“Không có bản quyền nào cả. Ai lại đi giữ bản quyền của Mặt Trời chứ?”
Câu nói nổi tiếng trên là của Jonas Salk- vị bác sĩ đã từ chối 7 tỷ USD từ tiền đăng ký bằng sáng chế độc quyền, để vắc xin phòng virus bại liệt được cung cấp cho cả thế giới.
Ít người từng biết rằng, mùa Hè của những năm đầu thế kỷ 20 được cho là thời điểm đáng sợ đối với trẻ em toàn thế giới. Một loại virus bí ẩn lây lan và tấn công chủ yếu vào trẻ em, khiến nạn nhân nằm bất động và thậm chí không thể đi lại suốt đời.
Đó là virus bại liệt – loại virus tấn công vào hệ thần kinh trung ương, dẫn đến mất cảm giác và không thể điều khiển các bộ phận của cơ thể. Đầu những năm 1950, chỉ tính riêng nước Mỹ đã có khoảng 50.000 ca nhiễm virus bại liệt mỗi năm.
Franklin D. Roosevelt – một trong những Tổng thống vĩ đại nhất của Mỹ, đã trở thành nạn nhân của bệnh bại liệt vào năm 39 tuổi. Ông Roosevelt bị liệt từ thắt lưng trở xuống và phải sử dụng xe lăn suốt quãng đời còn lại.
Vì không muốn người khác cũng có thể rơi vào hoàn cảnh như mình, Tổng thống Roosevelt đã thành lập một quỹ tài chính quốc gia cho trẻ em bị bại liệt. Quỹ này cung cấp tiền tài trợ cho tất cả những nghiên cứu về bệnh bại liệt tại Mỹ, trong đó có cả nghiên cứu vắc xin chống bại liệt của một vị bác sĩ huyền thoại - Jonas Salk.
Jonas Salk (1914 – 1995), là một chuyên gia y tế và bác sĩ người Mỹ gốc Do Thái. Jonas Salk sinh ra tại thành phố New York. Do bố mẹ là người Do Thái nhập cư nên cuộc sống từ nhỏ của ông rất khó khăn. Tuy nhiên, bố mẹ của Jonas Salk đặc biệt quan tâm đến vai trò của tri thức nên ông được cho ăn học đầy đủ.
Ở tuổi 13, Jonas Salk được vào học tại Townsend Harris High School, một trường công lập dành cho những học sinh tài năng.
Ban đầu, Jonas Salk muốn theo học ngành luật nhưng sau đó ông lại đổi sang lĩnh vực y học. Năm 19 tuổi, ông đăng ký vào Đại học Y New York và nhận bằng bác sĩ y khoa vào năm 25 tuổi.
Jonas Salk đã tiến hành những nghiên cứu về virus bại liệt từ khi còn là sinh viên y khoa. Năm 1947, ông đảm nhiệm vị trí trưởng phòng nghiên cứu tại Đại học Pittsburgh (Mỹ). Năm 1948, ông nhận được tiền tại trợ của quỹ do Tổng thống Roosevelt sáng lập và đẩy mạnh nghiên cứu vắc xin chống bại liệt.
Hướng đi của Jonas Salk rất khác so với những nhà nghiên cứu vắc xin đương thời. Trong khi hầu hết các nhà khoa học cho rằng, vắc xin chỉ có hiệu quả khi sử dụng virus còn khả năng hoạt động, Jonas Salk đã nghiên cứu vắc xin bại liệt theo cách nuôi cấy virus và thêm vào hợp chất formaldehyd khiến chúng không thể sinh sản.
Năm 1952, Jonas Salk thử nghiệm vắc xin bại liệt trên cơ thể của chính mình, vợ và các con. Mọi thử nghiệm vắc xin nhỏ của ông đều thành công.
Mùa hè năm 1954, Mỹ tiến hành “đại thử nghiệm” vắc xin phòng bại liệt của Jonas Salk với sự tham gia của 20.000 bác sĩ và nhân viên sức khỏe công cộng cùng 64.000 cán bộ trường học, 220.000 tình nguyện viên
Hơn 1,8 triệu trẻ em Mỹ, Canada, Phần Lan từ 6 – 9 tuổi cũng tham gia và đây được xem là cuộc thử nghiệm vắc xin có quy mô lớn, phức tạp nhất lịch sử y học thế giới.
Ngày 12.4.1955, thử nghiệm vắc xin kết thúc thành công. Vắc xin của Jonas Salk được chứng minh là an toàn, hiệu quả trong phòng chống bại liệt.
Ngày công bố vắc xin chống bại liệt thành công cũng trở thành một ngày lễ lớn của nước Mỹ, Jonas Salk được ca ngợi và gọi với biệt danh “người tạo ra phép lạ”.
Tuy nhiên, bác sĩ Jonas Salk không chỉ khiến mọi người khâm phục về tài năng mà còn cả về nhân cách cao đẹp của mình.
Jonas Salk đã không đăng ký bằng sáng chế cho vắc xin chống bại liệt mặc dù không ít người khuyên ông làm điều đó. Theo tạp chí Forbes, việc từ chối đăng ký sáng chế độc quyền cho vắc xin bại liệt đã khiến Jonas Salk không thể đem về cho bản thân 7 tỷ USD
Khi được hỏi về nguyên nhân vì sao không đăng ký sáng chế, bác sĩ Jonas Salk chỉ trả lời: “Không có bản quyền nào cả. Ai lại đi giữ bản quyền của mặt trời chứ?”.
