy). Ngoài ra còn có 25 tài tử phụ quan trọng khác như: Thomas Mitchell, Barbara O'Neil, Evelyn Keys... Các giám đốc thực hiện gồm: Victor Fleming, George Cukor, Sam Wood, William Cameron Menzies và Sidney Franklin.

Công cuộc thu hình bắt đầu vào ngày 26/01/1939 và chấm dứt vào ngày 11/11/1939, phần lớn thực hiện tại phim trường của hãng Selznick International Pictures với một số cảnh thu tại Hạt Los Angeles hay Hạt Ventura, trong tiểu bang California.

Nhà đạo diễn đã dùng 7 máy quay phim để thu hình quang cảnh thành phố Atlanta bị bốc cháy. Ngọn lửa bốc cao tới 500 feet (165 mét) trong một khu vực rộng 40 mẫu (acres). Để đề phòng hỏa hoạn không thể cứu chữa nổi, người ta đã huy động 10 đội cứu hỏa của thành phố Los Angeles, 50 nhân viên chữa lửa của phim trường và 200 người phụ giúp với 5,000 thùng nước. Cảnh tàn phá được diễn tả bằng 1,600 hình nộm xác chết nằm rải rác trên mặt đất và máy thu hình được đặt trên một cần cẩu cao 60 feet (20 mét) để quay quang cảnh rất nhiều người bị thương nằm la liệt trên mắt đất trải dài hầu như tới vô tận.

Phí tổn kỷ lục để thực hiện cuốn phim vào thời kỳ đó là 3.9 triệu mỹ kim, chỉ đứng sau Phim Ben-Hur quay vào năm 1925. Trong thời gian thu hình, nữ tài tử Vivien Leigh đã làm việc 125 ngày và lãnh $25,000 mỹ kim, còn nam tài tử danh tiếng Clark Gable lãnh hơn $120,000 mỹ kim là tiền trả công cho 71 ngày làm việc.

Buổi trình chiếu đầu tiên của cuốn phim Cuốn Theo Chiều Gió là ngày 15 tháng 12 năm 1939 tại thành phố Atlanta, tiểu bang Georgia.

Sau đây là các phần thưởng Academy do cuốn phim Cuốn Theo Chiều Gió mang lại:

Phần Thưởng Academy Danh Dự (Honorary Academy Award) vì thực hiện xuất sắc trong công việc dùng phim màu (for Outstanding Achievement in the Use of Color, 1939): William Cameron Menzies.
Phần Thưởng Academy vì Hình Ảnh đẹp nhất (Best Picture, 1939): Đạo Diễn David O. Selznick.
Phần Thưởng Academy dành cho Nữ Tài Tử hạng nhất (Best Actress, 1939): Vivien Leigh.
Phần Thưởng Academy dành cho Nữ Tài Tử phụ hạng nhất (Best Supporting Actress, 1939): Hattie McDaniel. Đây là tài tử Mỹ da đen đầu tiên lãnh giải Oscar.
Phần Thưởng Academy dành cho Giám Đốc hạng nhất (Best Director, 1939): Victor Fleming.
Phần Thưởng Academy dành cho viết kịch bản phim hạng nhất (Best Writing-Screenplay, 1939): Sidney Howard.
Phần Thưởng Academy dành cho Chỉ Đạo Nghệ Thuật hạng nhất (Best Art Direction, 1939): Lyle R. Wheeler.
Phần Thưởng Academy dành cho Kỹ Thuật Phim Màu (Best Cinematography – Color, 1939): Ernest Haller và Ray Rennahan.
Phần Thưởng Academy dành cho Biên Tập Phim hạng nhất (Best Film Editing, 1939): Hal C. Kern và James E. Newcom.
Phần Thưởng Thực Hiện Kỹ Thuật (Technical Achievement Award): Don Musgrave.

Ngoài ra còn có phần Xướng Danh (Nominated):
Diễn Viên hạng nhất: Clark Gable
Nữ Diễn Viên hạng nhất trong vai phụ: Olivia de Havilland
Các Tác Dụng hạng nhất (Best Effects, Special Effects): Fred Albin (âm thanh), Jack Cosgrove (nhiếp ảnh) và Arthur Johns (âm thanh).
Âm Nhạc hạng nhất (Best Music, Original Score): Max Steiner.
Âm Thanh và Thu Âm hạng nhất (Best Sound, Recording): Thomas T. Moulton.
Vào năm 1998, Viện Phim Ảnh Hoa Kỳ (the American Film Institute) đã xếp cuốn phim Cuốn Theo Chiều Gió vào hạng 4 trong danh sách 100 Bộ Phim Hay Nhất (100 Greatest Movies), được tuyển chọn để lưu trữ do Cơ Quan Quốc Gia Tồn Trữ Phim (the U.S. National Film Registry) và được hoàn toàn phục hồi theo kỹ thuật số (complete digital restoration).

7/ Sơ lược về Cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ.

Cuộc Nội Chiến Nam Bắc Mỹ là một xung đột quân sự, từ năm 1861 tới năm 1865, giữa phe Liên Hiệp Miền Bắc (the Union) và phe Liên Bang Miền Nam (the Confederacy). Cuộc chiến tranh này bắt đầu vào ngày 12 tháng 4 năm 1861 khi Tướng Miền Nam P.G.T. Beauregard hạ lệnh bắn phá Đồn Sumter tại Hải Cảng Charleston thuộc tiểu bang South Carolina, và kết thúc vào ngày 26 tháng 5 năm 1865 khi lực lượng quân sự cuối cùng của Liên Bang Miền Nam đầu hàng.


Tổn thất của cuộc Nội Chiến này là 620,000 sinh mạng, phe Miền Bắc thiệt hại 360,000 quân, phe Miền Nam mất 260,000 lính, hơn một nửa số người chết là do bệnh tật, vào khoảng một phần ba binh lính Miền Nam chết trong trận mạc, trong khi tỉ lệ tử thương của binh lính Miền Bắc là một phần sáu. Cuộc Nội Chiến này đã tàn phá hơn 5 tỉ mỹ kim (trị giá thời bấy giờ), đã giải phóng hơn 4 triệu người nô lệ da đen và các vết thương do chiến tranh gây nên cần tới 125 năm mới hàn gắn được.

Cả hai phe Miền Nam và Miền Bắc của Hoa Kỳ đều phải chịu các thiệt hại kinh tế khổng lồ, nhưng Miền Nam lãnh các thiệt hại trực tiếp, rất nặng nề, và cảnh tàn phá đã kéo dài từ Thung Lũng Shenandoah ở phía bắc, tới tiểu bang Georgia ở phía nam, từ tiểu bang South Carolina ở phía đông tới tiểu bang Tennessee ở phía tây. Cuộc chiến này được coi thuộc loại chiến tranh tân tiến bởi vì cảnh hoang tàn rộng lớn. Đây cũng là cuộc chiến tranh toàn diện (total war) trong đó cả hai bên đều dùng tới mọi nguồn tài nguyên vào công việc chiến tranh và cuộc Nội Chiến đã kết thúc do sự thất bại hoàn toàn và sự đầu hàng không điều kiện của một bên.

Trong khắp Miền Nam, các thành phố, nông trại, kỹ nghệ, thương mại, con người nam, nữ và trẻ em đều bị thiệt hại, tất cả lối sống của miền này bị tiêu diệt. Sau đó, sự cay đắng giữa người dân hai miền còn tiếp tục qua nhiều thế hệ và Miền Nam đã không có được tiếng nói về chính trị, xã hội, văn hóa...

Các lý tưởng truyền thống của Miền Nam đã không gây được ảnh hưởng quan trọng tới các chính sách của chính quyền trung ương trong khi đó, các lý tưởng thuộc về đạo Tin Lành của phe Miền Bắc (the Yankee Protestant ideals) đã trở thành các tiêu chuẩn cho xứ sở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những lý tưởng này đã nhấn mạnh vào cách làm việc chăm chỉ, tôn trọng giáo dục và tự do kinh tế... tất cả đã góp công vào việc làm phát triển Hoa Kỳ thành một thế lực kỹ nghệ mới và hùng mạnh.

Phạm Văn Tuấn
(Đặc San Lâm Viên)
Tài liệu tham khảo: Wikipedia.org, Britannica Encyclopedia, Cliffsnotes.com, Sparknotes.com



PLAY ALL

Tính nhân bản trong bài học quốc văn tiểu học miền Nam trước 75

Tính nhân bản trong bài học quốc văn tiểu học miền Nam trước 75
Nguyễn Văn Bon


Sau biến cố 30-4-1975, nhà cầm quyền ra lệnh tiêu hủy các loại sách của Miền Nam kể cả sách giáo khoa môn quốc văn các cấp. Do đó, việc sưu tập các sách quốc văn cũ rất khó khăn. Tài liệu sử dụng trong bài viết này gồm Bộ quốc văn giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư do các nhà xuất bản nước ngoài tái bản, và một số bài trong các sách quốc văn bậc tiểu học được giảng dạy tại các trường miền Nam được vài nhà sưu tầm đưa lên trang mạng, thêm vào đó một số bài do trí nhớ hạn chế của người viết, nên chắc chắn những điều trình bày còn thiếu sót.


I. Dẫn nhập

Mục đích của giáo dục không phải chỉ truyền thụ những kiến thức, mà là đào tạo con người toàn diện, không thể tách rời kiến thức và đạo đức. Đạo đức làm người phải được đề cao, như đức hiếu thảo, yêu thương gia đình, ông bà cha mẹ, yêu thương họ hàng thân tộc, có lương tâm trong mọi sinh hoạt, có trách nhiệm với tha nhân, góp phần bảo vệ cuộc sống cho xã hội.
Muốn đạt được mục đích này, không thể không quan tâm đến vai trò của sách giáo khoa. Khi đề cập đến vai trò của sách giáo khoa bậc tiểu học, nhiều nhà giáo dục luôn nhắc đến bộ sách Quốc văn giáo khoa thư của Trần Trọng Kim, Đỗ Thận, Nguyễn Văn Ngọc và Đặng Đình Phúc, xuất bản từ những năm 1930 – 1940, là một trong những sách giáo khoa Việt ngữ được dạy ở các trường tiểu học Việt Nam trong suốt những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ 20.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, nước Việt Nam tạm thời chia đôi ở vĩ tuyến 17, thành hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc xây dựng một nền giáo dục hướng mục tiêu đến Chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó, tại Miền Nam theo chính thể tự do. Các nhà giáo dục Miền Nam tỏ ra rất thận trọng. Họ chủ trương cải tổ từ từ, chọn lọc để thích ứng với hoàn cảnh mới. Những gì người Pháp thiết lập không bị hủy bỏ ngay. Hệ thống giáo dục Pháp từ cấp tiểu học đến đại học được từ từ Việt hóa.
Chương trình giáo dục Việt Nam cũ ban hành năm 1945, dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, được gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn, vẫn còn áp dụng cho đến giữa thập niên 1950. Dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa, chương trình Việt mới bắt đầu thay thế chương trình Pháp.
Nhờ quyết định đúng đắn và thận trọng của những nhà giáo dục miền Nam mà sự chuyển sang một nền giáo dục mới không bị trục trặc.
Riêng chương trình môn Quốc văn bậc tiểu học, dựa theo nội dung các bài học về đạo đức trong bộ sách Quốc văn giáo khoa thư và Luân lý giáo khoa thư làm cơ sở rồi soạn một chương trỉnh phù hợp với hoàn cảnh mới, nhằm rèn luyện cho thế hệ tương lai cả đức lẫn tài để chuẩn bị trở thành những con người hữu dụng đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Theo chủ trương, một chương trình, nhiều sách giáo khoa, chỉ cần theo chương trình và hướng dẫn của Bộ Giáo dục, các soạn giả sách giáo khoa được tự do chọn bài, trích dẫn từ những tác phẩm của những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng hoặc có thể tự mình sáng tác những bài thơ, bài văn theo chủ đề giảng dạy để đưa vào sách, và giáo viên cũng có quyền chọn quyển sách giáo khoa để giảng dạy. Nhờ vậy, các soạn giả cố gắng để soạn ra những sách giáo khoa có giá trị. (1)
Thông thường, ở trang bìa của quyển sách, soạn giả ghi: “Soạn theo chương trình hiện hành của Bộ Quốc gia Giáo dục”… Có thể kể một số tên sách như: 100 bài tập đọc Lớp Nhất và Lớp Nhì (Một Nhóm Giáo Viên. NXB: Việt Hương), Nhị thập tứ hiếu (Lý văn Phức.NXB: Bình dân thư quán), Quốc văn Lớp Nhì, Quốc văn Lớp Nhất (Một nhóm Giáo viên. NXB: Việt Hương), Quốc văn toàn thư, Lớp Ba (Phạm trường Xuân & Yên Hà -Kinh Dương & Một Nhóm giáo viên. NXB: Việt Hương), Việt ngữ tân thư, Lớp Nhất, Việt Ngữ Tân Thư, Lớp Nhì (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Sống Mới), Việt văn Tân thư, Lớp Nhì (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Sống Mới), Việt văn Toàn thư (Bùi văn Bảo, Bùi quang Minh. NXB: Nhật Tảo), Tân Việt Văn, Lớp Bốn (Bùi văn Bảo. NXB: Sống Mới), Quốc văn Toàn Tập, Lớp Nhất (Bùi văn Bảo, Đoàn Xuyên. NXB: Sống Mới), Giảng văn, Lớp Đệ Thất (Đỗ văn Tú, NXB: Việt Nam Tu Thư), Tiểu Học Nguyệt san (NXB: Nha Học Chánh Bắc Việt) (2)
Ngoài những sách giáo khoa, giáo viên có thể sử dụng những tác phẩm của những nhà văn có uy tín để bổ sung cho bài học trong lớp, như cuốn Tâm Hồn Cao Thượng (nguyên tác Grand coeurs của Edmond de Amicis. Dịch giả: Hà Mai Anh, 1952. NXB: Mai Đình), Thơ ngụ ngôn (Les Fabres de la Fontaine, Dich già: Nguyễn văn Vĩnh)…
Trong phạm vi bài viết ngắn, xin trích dẫn một số bài học về bổn phận đối với xã hội trong các sách “Quốc văn Giáo khoa Thư”, “Tâm Hồn Cao thượng” và một số sách giáo khoa của tác giả khác. Những bài học nói lên tinh thần nhân bản của nền giáo dục miền Nam trước năm 1975. Bài viết gồm:
Khái niệm về nhân bản và triết lý nhân bản của nền giáo dục Miền Nam trước năm 1975.
Nội dung các bài học mang tính nhân bản trong sách quốc văn bậc tiểu học.
II. Khái niệm về nhân bản và triết lý nhân bản của nền giáo dục Miền Nam trước năm 1975.
Từ năm 1959, nền giáo dục miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) đã lấy nguyên tắc căn bản: Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng làm triết lý giáo dục, và được ghi lại trong hiến pháp 1967.
Ba nguyên tắc căn bản: Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng là mục đích và tôn chỉ của nền giáo dục Miền Nam. Chính những nguyên tắc này đã giữ cho truyền thống dân tộc được bảo tồn và phát triển vững vàng, nhưng không bảo thủ, và từng bước theo kịp đà tiến triển của nhân loại.
Nền giáo dục nhân bản lấy con người làm gốc, tôn trọng giá trị của con người, đề cao giá trị siêu việt của con người. Con người khác hơn các sinh vật khác, con người có suy tư, có sáng tạo và làm cho đời sống càng ngày càng nâng cao. Con người cần được no cơm ấm áo, tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng.