Hành động cao cả của ông đã giúp cho hàng triệu người có thể tiếp cận vắc xin và thoát khỏi căn bệnh quái ác. Nhiều người cho rằng, nếu không có nghiên cứu vắc xin của Jonas Salk, virus bại liệt có thể đã trở thành đại dịch toàn cầu.
Năm 1963, Jonas Salk thành lập Viện nghiên cứu sinh học Salk. Ông đã dành cả cuộc đời còn lại của mình miệt mài nghiên cứu phương pháp điều trị cho những căn bệnh khác như ung thư, đa xơ cứng, HIV… Năm 1977, Jonas Salk đã được trao huân chương Tự do của Tổng thống Mỹ.
Năm 1995, Jonas Salk qua đời tại nhà riêng. Ông được cả thế giới tôn trọng và ngưỡng mộ dù là vị bác sĩ không có bằng sáng chế nào.
Nam danh ca Pháp Christophe, tác giả của những ca khúc bất hủ « Aline » hay « Les mots bleus » vừa qua đời đêm qua, 16/04/2020, thọ 74 tuổi, theo thông báo của gia đình với hãng tin AFP. Bà Véronique Bevilacqua, vợ của Christophe, cho biết ông qua đời vì bệnh khí thủng (emphysème) một căn bệnh về phổi.
Ngay khi có tin Christophe phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch, giới nghệ sĩ ở Pháp đã bày tỏ xúc động, chúc ông chóng bình phục, trong đó có Michel Ponareff, một trong những nam danh ca cùng thời yéyé với ông. Mặc dù các bác sĩ đã tận tình cứu chữa, những lời chúc đã không trở thành hiện thực. Christophe đã không đủ sức để chống chọi với cơn bạo bệnh. Sinh năm 1945, Christophe, tên thật là Daniel Bevilacqua, xuất thân từ một gia đình người Ý nhập cư vào Pháp. Nổi danh từ thập niên 1960, Christophe đã nhanh chóng thoát ra khỏi hình ảnh của một thần tượng thời sixties, để đi theo con đường âm nhạc của riêng ông. Mê điện ảnh, mê sưu tập dĩa, chuyên sống về đêm, Christophe còn nổi tiếng là một nghệ sĩ rất cầu toàn và cũng cởi mở với những xu hướng nghệ thuật mới, luôn luôn canh tân âm nhạc của ông. Nhạc của Christophe cho tới nay vẫn không bị lỗi thời, bằng chứng là hai album mới nhất của ông ra năm ngoái, "Christophe, etc", vol 1 và vol 2, đã được công chúng tán thưởng nồng nhiệt, nhất là vì trong đó Christophe song ca với các ca sĩ đủ mọi thế hệ để trình bày lại các ca khúc tiêu biểu của ông. Trước khi bệnh trở nặng phải nhập viện, dù đã ở tuổi 74, Christophe đã dự kiến tiếp tục lưu diễn tại Pháp, nhưng do tình hình dịch Covid-19, ông đã phải dời lại các buổi biểu diễn. Nhạc sĩ Jean-Michel Jarre, người viết lời hai ca khúc « Les Mots Bleus » và « Paradis Perdus » cho Christophe, ca ngợi ông là « một trong những ca sĩ lớn nhất của Pháp. Đối với Jean-Michel Jarrre, Christophe còn hơn là một nhạc sĩ, mà là một người thợ may của âm nhạc. Đó là một nhân vật có một không hai » Trên mạng Twitter, bộ trưởng Văn Hóa Pháp Franck Riester viết : « Với sự ra đi của Christophe, âm nhạc Pháp mất đi một phần tâm hồn của mình ».
Thanh Phương
*
Christophe : qui sont les femmes qui ont partagé sa vie ?
(Christophe và những người đàn bà đã đi qua đời ông)
Tưởng nhớ danh ca Christophe vừa qua đời: Ai là nàng Aline thật sự của Christophe?
Mùa hè năm 1965, ca khúc “Aline” trở thành bản “Slow mùa hạ” nổi tiếng nhất ở Pháp. Tới tháng 9 năm ấy, tạp chí Paris Match đã tìm ra nàng Aline thật sự của Christophe. Đó là cô trợ lý xinh đẹp của nha sĩ mà chàng ca sĩ từng gặp ở một phòng khám răng…
Christophe ngồi đán hát ở nhà, vào tháng 11 năm 1963, trước khi sáng tác ca khúc “Aline” vào năm sau (Paris Match).
Nếu sinh con gái, hãy đặt tên Aline… Họ là bốn đứa con trai của bốn người mẹ khác nhau, sống ở bốn thành phố khác nhau tại châu Âu: Frankfurt, Paris, London và Barcelona. Không ai trong số họ biết về sự tồn tại của những người khác, dù họ cùng có chung một người cha, làm tài xế xe tải. Người đó đã bỏ rơi họ khi họ còn nhỏ. Rồi một hôm, cái người cha mà họ không bao giờ được nghe nhắc tới đó lại được cảnh sát tìm kiếm…
Người ta tin rằng chẳng làm gì có cô nàng Aline trong bản tình ca mùa hạ nổi tiếng nhất năm 1965. Không phải vậy, vì nàng Aline đây rồi: nàng cùng ca sĩ Christophe ra chơi ngoài bãi biển Juan-les-Pins (Paris Match).