Trong xã hội có những cá nhân khác biệt, nhưng không thể đánh giá con người qua sự khác biệt đó để kỳ thị giàu nghèo, giới tính, tôn giáo, địa phương, chủng tộc…
Mọi người đều được hưởng đồng đều về giáo dục (3). Đường hướng của nền giáo dục nhân bản là rèn luyện con người có nhân cách, có thái độ sống phù hợp với nguyên tắc đạo lý mà mọi người thừa nhận.
Do đó, một con người có nhân cách sẽ có lòng yêu thương: yêu gia đình, yêu đồng bào đồng loại và yêu quê hương đất nước. Nói cách khác, giáo dục không phải chỉ dạy kỹ năng nghề nghiệp hay kiến thức mà phải dạy làm người.
III. Nội dung các bài học mang tính nhân bản trong sách quốc văn bậc tiểu học
Nội dung, tư tưởng trong các sách giáo khoa tác động đến hình thành và phát triển nhân cách của trẻ thơ, nó in sâu vào tâm não trẻ thơ ngay trong giai đoạn đầu cắp sách đến trường cho đến lúc trưởng thành.
Các sách giáo khoa bậc tiểu học của miền Nam (Việt Nam Cộng Hòa) trước 1975 chú trọng những vấn đề luân lý đạo đức truyền thống, vẫn hàm chứa nội dung đạo đức trong các sách giáo khoa cũ của thế hệ 1940.
Sau đây là một số bài tiêu biểu về tình thương yêu đồng bào, đồng loại, lòng biết ơn đối với mọi người trong xã hội, tình yêu quê hương đất nước và tình yêu nhân loại.
1. Tình thương yêu đồng bào, đồng loại

Từ buổi đầu dựng nước và giữ nước, người dân Việt Nam đã trải qua biết bao gian nan thử thách. Tổ tiên chúng ta đã đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn phức tạp, vừa khắc phục mọi trở lực khắc nghiệt của thiên nhiên để mở mang bờ cõi giang san, vừa phải chiến đấu giữ nước, chống kẻ thù mọi phía, đặc biệt là thế lực hùng mạnh phương bắc. Để tồn tại và phát triển, tổ tiên chúng ta đã ý thức cần phải đoàn kết thật sự, cần phải nương tựa vào nhau và thương yêu nhau như những người con cùng một mẹ.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Tinh thần đoàn kết này tạo thành truyền thống lưu lại cho con cháu mai sau.Theo truyền thống của người Việt Nam, tình thương yêu không chỉ dành cho trong gia đình, mà mở rộng đến cả đồng bào và đồng loại. Một giá trị tốt đẹp của con người là lòng nhân đạo. Muốn sống cho đúng nghĩa, con người phải biết thương yêu lẫn nhau. Khi thấy người hoạn nạn, đau yếu phải giúp đỡ bằng tình thương yêu chân thành. Quốc văn giáo khoa thư mượn bài thơ trong gia huấn ca để dạy học sinh:
Thấy người hoạn nạn thì thương,
Thấy người tàn tật lại càng trông nom,
Thấy người già yếu ốm mòn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa
Nguyễn Trãi
(Gia huấn ca)
Có nhiều câu ca dao tục ngữ ẩn chứa triết lý tình thương được giảng dạy trong nhà trường, đã in sâu trong tâm khảm người Việt Nam:
“Lá rành đùm lá rách”
“Thương người như thể thương thân”
“Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng” (4)
Người trong một nước phải thương yêu nhau như con một nhà. Bài học về “Cậu bé miền Nam” trong quyển Tâm hồn cao thượng đã dạy học sinh về lòng thương yêu, không phân biệt Bắc Nam.
Một cậu bé miền Nam lên miền Bắc theo học. Được thầy giáo giới thiệu với các học sinh trong lớp, và được các học sinh nhiệt tình chào đón.
Thầy giáo nói với cả lớp:
“….Cho được các kết quả nói trên, nghĩa là làm cho đứa bé xứ Nam ra ở xứ Bắc cũng như ở nhà mình, và đứa bé ở xứ Bắc vào xứ Nam cũng tựa như về quê mình, nước ta phải chiến đấu trong 50 năm trời và đã hy sinh trên ba vạn người mới khôi phục được quyền tự do ấy. Vậy các con phải coi nhau như con một nhà, yêu nhau như anh em ruột thịt. Kẻ nào thấy người bạn mới không phải là người xứ mình mà đem lòng khinh rẻ, kẻ ấy không xứng đáng ngẩng mặt nhìn ngọn quốc kỳ đi qua…”(5)
Các bài học về tình thương yêu đồng bào, đồng loại đã nhắc nhở học sinh phải tôn trọng mạng sống của con người, có lòng nhân ái, biết trọng của người và không vọng ngữ. Đây là thước đo tiêu chuẩn đạo đức, nhân cách của con người