Đó là câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết “Hành lý thất lạc” (“Maletes perdudes”, trong tiếng Catalan, xuất bản lần đầu vào năm 2010), được nhà văn Jordi Punti viết như… bốn tác giả khác nhau, kể về bốn nhân vật hoàn toàn khác nhau, rất ... lạ.
Ca sĩ Christophe và nàng Aline thật sự - người đã truyền cảm hứng cho bài hát cùng tên, trên bãi biển ở Juan-les-Pins, hồi tháng 9 năm 1965 (Paris Match).
Điều lạ ấy càng thú vị hơn, vì cả bốn gã đàn ông cùng cha khác mẹ đó có chung… một cái tên, chỉ khác nhau theo cách gọi của từng nước: Christof, Christophe, Christopher, và Cristòfol. Rõ ràng cha của họ luôn bị ám ảnh với cái tên Christophe.
Ca sĩ Christophe và nàng Aline thật sự - người đã truyền cảm hứng cho bài hát cùng tên, trên bãi biển Juan-les-Pins (Paris Match).
Ở trang 199 của “Hành lý thất lạc” (bản tiếng Anh, nhà xuất bản Simon & Schuster, 2013) có đoạn: Trong lúc diễn ra cuộc biểu tình của sinh viên ở Paris, ông tài xế xe tải ấy đang nghe một bài hát trên radio thì cô bạn gái báo rằng cô đã có thai.
Ca sĩ Christophe và nàng Aline thật sự - người đã truyền cảm hứng cho bài hát cùng tên, trên bãi biển Juan-les-Pins (Paris Match).
Ông ta gợi ý: Nếu sinh con gái thì đặt tên là… “Aline”. Người phụ nữ hỏi vặn: Nếu là con trai thì sao? Ông ta đáp: Hãy đặt tên nó là… “Christophe”! Té ra cái ông tài xế Gabriel ấy, mà thật ra là chính nhà văn Jordi Punti, đã bị ca khúc “Aline” của danh ca Pháp Christophe “hớp hồn” từ bấy nay! Aline, cái tên nghe hay quá! Ca sĩ Christophe đã sáng tác bài “Aline” trong một… bữa ăn trưa với bà của anh, vào năm 1964. Nửa thế kỷ sau, hôm 12-4-2014, Christophe kể với báo Le Point về khoảnh khắc sáng tác bài ca bất hủ ấy: “Giữa 12g và 12g15 buổi trưa. Một khoảnh khắc nghỉ ngơi và im lặng, kèm theo một số hợp âm guitar.”
Ca sĩ Christophe gảy đàn và hát cho nàng Aline thật sự - người đã truyền cảm hứng cho bài hát cùng tên, trên bãi biển Juan-les-Pins (Paris Match).
Tuy vậy, Christophe vẫn chưa đặt được một cái tựa ưng ý cho bài hát vừa sáng tác. Một hôm, khi tới một nha sĩ để khám răng, anh đã gặp cô trợ lý xinh đẹp của nha sĩ, và hỏi tên cô là gì. Cô trả lời: “Aline”. Christophe rất thích… âm thanh từ cái tên ấy, và quyết định dùng nó làm tựa cho bài hát mới.
Một góc chụp nàng Aline thật sự và Christophe trên bãi biển Juan-les-Pins, gợi lại những lời đầu tiên trong ca khúc “Aline”: Tôi đã vẽ trên cát / Khuôn mặt nàng dịu dàng / Mỉm cười với tôi… (Paris Match).
Tháng 7 năm 1965, hãng Disc'AZ phát hành ca khúc "Aline" của Christophe. Đây là dĩa thu âm (dĩa nhựa 45 tours) thứ hai, song lại là thành công lớn đầu tiên của chàng, bán được hơn một triệu bản trên toàn cầu, bao gồm hơn 400.000 bản tại Pháp, ngay trong năm phát hành đầu tiên. Tinh tới nay, dĩa đơn “Aline” đã bán được tổng cộng ba triệu rưỡi bản trên toàn thế giới.
Ca sĩ Christophe và nàng Aline thật sự - người đã truyền cảm hứng cho bài hát cùng tên, trên bãi biển Juan-les-Pins (Paris Match).
Trước đó, dĩa đầu tiên "Elle s'appelait Sophie" (Cô nàng tên Sophie) của Christophe chỉ bán được vỏn vẹn… 27 bản. Rõ ràng “Aline” ăn đứt “Sophie” rồi! Báo Le Point viết: Ca khúc “Aline” đã đưa một ca sĩ vô danh, người Pháp gốc Ý, vụt trở thành một ngôi sao sáng. Năm đó, chàng mới 20 tuổi. Cái tên thật Daniel Bevilacqua của chàng đã nhường hẳn “sàn diễn” cho nghệ danh Christophe – danh ca Christophe, một huyền thoại.
Ca sĩ Christophe và nàng Aline thật sự - người đã truyền cảm hứng cho bài hát cùng tên, trên bãi biển Juan-les-Pins (Paris Match).
Vào tháng 9 năm 1965, tạp chí Paris Match rốt cuộc đã tìm được nàng "Aline" nổi tiếng của Christophe. Sau đó, Paris Match đã tổ chức một buổi chụp hình cuộc gặp gỡ giữa ca sĩ và người đẹp đã truyền cảm hứng cho bản hit đầu tiên của chàng, nơi bãi biển Juan-les-Pins, thuộc Alpes-Maritimes, bên bờ Địa Trung Hải. Một bãi biển đúng thiệt là khung cảnh lý tưởng để gợi lại… không khí trong bài “Aline”: chàng trai vẽ chân dung người yêu trên cát. rồi mưa và giông bão xoá đi,…
Nàng Aline có khuôn mặt dịu dàng, mái tóc vàng óng như nắng hạ. Năm đó, nàng 22 tuổi, chia sẻ một căn hộ nhỏ ở quận 15, thủ đô Paris, với Danièle - một cô bạn cùng tuổi (Paris Match).
Phóng sự ảnh về nàng Aline của Christophe được đăng trên Paris Match số 861, ra ngày 9-10-1965. Nay, để tưởng niệm danh ca Christophe vừa qua đời, Paris Match vừa đăng lại loạt hình kỷ niệm để đời này.
Nàng Aline lúc ấy làm việc ở một phòng khám răng, nơi cháng trai tuổi 20 tới thăm ông nha sĩ, và… đùng một cái chàng chọn ngay tên nàng làm tựa một bài hát đang chờ đặt tên (Paris Match).
Đáng chú ý là mãi tới tận năm ngoài, họ tên đầy đủ của cô trợ lý Aline xinh đẹp nơi phòng khám răng nọ mới được bật mí, trong cuốn sách “50 năm ca khúc Pháp (1960 -2010)” của tác giả Daniel Ichbiah. Tên của nàng là Aline Latanowicz.
Ca sĩ Christophe hồi năm 1966, bên chiếc xe Ford Mustang vừa sắm, sau thành công vang dội của bản hít đầu tiên “Aline” (Paris Match).
Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã có lần kể lại như sau:
Một hôm, có một cô thiếu nữ đã tìm đến Ấn Ðộ để xin gia nhập dòng Thừa Sai Bác Ái của chúng tôi.
Chúng tôi có một quy luật, theo đó, ngày đầu tiên khi mới đến, tất cả những ai muốn sống với chúng tôi, cũng đều được mời sang nhà hấp hối, tức là nhà đón tiếp những người sắp chết. Do đó, tôi đã nói với thiếu nữ đó như sau:
"Con đã nhìn thấy vị linh mục dâng Thánh lễ. Con đã thấy Ngài sờ đến Thánh Thể với chăm chú và yêu thương là dường nào. Con cũng hãy đi và làm như thế tại nhà Hấp Hối, bởi vì con sẽ thấy Chúa Giêsu trong suốt ba tiếng đồng hồ". Tôi mới hỏi lại sự thể đã diễn ra như thế nào, cô ta đáp như sau: "Con vừa đến nhà Hấp Hối thì người ta mang đến một người vừa té xuống một hố sâu. Mình mẩy của người đó đầy những vết thương và bùn nhơ hôi thối... Con đã đến và đã tắm rửa cho anh ta. Con biết rằng làm như thế là chạm đến Thân Thể của Ðức Kitô".
Có lẽ chúng ta nên tự vấn: chúng ta có tin rằng, tất cả mọi cuộc gặp gỡ với tha nhân đều là một cuộc gặp gỡ với Chúa không? Ðức tin của chúng ta có được diễn đạt qua cuộc sống hằng ngày không? Thánh lễ mà chúng ta tham dự mỗi ngày có được tiếp tục trong cuộc sống hằng ngày không?
Thánh Thể là trung tâm của đời sống Kitô, bởi vì Kitô giáo thiết yếu là một sức sống. Người Kitô đến bàn tiệc Thánh Thể để tiếp nhận sự sống và năng lực cho mọi hoạt động của mình.
Là trung tâm của cuộc sống, Thánh Thể được cử hành với đầy đủ ý nghĩa nếu việc cử hành đó gắn liền với cuộc sống. Cắt đứt liên lạc với cuộc sống, tất cả mọi cử hành chỉ còn là những động tác lãng mạn, viển vông.
Do đó, người Kitô sẽ mang đến bàn thờ tất cả cuộc sống của mình và múc lấy từ bàn thờ sức sống mới cho cuộc sống của họ. Hay nói cách khác, Thánh thể là một thu gọn của cuộc sống hằng ngày và cuộc sống hằng ngày là một tiếp nối của Thánh Thể. Ðức Kitô không những chỉ muốn chúng ta gặp gỡ nhau trong Thánh Thể và gặp gỡ Ngài trong lúc cử hành, Ngài còn muốn chúng ta gặp gỡ với Ngài qua tất cả mọi sinh hoạt và gặp gỡ khác trong cuộc sống.
Bàn thờ trong giáo đường và bàn thờ của cuộc sống phải là một. Ðức tin của chúng ta không chỉ thể hiện trong nhà thờ, nhưng còn phải được tuyên xưng giữa phố chợ. Từng giây từng phút của chúng ta phải trở thành một cuộc gặp gỡ với Chúa. Từng cuộc gặp gỡ với tha nhân, nhất là những người hèn kém nhất, phải là một gặp gỡ với Ðức Kitô.
Ngày 1 tháng 10 năm 2010, Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình đã ra thông báo về Án phong chân phước cho ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Thông báo viết: “Ngày 22 tháng 10 tới, tức 3 năm sau khi loan báo việc mở Án phong chân phước, sẽ có Phiên Họp Trọng Thể mở cuộc điều tra ở cấp giáo phận về đời sống, các nhân đức và đời sống thánh thiện của Vị Tôi Tớ Chúa ĐHY Việt Nam Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, người đã là Phó Chủ Tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình từ năm 1994 và là Chủ tịch Ủy Ban này từ ngày 24 tháng 6 năm 1998 đến ngày 16 tháng 9 năm 2002”.