1.1. Tôn trọng mạng sống của con người

Mạng sống của các sinh vật rất quí. Mạng sống của con người có giá trị tối cao. Nếu mỗi cá nhân biết quí mạng sống của mình, thì không thể xem thường mạng sống của kẻ khác. Một dân tộc được coi là văn minh là một dân tộc biết đề cao giá trị nhân phẩm của con người. Một người có lòng lương thiện không bao giờ sát hại đến sinh mạng của đồng loại và sinh mạng của cả sinh vật khác. Chỉ có con người dã man mới coi thường mạng sống của con người. Không sát sinh là cách chặn đứng lòng tham dẫm lên sinh mạng con người và sinh vật để mưu cầu tư lợi cho bản thân mình. Không sát sanh còn là nuôi dưỡng lòng trắc ẩn, từ bi đối với muôn loài.
“Trọng cái tính mệnh của người ta, là đừng làm điều gì phạm đến thân thể và quyền tự do của người ta. Người ta ở đời, không có gì trọng hơn cái tính mệnh, hễ phạm đến, là một tội đại ác.
Không những là giết người mới có tội, cậy quyền cậy thế mà hà hiếp người ta, làm mất cái quyền tự do của người ta, cũng là một điều trái với lẽ công bình, người có lương tâm không ai làm.”(6)

1.2. Lòng nhân ái

Không phạm đến tính mệnh, của cải, danh giá, sự tự do và sự tín ngưỡng của người. Nhưng đó chỉ là giữ không làm điều ác mà thôi. Như thế vẫn chưa đủ bổn phận làm người. Phải có lòng nhân ái.
Nhân ái là lòng từ thiện, thương người đói khát, giúp người hoạn nạn. Có lòng nhân ái, thì mới làm những việc như bố thí, cứu giúp kẻ nghèo khổ, mới biết thân yêu mọi người và quên mình mà làm điều thiện. Người có lòng nhân ái dám hy sinh cứu người trong lúc nguy nan như người thầy thuốc không sợ lây khi chữa những bệnh truyền nhiễm; người lính liều sống chết ở chỗ chiến trường để giữ lấy nước nhà. Họ vì lòng nhân ái mà ra sức làm nghĩa vụ.
Bổn phận người ta đối với xã hội, thường chia làm hai mối là: công bình và nhân ái. “Không hại người” tức là công bình, “làm hay cho người” tức là nhân ái.
Câu “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” trong sách luận ngữ, tức là công bình. Còn nhân ái thì ta có thể nói được rằng: “kỷ sở dục giả, khả thi ư nhân”
Người ta mà không công bình, chẳng những có tội đối với lương tâm, mà luật pháp lại còn trừng trị nữa. Giết người thì phải thế mạng; trộm cắp thì phải ngồi tù, xưa nay ở đâu cũng vậy.
Con người mà không có lòng nhân ái, thì tuy đối với luật pháp không có tội lỗi, nhưng đối với lương tâm, thì là không phải. Gặp người đói khó, mà mình không giúp người ta, cũng không ai bắt được mình, nhưng trong bụng không đành.(7)
Người có lòng nhân ái thì không những là chỉ thương xót đồng loại mà thôi, lại còn thương xót đến cả loài vật nữa.
…Những loài vật đã giúp việc cho ta mà ta phải thương xót, là cái nghĩa vụ của ta. Nhưng đối với loài cầm thú khác, ta cũng nên có lòng nhân ái mới phải đạo làm người. Cầm thú tuy là giống không biết thiện ác và phải trái như người, nhưng nó cũng biết đau, biết khổ như mình…(8)
Vì tình nghĩa đồng bào mà phát tâm bố thí, cứu giúp người đói khổ, hoạn nạn; chia xẻ miếng ăn, manh áo cho người khốn khổ. Sống đạm bạc, cứu giúp người đồng loại là hành đông của con người có lòng nhân ái.
Người có lòng nhân ái, không chỉ bố thí miếng cơm manh áo hay tiền bạc khi thấy người đói khổ, mà vì:
Nghĩa đồng bào khiến ta thương yêu mọi người như là thương yêu anh em ruột. Bao giờ ta cũng sẵn lòng giúp đỡ mọi người, để người ta làm tròn cái nghĩa vụ ở đời. Ta phải dạy bảo những người ngu dốt, khuyên người làm điều lành, răn người làm điều ác. Ta nên che chở cho những người bị oan ức và bênh vực những người hèn yếu. Ta phải ăn ở thế nào cho đứa con mồ côi có thể coi ta như cha, người quá phụ coi ta như ân nhân. Ta làm mắt cho kẻ mù, làm chân cho kẻ què, làm tai cho kẻ điếc. Lúc nào cũng sẵn lòng nhân từ mà giúp đỡ mọi người trong lúc nguy hiểm.(9)
Khi thấy ai nghèo đói, khổ sở, mình cho cơm ăn, áo mặc, hoặc cho tiền bạc để giúp đỡ người ta đỡ khổ trong một lúc. Nhưng việc bố thí này phải “… tự nhiên, không cầu kỳ, không khoe khoang, mà có phần thiệt thòi cho mình thì mới quí. Không cứ cho ít hay cho nhiều, miễn là mình có lòng thành thực, biết thương xót kẻ nghèo khổ, thì mới là phải cái nghĩa bố thí.”(10)
Ngoài việc bố thí, “người có lòng nhân ái thường hay nghĩ đến việc thiện, như là thấy ai nghèo khổ thì đỡ đần, tìm công việc cho người ta làm, hoặc cứu giúp những cô nhi, quả phụ cho người ta khỏi đói rét, vất vả.”(11)
Lời một bà mẹ nói với đứa con trong bài “Kẻ khó” (Tâm Hồn Cao Thượng) không chỉ làm rung động tâm hồn của trẻ thơ, mà ngay đối với người lớn tuổi cũng không khỏi bùi ngùi.
Con ơi! Con phải biết con có đủ cả, chứ kẻ khó thì thiếu hết. Khi con mong sao được sung sướng thì người nghèo chỉ cầu sao cho khỏi chết. Trong một khu có bao nhiêu nhà giàu, trong một phố có bao nhiêu người sang trọng qua lại, có bao nhiêu đứa trẻ ăn mặc xa hoa, thế mà vẫn còn thấy nhiều đàn bà và trẻ con đói khát, rách rưới! Thực đáng buồn thay! Muốn cho người ta khỏi chê con là một kẻ vô tình thì từ sau, con đừng bước qua một kẻ khó mà không cho gì!(12)
Bài thơ “Cách ăn ở” và “Những đứa trẻ mồ côi” là bài học luân lý về lòng nhân đạo mà học trò bậc tiểu học được học nằm lòng. Khi thấy người hoạn nạn, đau yếu phải giúp đỡ bằng tình thương yêu chân thành. (13)
Cách ăn ở
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.
Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người cô quả cô đơn
Thương người đói rách lẩm than kêu đường.
Thấy ai đói rét thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.
Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây cần kiệm gọi là làm duyên
Nguyễn Trãi
(Gia huấn ca)
Những đứa trẻ mồ côi
Có những con người đang thời hoa nở,
Sống trong niềm đau khổ: kiếp lầm than.
Cặp chân non ngày tháng những lang thang,
Trên đường phố ngút đầy bao gió bụi.
Tuổi niên thiếu dệt trong ngàn sầu tủi,
Không gia đình, cha mẹ, khát tình yêu.
Ôi long đong, thân trẻ nhỏ sớm chiều,
Ngàn cực nhục cũng chỉ vì cơm áo!
Tuổi niên thiếu lớn dần trong khổ não,
Mặt trẻ trung đầy những nét đau thương.
Sống lầm than, dầu dãi nắng mưa sương,
Thân còm cõi không đủ đầy nhựa sống.
Những trẻ ấy dưới bầu trời cao rộng,
Đưa mắt nhìn thèm khát cảnh yên vui.
Có chăng ai, chỉ một phút ngậm ngùi,
Cho thân phận con người xấu số.
Xuân Chính
(Tiểu học nguyệt san, tháng 3/1959)