Theo Thông báo của Tòa Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh về việc Điều tra Án phong chân phước và phong thánh cho Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, do Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn ký ngày 1 tháng 1 năm 2012, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về cuộc đời của Vị Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Thời thơ ấu
Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sinh ngày 17 tháng 4 năm 1928, tại Phủ Cam, thuộc Tổng Giáo phận Huế. Là anh cả trong một gia đình có 8 anh chị em: 3 trai và 5 gái. Thân phụ của ngài là Cụ cố Tađêô Nguyễn Văn Ấm[1] và thân mẫu, Bà Cố Elisabeth Ngô Ðình Thị Hiệp. Đây là một gia đình có truyền thống Công giáo lâu đời, tổ tiên của ngài từng chịu bách hại vì đạo.[2]
Từ thuở nhỏ, cậu bé Phanxicô Xaviê Thuận được giáo dục trong một gia đình đạo hạnh với gương nhân đức, thánh thiện của bà mẹ Elisabeth. Hằng đêm, bà dạy cho con cái đọc kinh gia đình, kể cho cậu nghe những chuyện tích Kinh Thánh và lịch sử các Thánh Tử đạo Việt Nam, đặc biệt, về tổ tiên của dòng tộc; Bà dạy cho các con sống theo gương sáng của Thánh Nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu: yêu thương mọi người và trau dồi lòng yêu mến Tổ Quốc Việt Nam. Chính nhờ đó, Cậu Thuận có được ước muốn dâng mình cho Chúa từ rất sớm.
Chủng sinh – Linh mục
Năm lên 12 tuổi, tức vào tháng 08 năm 1940, cậu Phanxicô Xaviê Thuận gia nhập Tiểu chủng viện An Ninh, tại Cửa Tùng, Quảng Trị; Sau đó, theo học triết và thần học tại Đại chủng viện Kim Long, Huế.
Ngày 11 tháng 6 năm 1953, thầy Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được thụ phong linh mục tại Nhà thờ Chính tòa Phủ Cam, do Đức cha Jean Baptiste Urrutia (tên Việt là Thi, thuộc MEP), Giám mục Đại diện Tông Tòa Huế.
Sau khi được chịu chức, Tân linh mục Phanxicô Xaviê được cử đến Giáo xứ Tam Tòa, Đồng Hới, làm phụ tá cho cha Đaminh Hoàng Văn Tâm. Sau đó, cha được chuyển đến Giáo xứ Phanxicô Xaviê – Huế, làm phụ tá cho Cha Richard Barbon, tên Việt là Triết. Cha Phanxicô Xaviê cũng là Tuyên úy của trường Bình Linh, Bệnh viện trung ương Huế và Lao xá Thừa Thiên.
Từ năm 1956-1959, ngài được gửi đi du học tại Phân khoa Giáo luật thuộc Ðại học Giáo hoàng Urbaniana, Rôma. Ngài hoàn thành việc học với văn bằng tiến sĩ Giáo luật qua việc bảo vệ xuất sắc luận án: “Studium comparativum de organisatione capellanorum militum in mondo”.
Trở về nước, Cha Phanxicô Thuận được cử làm giáo sư Tiểu Chủng viện; Từ năm 1962, ngài làm Giám đốc Tiểu chủng viện Hoan Thiện; Năm 1964, khi mới 36 tuổi, ngài được đề cử làm Tổng Đại diện Tổng Giáo phận Huế cho đến năm 1967.
III. Giám mục và Hồng Y
Ngày 13 tháng 4 năm 1967 Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được ÐGH Phaolô VI bổ nhiệm làm Giám mục Việt Nam tiên khởi của Giáo phận Nha Trang, thay thế Ðức Cha Paul Marcel Piquet, (tên Việt là Lợi, MEP). Ngày 24 tháng 6 năm 1967, nhằm lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, ngài được tấn phong bởi Đức Khâm sứ Tòa Thánh Angelo Palmas, cùng với hai Đức cha Philipphê Nguyễn kim Điền và Jean Baptiste Urrutia (Thi) là phụ phong. Khẩu hiệu của Ðức Tân Giám mục Phanxicô Xaviê là: “Gaudium et Spes” (Vui Mừng và Hy vọng), tên của Hiến chế Mục vụ của Công đồng Vaticanô II.
Ngày mùng 10 tháng 7 năm 1967, Ðức Cha về nhận Giáo phận Nha Trang. Trong 8 năm làm giám mục Nha Trang, Đức cha Phanxicô Xaviê rất thành công trong việc phát triển Giáo phận,[3] ngài chú trọng việc đào tạo nhân sự, gia tăng con số các Đại chủng sinh từ 42 lên 147, số Tiểu chủng sinh cũng gia tăng từ 200 lên đến 500 chú, được học trong 4 Tiểu chủng viện. Ngài lo tổ chức các khóa thường huấn linh mục cho cả 6 giáo phận thuộc Giáo tỉnh Huế; thành lập và phát triển các hội đoàn giáo dân, phong trào Công Giáo tiến hành như: Phong trào Công lý và Hòa bình, Cursillos, Focolare, Hướng đạo, Cộng đoàn La vang, Tu hội Hy Vọng. Ngài đã cho phổ biến nhiều thư luân lưu với các chủ đề: Tỉnh thức và cầu nguyện vào năm 1968; Vững mạnh trong Ðức tin để Tiến bước trong An bình, năm 1969; Công lý và Hòa bình, năm 1970; Sứ vụ Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta, năm 1971; Kỷ niệm 300 năm vào năm 1971; Năm Thánh Canh tân và Hòa giải, năm 1973.
Tham gia Hội Ðồng Giám Mục Miền Nam Việt Nam, ngài đảm nhận những nhiệm vụ: Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình; Chủ tịch Ủy Ban Truyền thông xã hội; Chủ tịch Ủy Ban Phát triển Việt Nam; Phụ trách Ủy ban Di dân; Cộng tác trong việc thành lập Ðài Phát thanh Chân Lý Á Châu. Từ năm 1971-1975, ngài được chọn làm Cố vấn Hội Ðồng Giáo hoàng về Giáo dân; Ngài cũng được bổ nhiệm làm Cố vấn và thành viên của Thánh Bộ Truyền giáo; Thành viên của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích.
Ngày 24 tháng 4 năm 1975, ÐGH Phaolô VI đã bổ nhiệm Đức cha Phanxicô Xaviê làm Tổng Giám mục Phó Tổng Giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị, Hiệu tòa Vadesi. Vâng lời Đức Thánh Cha, ngày mùng 7 tháng 5 năm 1975, Đức Tân Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê rời Giáo phận Nha Trang, đến nhận nhiệm vụ mới tại Sài Gòn. Nhưng ngài đã bị ngăn trở và không thể thi hành nhiệm vụ được Tòa Thánh trao phó cho đến khi ngài chính thức từ chức Tổng Giám mục Sài Gòn vào ngày 24 tháng 11 năm 1994. Trước đó, vào ngày mùng 9 tháng 4 năm 1994, ĐGH Gioan-Phaolô II đã bổ nhiệm ĐTGM Phanxicô Xaviê vào chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công Lý và Hòa Bình. Ngày 24 tháng 6 năm 1998, ngài được Đức Gioan-Phaolô II bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình, thay thế Đức Hồng Y Roger Etchegaray.
Trong suốt thời gian bị “Cản Tòa” từ năm 1975 đến năm 1994, ĐTGM Phanxicô Xaviê đã phải trải qua 13 năm bị giam cầm. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Vị Mục tử của Tổng Giáo phận Sài Gòn bị bắt cho đến ngày 21 tháng 11 năm 1988, nhằm lễ Đức Mẹ Dâng Mình trong Đền Thờ, ngài mới được ra khỏi nhà tù, nhưng vẫn bị quản chế tại Hà Nội. Chính trong thời gian bị giam cầm, ngài đã biên soạn quyển sách rất nổi tiếng, sách: “Đường Hy Vọng”, tác phẩm được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Ngày 21 tháng 9 năm 1991, ĐTGM Phanxicô Xaviê rời Việt Nam và không bao giờ quay trở lại quê hương. Ngày 21 tháng 2 năm 2001, ngài được vinh thăng Hồng Y, tước phẩm Hồng Y Phó tế, hiệu tòa Nhà thờ Santa Maria della Scala.[4]
Trước đó, vào Mùa Chay Năm Thánh 2000, năm bắt đầu Thiên niên kỷ thứ III, Ðức Gioan-Phaolô II đã mời ĐTGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng Tĩnh tâm cho Giáo triều Rôma, Đức Giáo hoàng nói: “Năm đầu tiên của Ngàn Năm thứ ba, một người Việt Nam sẽ giảng tuần Tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma”.[5]
Ngày 11 tháng 5 năm 1996, ĐTGM Phanxicô Xaviê được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Ðại học Dòng Tên tại New Orleans, LA, Hoa Kỳ. Ngài cũng được tặng thưởng nhiều huân chương do bởi đời sống chứng tá và các hoạt động xây dựng công lý và hòa bình: ngày mùng 9 tháng 6 năm 1999, tại Tòa Đại sứ Pháp bên cạnh Tòa Thánh, Chính phủ Pháp đã trao tặng Ngài huy chương “Commandeur de l’Ordre National du Mérite”; Ngày 12 tháng 12 năm 2000, tại Tòa Thị chính Rôma, Hiệp hội “Cùng nhau xây dựng hòa bình” đã trao tặng Huy chương vinh danh ngài; Ngày 20 tháng 10 năm 2001, tại Torino, ngài được trao tặng Huy Chương Hòa bình do tổ chức SERMIG – Hiệp hội Truyền giáo của giới trẻ; Ngày 9 tháng 12 năm 2001, Trung tâm Nghiên cứu G. Donati cũng đã trao tặng ngài Giải thưởng Hòa bình năm 2001.
Sau cuộc hành trình trần thế, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã được Chúa gọi về với Ngài vào lúc 6 giờ chiều ngày 16 tháng 09 năm 2002, hưởng thọ 74 tuổi. Thánh lễ an táng Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê được ĐGH Gioan-Phaolô II cử hành trọng thể vào chiều ngày 20 tháng 9 năm 2002.