1.3. Trọng của người

Người lương thiện, có đạo đức là người biết trọng tài sản, của cải của người khác. Tài sản là huyết mạch, liên hệ đến mạng sống của con người. Hãy bình tâm suy nghĩ, chúng ta không muốn ai cướp đoạt tài sản của mình, thì không thể nào chúng ta lại đi chiếm đoạt tài sản, của cải của người khác. Các hành vi bất lương dùng đủ mọi mưu mô, mánh khóe, lường gạt để chiếm đoạt đều là trộm cướp. Người được coi là đạo đức, dĩ nhiên là không trộm cướp, không tán thành và không giúp đỡ những người có hành động trộm cướp.
Của cải của ai, là người ấy có quyền chi dụng và có quyền để lại cho con cháu. Ta không nên phạm đến của cải của người ta. Không phải chỉ những đứa ăn trộm ăn cắp mới là người bất lương mà thôi. Điên đảo giả dối để đánh lừa người ta, đi vay vỗ nợ, bắt được của rơi mà không trả, cũng là bất lương cả.Ta phải biết rằng cái gì đã là không phải của mình thì ta đừng đem lòng tham mà chực lấy không, vì rằng lấy không của người ta, là một sự rất trái với đạo công bằng. (14)

1.4. Không vọng ngữ

Dùng lời lẽ, ngụy biện để làm sai lạc sự thật, nhầm đem lại lợi lộc cho mình, làm hại người khác đều là nói dối, vọng ngữ. Người đạo đức là người tôn trọng sự thật, không có tâm tham ác, không tán thành sự nói dối. Chuyện không nói có, chuyện có nói không, dựa vào những nguồn tin vu vơ để kết tội người khác là vọng ngữ. Trong gia đình và trong xã hội mà con người thiếu lòng tin với nhau thì cuộc sống ấy vô cùng đau khổ. Tuy nhiên cũng có những trường hơp vì mục đích cứu người lương thiện, bất đắc dĩ phải nói lời không thật; đây là một ngoại lệ (một vị bác sĩ phải dùng lời an ủi bịnh nhân).
Không nói dối bao gồm cả không nói lời ác khẩu, nói xấu, nói vu, chửi mắng, nhục mạ xúc phạm đến phẩm giá con người; không dùng lời trao chuốc, phù phiếm nhầm làm cho người khác có suy nghĩ sai lầm, đi đến hành động sai trái.
Sự nói xấu là cái tật cứ đi bới móc chuyện xấu của người ta mà nói. Người nói xấu là có ác ý hoặc để thỏa lòng ghen ghét, hoặc để khoe cái hay và che cái dở của mình. Người nói xấu là người hèn hạ đáng khinh, vì chỉ nói những lúc vắng mặt người ta, để làm cho người ta mất danh giá.
Vậy không những ta không nên nói xấu ai, mà cũng không nên nghe chuyện người ta nói xấu nhau.(15)
Nói vu là đặt chuyện ra mà vu cho ai để hại người ta, hay là làm cho người ta mất danh giá. Những người nói vu là người hèn mạt, bày đặt ra chuyện nọ trò kia để làm cho người ta mang tai mang tiếng, phải những điều oan ức, khó lòng mà rửa sạch được.
Ta đi học, đã biết điều phải trái, thì ta chớ hề nói vu cho ai bao giờ. Ta nên cho những điều ấy là điều hèn mạt, đáng khinh bỉ.(16)
Ngoài ra, chúng ta nên nhớ rằng:
Của cải của người ta, không phải chỉ nói riêng về tiền bạc, ruộng nương, nhà cửa, đồ đạc mà thôi, lại có một thứ của cải quí giá hơn nữa là cái danh giá ở đời. Danh giá tức là danh thơm tiếng tốt của người biết tự trọng mình, biết quí cái tư cách làm người, mà khinh bi những điều hèn mạt đê tiện.Của cải mất đi thì còn làm ra được, chớ cái danh giá đã mất thì khó lòng mà lấy lại được. Thánh nhân dạy rằng “Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác”, nghĩa là người quân tử làm thành tiếng hay cho người, chớ không làm thành tiếng xấu cho ai bao giờ. Vậy bổn phận mình trong xã hội là phải trọng cái danh giá của người ta, đừng có nói xấu ai, nói vu cho ai điều gì.(17)