Thay lời kết
Vào chiều ngày 20 tháng 9 năm 2002, ĐGH Gioan-Phaolô II đã chủ sự thánh lễ an táng cho Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Trong bài giảng Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã nói: “Trong lúc chào vĩnh biệt Người Sứ giả anh hùng của Tin Mừng Chúa Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta, nơi con người của Đức Hồng y, một tấm gương sáng ngời về đời sống tín hữu Kitô, phù hợp với đức tin, đến độ tử đạo. […] ngài (Đức Hồng Y Thuận) đã hiểu nền tảng của đời sống Kitô hữu là “chọn một mình Chúa mà thôi” như các vị tử đạo Việt Nam đã làm trong những thế kỷ trước. Chúng ta được mời gọi rao giảng cho tất cả mọi người “Tin Mừng Hy Vọng” và Đức Hồng Y giải thích rằng: chúng ta chỉ có thể chu toàn Ơn Gọi ấy với sự hy sinh quyết liệt, dù phải chịu những thử thách cam go nhất. […] Đây không phải là sự anh hùng, nhưng là sự trung thành chín chắn, hướng cái nhìn về Chúa Giêsu là mẫu gương của mọi chứng nhân và mọi vị tử đạo. Một gia sản cần được đón nhận mọi ngày trong một cuộc sống đầy yêu thương và dịu hiền”.
Năm năm sau ngày Đức Cố Hồng Y Phanxicô qua đời, Đức Hồng Y Renato Raffael Martino, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình, đã chủ sự Thánh lễ để tưởng nhớ một chứng nhân hòa bình và hy vọng vào lúc 11 giờ ngày chúa nhật 16 tháng 9 năm 2007 tại Nhà thờ Santa Maria della Scala. Theo đúng quy định của hiến luật về việc phong thánh. Dịp này, Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình đã bắt đầu tiến trình xin lập Hồ sơ phong thánh cho Đức Cố Hồng Y. Từ Dinh thự Giáo hoàng ở Castel Gandolfo, trong buổi triều yết hôm thứ hai 17 tháng 9 năm 2007, ĐGH Bênêdictô XVI đã nói: “Tôi vui mừng, nhân cơ hội này để một lần nữa, nêu lên chứng tá Đức Tin sáng ngời mà vị Mục Tử anh dũng này đã để lại cho chúng ta. ĐHY Phanxicô Xaviê đã được vị tiền nhiệm Gioan-Phaolô II đáng kính của tôi bổ nhiệm làm Chủ Tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình. Ngài đã soạn thảo bản Toát Yếu Giáo Huấn xã hội của Hội Thánh. Làm sao quên được những nét nổi bật về sự đơn sơ và thân thiện của ngài.
Chúng ta tưởng nhớ ngài với sự thán phục lớn lao, trong khi chúng ta hồi tưởng lại trong tâm trí chúng ta những dự phóng lớn lao và tràn đầy Hy vọng, đã làm cho ngài luôn sống động và ngài tìm cách thế để dễ dàng loan truyền ra và thuyết phục nhiều người.
Đức Hồng Y Văn Thuận là một con người của Hy Vọng. Ngài sống bằng Hy Vọng, ngài phổ biến niềm Hy Vọng cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. […] Đức Cố Hồng Y Phanxicô thường nhắc lại rằng: Kitô hữu là một con người của từng giờ, của lúc này, của giây phút hiện tại, cần được đón nhận và sống với tình yêu Chúa Kitô. Trong khả năng sống giây phút hiện tại này, đã chiếu tỏa điều sâu thẳm của việc phó thác trong bàn tay Thiên Chúa và tính đơn sơ theo tinh thần Phúc âm. […] Và Đức Bênêđictô XVI kết thúc: “Anh chị em thân mến, tôi vui mừng sâu xa đón nhận tin về việc khởi sự án phong chân phước cho vị Ngôn Sứ đặc biệt về niềm hy vọng Kitô này và trong khi chúng ta phó thác cho Chúa linh hồn ưu tuyển của ngài, chúng ta hãy cầu nguyện để tấm gương của Đức Cố Hồng Y là giáo huấn hữu hiệu cho chúng ta. Với lời cầu chúc đó, tôi thành tâm ban phép lành cho tất cả anh chị em”.
Ngày 22 tháng 10 năm 2010, vào lúc 8g30 sáng, ĐHY Peter K.A. Turkson, Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình sẽ chủ sự thánh lễ cầu nguyện cho Vị Tôi Tớ Chúa tại Nhà thờ Santa Maria della Scala. Tham dự thánh lễ có các thành viên thuộc Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình, các Hồng Y, Giám mục, linh mục, thân nhân, bạn hữu của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê.
Tiếp đến, vào lúc 12 giờ trưa cùng ngày, tại Phòng Hòa Giải trong Dinh Laterano ở Roma, một phiên họp chính thức mở cuộc điều tra án phong Chân phước và phong thánh cho Đức Cố Hồng Y. Nghi thức bắt đầu bằng một bài Thánh ca, sau đó là việc đọc biên bản. Tiếp đến, vị Chủ Tọa phiên họp là ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Giáo phận Rôma tuyên bố chính thức mở Án điều tra và ĐHY Peter K.A. Turkson, Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Công lý và Hòa bình phát biểu.
Trong cùng ngày, những hoạt động khác cũng diễn ra như: trao giải thưởng Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận vào lúc 10g30 tại Giáo hoàng Đại học Laterano, buổi hòa nhạc tại Vương cung Thánh đường Thánh Antôn trên đường Merulana – Roma, vào lúc 7 giờ tối.