2. Lòng biết ơn mọi người trong xã hội

Mọi người sống trong xã hội đều có tương quan nhau. Do nương nhờ nhau mà cuộc sống của mỗi cá nhân mới an ổn. Trong gia đình thì cha mẹ, vợ con, anh em nương tựa nhau. Ngoài xã hội, mọi người không thể sống lẻ loi. Tách rời mọi người ra, chúng ta không có cuộc sống an toàn. Cho nên đối với mọi người, chúng ta phải biết ơn, không được làm tổn hại. Câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn,” nói lên tinh thần biết ơn, là truyền thống đạo lý của con người Việt Nam.
Người làm ruộng có trồng trọt cấy cày, thì ta mới có thóc gạo mà ăn. Thợ nề, thợ mộc có làm nhà, thì ta mới có nhà mà ở. Thợ dệt có dệt vải, thợ may có may áo, thì ta mới có đồ mặc vào mình. Quyển sách ta học cũng phải có người làm, người in. Cái đường ta đi cũng phải có người sửa, người quét. Nói tóm lại, nhất thiết một chút gì ta cần dùng đến, cũng là có người chịu khó làm việc mới nên.(18)
Thật vậy, trong xã hội muốn sinh tồn thì mọi người phải có bổn phận đem sức mình giúp vào sự ích lợi chung. Bài “Giấc mộng” dạy học sinh biết yêu mến và nhớ ơn mọi người.
Nằm mộng thấy nông phu lại bảo:
“Ra công làm kiếm gạo từ đây.
Tao thôi chẳng có nuôi mầy,
Phải lo trồng trọt cấy cày cho siêng.”
Người dệt cửi dặn mỉnh làm áo;
Chú thợ hồ lại bảo cầm bay!
Bơ vơ chẳng kẻ đoái hoài,
Tôi mang thơ thẩn đọa này cùng nơi.
Tôi túng thế vái trời cứu thử,
Lại thấy kia sư tử trên đàng!…
Tỉnh ra, thấy sáng, mơ màng!
Tiểu công hút gió, rộn ràng trên thang;
Nghe máy dệt rần rần tiếng chạy;
Ruộng đâu đâu cũng cấy đã xong.
Phận mình nghĩ lại thong dong,
Mới hay dưới thế ai không nhờ người.
Từ ngày rõ cuộc đời đắp đồi,
Cám thương người xã hội như nhau.
Dập dìu kẻ trước người sau,
Sức riêng một ít giúp vào lợi chung.
Nguyễn ngọc Ẩn
(100 Bài Tập đọc, Lớp Nhất và Lớp Nhì)
Bài học “Nên giúp đỡ lẫn nhau” cho thấy hình ảnh hai cậu bé phụ đẩy xe giúp ông lão, là bài học nhắc nhở học sinh về tình tương thân tương ái.
Trời nắng to. Đường thì dốc. Một ông lão đẩy chiếc xe lợn. Trên chiếc xe có có ba bốn con lợn to, chân trói, bụng phơi và mồm kêu eng-éc. Ông lão cố đẩy cái xe, mặt đỏ bừng, mồ hôi chảy, mà xe vẫn không thấy chuyển.
Mấy cậu bé đang chơi trên bờ đê, thấy thế, vội chạy tới, xúm lại, buộc dây vào đầu xe mà kéo hộ.
Xe lên khỏi dốc, ông lão cám ơn các cậu và các cậu cũng lấy làm vui lòng, vì đã giúp được việc cho người.(19)
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, những bậc tiền nhân đã đổ biết bao nhiêu xương máu để vun bồi và tô điểm cho mảnh giang san gấm vóc. Họ là những vị anh hùng dân tộc. Anh hùng, không phải chỉ có những người có chiến công hiển hách, có tài năng nổi bật làm những việc phi thường được ghi công trong sách sử, mà còn biết bao nhiêu người, đủ mọi tầng lớp, mọi giai cấp đã âm thầm cống hiến đời mình cho quê hương dân tộc, không bao giờ được nhắc đến tên tuổi. Họ là:

Anh hùng vô danh
1. Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.
2. Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước,
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu,
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dãy san hà gấm vóc…
3. Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi,
Trong loan ly như giữa lúc thanh bình,
Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh,
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.
4. Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vang, bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên,
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non song,
Và anh hồn cùng với tấm tinh trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt. (20 & phụ lục)
Việt Tâm
(100 Bài tập đọc Lớp Nhất & Lớp Nhì)

3. Tình yêu quê hương đất nước
Tình thương yêu gia đình, cha mẹ anh em và người thân là tình cảm khởi đầu cho tình yêu đồng bào, tình yêu quê hương đất nước.
“…Con sẽ cảm thấy tình yêu nước, khi con ở nước ngoài, và chợt nghe thấy một người trong đám thợ thuyền nói tiếng nước con, theo lòng con xúi dục, tự nhiên con đến hỏi chuyện người bạn không quen ấy. Con sẽ cảm thấy tình yêu nước khi con nghe người ngoại quốc lăng mạ xứ sở con, lòng tức giận sẽ làm cho con nóng mặt…” (21)



Nhằm hun đúc tinh thần yêu nước cho học sinh, đề cao lòng tự hào dân tộc, ca ngợi những chiến công oanh liệt bảo vệ tổ quốc của các bậc tiền nhân, bài thơ sau đây nhắc nhở học sinh chăm chỉ học để sau này nối chí tiền nhân (22 & phụ lục):

Giờ Quốc sử
Những buổi sáng, vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ Quốc sử.
Thầy tôi bảo: “Các em nên nhớ rõ,
Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng thưở trước của giang san,
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các em phải đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này nối được chí tiền nhân.
Ta chắc rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân tộc Việt sẽ là dân hùng liệt.

Cần tây- thần dược mà ít người biết

Cần tây- thần dược mà ít người biết



Chẳng phải tìm đâu xa, cỏ cây hoa lá dùng làm thuốc xung quanh chúng ta. Ngày nay xu hướng không dùng thuốc tây mà thay vào đó là thực phẩm mà chúng ta dùng hàng ngày có thể đẩy lui và phòng bệnh một cách hữu ích.

Không chỉ là một loại rau thực phẩm dùng trong các bữa ăn gia đình, cần tây còn là một vị thuốc giúp chúng ta phòng tránh được nhiều loại bệnh.

1. Xương chắc khoẻ

Trong cần tây có nguồn vitamin K dồi dào, cùng với rất nhiều canxi và magie rất tốt cho hệ xương, giúp xương luôn chắc khoẻ và dẻo dai

2. Giải độc cơ thể

Nhờ đặc tính kháng khuẩn mạnh mà cần tây có thể lọc máu rất tốt. Những người mới ốm dậy nên dùng cần tây để thanh lọc cơ thể, loại bỏ những hợp chất không tốt.

Nước ép cần tây cũng có tác dụng tốt trong việc phòng tránh các bệnh viêm phổi, viêm họng.



3. Giảm huyết áp

Hợp chất apigenin trong cần tây đã được chứng minh có thể ngừa chứng huyết áp cao và giúp giãn nở mạch.

Bên cạnh đó, chất hoá học 3-n-butylphtalide (3nb) còn làm hạ huyết áp, giúp các cơ vùng thành mạch máu hoạt động nhịp nhàng.

Lượng natri và kali tự nhiên trong cần tây rất thích hợp với chế độ ăn ít muối của người bị huyết áp cao.

4. Hỗ trợ người bị thiếu máu

Cần tây cũng rất giàu chất sắt. Do đó, thường xuyên sử dụng cần tây sẽ giúp ngừa bệnh thiếu máu.

Phụ nữ sau sinh hoặc người mới ốm dậy nên ăn nhiều cần tây để bổ sung sắt và tái tạo các tế bào máu cho cơ thể.

5. Ngừa tiểu đường

Bệnh tiểu đường cũng có thể tránh xa nhờ cần tây vì lượng chất xơ trong loại rau này giúp gia tăng tính mẫn cảm của insulin, làm hạ đường huyết, kiểm soát lượng đường trong cơ thể, từ đó ngăn ngừa nguy cơ bệnh tiểu đường.

6. Chống ung thư

Cần tây chứa nhiều chất chống ôxy hóa có khả năng ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư, đặc biệt là ung thư đường ruột.

Nhờ khả năng tăng cường nhu động ruột, cần tây làm giảm sự tiếp xúc của các chất thải độc lên thành ruột, từ đó giúp ngăn ngừa ung thư ruột kết.

7. Giảm béo
Cần tây chứa hợp chất có tác dụng lợi tiểu tự nhiên giúp giảm nước trong cơ thể nên được biết đến từ lâu với tác dụng giảm cân và giảm béo.

Theo Sức khỏe và Đời sống


Trước khi trở thành tổng thống Mỹ, họ đã làm những công việc gì?


Trước khi trở thành tổng thống Mỹ, họ đã làm những công việc gì?


Trước khi trở thành vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, George Washington năm 16 tuổi đã làm nhân viên trắc địa khảo sát thung lũng Shenandoah ở bang Virginia và Tây Virginia. Năm sau, ở tuổi 17, Washington được bổ nhiệm làm cán bộ trắc địa chính thức của Quận Culpeper. Đến năm 21 tuổi, ông đã sở hữu hơn 1.500 mẫu đất.

Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, George Washington.


Trước khi trở thành tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ, Ronald Reagan đã từng làm việc cho một rạp xiếc, và Richard Nixon, tổng thống thứ 37 của Mỹ từng mặc đồ con gà để quảng cáo cho một cửa hàng bán thịt địa phương, theo Business Insider.



Ronald Reagan 

John Adams đã giữ chức hiệu trưởng cho một trường học thuộc thành phố Worcester, bang Massachusetts trước khi trở thành tổng thống thứ 2 của nước Mỹ. Sau một thời gian, ông quyết định trở thành một luật sư, và nghiên cứu về luật trong một văn phòng của James Putnam, một luật sư có tiếng ở Worcester.

Ông John Adams.



Ông Thomas Jefferson đã làm một luật sư trước khi trở thành tổng thổng thứ 3 của Hoa Kỳ. Ông từng xử lý 900 vụ việc với tư cách là luật sư tại Tòa án chung ở Williamsburg. Ông chính là tác giả của Bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ, của Đạo luật Virginia về tự do tín ngưỡng, và là người sáng lập ra đảng Cộng hòa Hoa Kỳ.
Ông Thomas Jefferson.

Andrew Jackson, vị tổng thống thứ 7 của Hoa Kỳ, từng tham gia chiến đấu ở tuổi 13 với nhiệm vụ làm giao liên và bị lính Anh bắt giữ. Khi bị bắt, Jackson đã từ chối khi được yêu cầu đánh giày cho một sĩ quan. Vì việc này mà ông đã bị rạch lên mặt bằng một thanh kiếm, để lại một vết sẹo vĩnh viễn.
Ông Andrew Jackson.
Công việc đầu tiên của Abraham Lincoln là một thư ký trong một cửa hàng tổng hợp tại thị trấn New Salem, Illinois. Thực tế, chính công việc này mang lại lợi thế đưa ông trở thành tổng thống thứ 16 của Mỹ khi giúp ông xây dựng mối quan hệ với hầu hết mọi người trong thị trấn. Ông được biết đến như một người thông minh và thân thiện. 6 tháng sau, ông bắt đầu chiến dịch chính trị đầu tiên, một vị trí trong cơ quan lập pháp bang Illinois. 



    Abraham Lincoln.


Andrew Johnson trước khi trở thành tổng thống thứ 17 của Hoa Kỳ, đã từng làm một thợ may học việc.
Ông Andrew Johnson.


Năm 1888,
Benjamin Harrison được bầu làm tổng thống thứ 23 của Hoa Kỳ. Trước khi trở thành tổng thống, người đàn ông này từng là mõ tòa, làm nhiệm vụ công bố tin tức cho người dân với mức lương 2,5 USD một ngày.Ông Benjamin Harrison.. 

Benjamin Harrison



Herbert Hoover làm việc trong lĩnh vực địa chất và khai thác mỏ trước khi trở thành tổng thống Mỹ thứ 31. Vào cuối những năm 1890, Ông đã khám phá ra những mỏ vàng Tây Úc. Ở tuổi 23, ông được thăng chức làm quản lý mỏ và làm việc trong các mỏ vàng khác nhau đến khi trở thành một nhà tư vấn khai thác độc lập.Ông Herbert Hoover. 

Herbert Hoover 



Khi lên 9,
Lyndon B. Johnson từng đi đánh giày trong suốt kỳ nghỉ hè để kiếm tiền tiêu vặt. Bên cạnh đó, vị tổng thống thứ 36 của Mỹ cũng từng là một người chăn dê trong trang trại của chú ông.Ông Lyndon B. Johnson.. 

Lyndon B. Johnson


Richard Nixon, tổng thống thứ 37 của Mỹ từng mặc đồ con gà để quảng cáo cho một cửa hàng bán thịt địa phương. Sau đó, ông cũng làm công việc của người quay vòng quay may mắn tại gian hàng trò chơi ở lễ hội Slippery Gulch. Nixon chia sẻ đó là công việc yêu thích của ông.



Ông Richard Nixon.



Tổng thống thứ 38 của Hoa Kỳ, Gerald Ford đã từng làm nhân viên kiểm lâm tại Công viên quốc gia Yellowstone. Ông từng chia sẻ đó là “một trong những mùa hè tuyệt vời nhất của cuộc đời tôi”. Nhiệm vụ của ông là làm một bảo vệ có vũ trang trên xe tải chuyên cho gấu ăn.

Ông Gerald Ford.



Ở tuổi 14, Ronald Reagan đã làm việc cho rạp xiếc Ringling Brothers với giá 0,25 đô la một giờ. Một năm sau, ông làm nhân viên cứu hộ ở sông Rock bên ngoài thành phố Dixon, bang Illinois. Ở đó, ông làm việc 12 giờ mỗi ngày. Năm 1981, ông trở thành tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ ở tuổi 69.

Ông Ronald Reagan


Vị tổng thống hiện tại của nước Mỹ, Donald Trump nói với tạp chí Forbes rằng công việc đầu tiên của ông là đi thu gom các chai soda. Ông là một trong những tổng thống giàu có nhất của Mỹ. Theo công bố của tạp chí Forbes ngày 17/10/2017, giá trị tài sản của ông lên đến 3,1 tỷ USD.
Ông Donald Trump.

lundi 30 juillet 2018

Muối rang + gừng = cách tận diệt đau khớp,


https://tokhoe.com/song-khoe/m uoi-rang-gung-cach-tan-diet-da u-khop-dau-den-liet-cung-duoc- tai-sinh-133929..html

Muối rang + gừng = cách tận diệt đau khớp, đau đến liệt cũng được ‘tái sinh’
Bởi Vi Nhi
-15/03/2018


Nhiều người bị đau lưng, đau gối, đau vai hay thoát vị đĩa đệm tưởng chết đi sống lại cũng đều được chữa khỏi nhờ bài thuốc trị đau khớp vừa đơn giản, vừa rẻ tiền này. Tất cả chỉ với muối rang gừng và hành tây thôi các chị ạ!
Mẹ chồng em bị đau đốt sống cổ nặng lắm, chạy xuống làm tê liệt cả tay, chân. Bà thường xuyên mất ngủ, than đau đớn và buồn bực vì tay không cử động được.
Cả nhà cũng lo lắng theo, chồng em hễ nghe ngóng ở đâu có thuốc hay, thầy giỏi là cũng đưa mẹ em đi chữa, mà chẳng có kết quả khả quan. Nhiều đêm thấy bà nhăn nhó, trằn trọc không ngủ nổi vì đau đớn, em cũng xót lắm mà không biết giúp thế nào.
May thay một hôm được chị đồng nghiệp mách cho bài thuốc chữa khớp bằng muối rang, thấy nguyên liệu và cách làm đơn giản quá, em bèn về thử áp dụng ngay cho mẹ chồng. Không ngờ ngay từ lần đầu tiên làm đã thấy bà kêu người sảng khoái hơn hẳn. Kiên trì trong hơn 1 tuần thì triệu chứng đau giảm hẳn, hơn 1 tháng sau thì tay bà hết tê, có thể cử động thoải mái.




Thấy hiệu quả thật sự nên em chia sẻ lên đây, mẹ nào bị đau khớp hoặc có người thân bị thì làm thử ngay nhé, đơn giản lắm ạ!
Cách làm bài thuốc chữa đau khớp với muối rang

Chuẩn bị:
– 1 chiếc túi vải
– Nửa cân muối hạt
– Gừng và hành tây

Muối hạt rang nóng có tác dụng chữa đau khớp rất hiệu quả (Ảnh minh họa)

Cách làm:

– Rang nửa cân muối hạt trong khoảng 10 phút đến khi nóng già rồi đổ vào túi vải. Muối nên chứa khoảng 2/3 diện tích, có thể di chuyển.
– Cắt thêm vài lát gừng và hành tây cho vào trong túi vải cùng muối rang.
– Đắp túi muối rang còn nóng lên vùng khớp bị đau, lật qua lật lại.
– Khi muối nguội, lại đổ ra rang lại cho nóng rồi tiếp tục đắp lên phần khớp bị đau.
Muối có thể tái sử dụng nhiều lần cho đến khi bị rang cháy đen, còn gừng và hành tây thì thay mới trong mỗi lần trườm.
Lưu ý là muối rang rất nóng, bạn nên dùng nhiều lớp vải khác để lót lên phần khớp định trườm, muối nguội đến đâu thì tháo lớp lót ra dần đến đó. Nếu có lò vi sóng, bạn cũng có thể làm nóng muối bằng lò vi sóng thay vì rang trên bếp.
Bài thuốc nên thực hiện mỗi ngày một lần, liên tục trườm muối rang cho đến khi dấu hiệu đau giảm hẳn thì có thể giảm tần suất trườm muối.

Muối có thể tái sử dụng nhiều lần cho đến khi bị rang cháy đen (Ảnh minh họa)

2. Công dụng của muối trong việc chữa đau khớp
Muối là một loại gia vị quen thuộc trong căn bếp của mỗi gia đình, nhưng muối cũng là vị thuốc giúp chữa bệnh viêm khớp, tràn dịch khớp rất hiệu quả. Muối rất hút nước khi có độ ẩm. Nhưng khi rang giòn thì tính chất hút nước sẽ không còn.
Trong Ðông y, muối vào 3 kinh thận, tâm, vị. Tác dụng tả hỏa, thanh tâm lượng huyết, nhuận táo, dẫn các thuốc vào kinh lạc làm chất gây nôn, chữa viêm họng, đau răng, rửa vết bỏng…
Muối cũng có tác dụng tốt với các loại bệnh đau nhức khớp đầu ngón bàn tay, bàn chân, các dạng thấp, ra mồ hôi tay, viêm dây thần kinh ngoại vi…Tác dụng theo cơ chế “Nóng giãn, lạnh co cục bộ”. Vì trong thành phần có các muối, các cation (dương) và nation (âm) giúp cân bằng sự sống của cơ thể. Khi chườm muối rang trộn với gừng để điều trị đau lưng cấp hoặc khi rang muối bỏ vào túi vải thô chườm vùng rốn để điều trị đau bụng cấp…, muối sẽ hoạt động theo cơ chế trao đổi các cation và nation như một chất điện phân..
Theo phương pháp điều trị y học cổ truyền, khi cho các bệnh nhân ngâm vùng khớp bị đau trong muối sống với nước, tất cả đều cho biết có cảm giác dễ chịu, thoải mái. Với những vùng không thể ngâm nước, có thể điều trị với muối khô bằng cách rang nóng trộn với lá trảy, ngải cứu, gừng, lá náng trắng hoặc hành tây gói vào giấy báo hoặc túi vải đắp lên vùng đau.
Ðây là một phương pháp điều trị đơn giản, dễ làm lại không tốn kém, ai cũng có thể làm tại nhà.
Theo WTT
TPhước chuyển