Ngày đầu năm 2012, Lễ Mẹ Thiên Chúa
Linh mục Phêrô Nguyễn Thanh Tùng
Chú thích:
[1] Cụ Tađêô qua đời ngày 3 tháng 7 năm 1993 tại Sydney, Australia.
[2] Gia đình bên ngoại của ngài đã bị thiêu sống khi đang quây quần đọc kinh gia đình trong một đêm mùa thu năm 1885, tại làng Đại Phong.
[3] Xin xem: Năm chiếc bánh và hai con cá, trang 26.
[4] Quảng trường Santa Maria della Scala, số 23, ở khu Trastevere – Rôma, được coi sóc bởi các cha Dòng Carmel.
[5] Chứng nhân Hy vọng, trang 12.
Tài liệu tham khảo:
1. Năm chiếc bánh và hai con cá, ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
2. Cha tôi, ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong cuộc đời tôi, Phaolô Phan Văn Hiền.
3. Tài liệu trên trang web http://www.vatican.va.
4. Tài liệu hình ảnh trong Archives des Missions Étrangères de Paris.
5. Tài liệu hình ảnh của Lm Augustinô Nguyễn Văn Dụ.
6. Tài liệu trên trang http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailbook&id=49&ib=396
và http://www.dunglac.org/index.php?m=home&v=detail&ia=6356.
——————————————————————————
Phụ lục
THÔNG BÁO ÁN LỆNH THU THẬP TÀI LIỆU PHONG CHÂN PHƯỚC VÀ PHONG THÁNH
CHO TÔI TỚ CHÚA, HỒNG Y PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN
Tòa Giám quản Rôma
Vụ án Phong Chân phước và Phong Thánh cho Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Hồng Y Giáo Hội Rôma
THÔNG BÁO ÁN LỆNH
Ngày 16 tháng 9 năm 2002, Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Hồng Y của Giáo Hội Rôma, đã qua đời tại Rôma.
Vị Tôi Tớ Chúa này, là một người có đức tin sâu xa vào Thiên Chúa và có lòng bác ái không giới hạn, là một vị rao giảng anh hùng Tin Mừng của Chúa Kitô, đã là một chứng nhân đích thực của Niềm Hy Vọng, ngay cả trong những năm thật khó khăn trong khi thi hành sứ vụ linh mục và giám mục, thực hiện trong những đổ nát của chiến tranh tại Việt Nam, gồm cả 13 năm tù đầy, trong đó Lời Chúa đã chiếu sáng cuộc sống mà bên ngoài xem ra đúng là đêm tối, hoàn toàn sống trong cô lập, luôn làm tăng thêm sức mạnh của niềm hân hoan và hy vọng.
Với thời gian qua đi, danh thơm về sự thánh thiện tăng thêm mãi, và sau cùng có đơn xin bắt đầu mở án Phong Chân phước và Phong thánh cho Vị Tôi Tớ Chúa đây, và để thông báo cho Cộng đồng Giáo Hội của Chúa biết, chúng tôi mời gọi tất cả mọi người và từng người tín hữu hãy thông báo trực tiếp hay chuyển tới Tòa Án Giáo phận của Tòa Giám Quản Rôma (ngụ tại Piazza S. Giovanni in Laterano, 6, 00184, ROMA, Italia), tất cả những tin tức, mà nhờ đó Tòa Án có thể tìm hiểu sâu xa những yếu tố thuận hay nghịch lại với danh thơm thánh thiện của Vị Tôi Tớ Chúa.
Ngoài ra, theo các định liệu của luật lệ hiện hành, cũng phải thu tập các tác phẩm viết của Ngài, chúng tôi truyền lệnh, qua Thông báo án lệnh này, tất cả những ai lưu giữ các tác phẩm này, phải mau mắn nộp cho Tòa Án trên đây bất cứ tác phẩm nào có được, mà Tôi Tớ Chúa đây được coi là tác giả, nếu chưa trao nộp cho Văn Phòng Cáo Thỉnh Viên vụ án.
Chúng tôi nhắc lại rằng kiểu nói tác phẩm không chỉ hiểu là những tác phẩm đã được in ấn, và đã được thu tập lại, mà còn phải hiểu là những bản thảo, tập nhật ký, thư từ đủ loại và bất cứ một một loại bản viết riêng tư nào của Tôi Tớ Chúa. Những ai muốn giữ lại bản chính, có thể trao nộp bản sao được thị thực hợp pháp.
Sau cùng, chúng tôi chỉ thị rằng, Thông Báo Án Lệnh này sẽ được treo nơi công cộng trong vòng hai tháng ở cửa của Tòa Giám Quản Rôma, và sẽ được công bố trong báo của Tòa Giám Quản “Rivista Diocesana” của Giáo phận Rôma, và trên nhật báo “L’Osservatore Romano” và nhật báo “Avvenire”.
Ban hành tại Rôma, từ Trụ Sở của Tòa Giám Quản, ngày 16-1-2009.
Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản
Giuseppe Gobbi, Lục Sự
(dịch theo bản tiếng Ý, trong Avvenire, ngày 10-2-2009, tr. 17).
Một linh mục bác sĩ người Việt đi vào tâm dịch New York để trợ giúp các bệnh nhân Coronavirus 18 giờ ago GIÁO HỘI HOÀN VŨ, Tin Tức
Cha Anthony Phạm Hữu Tâm. Ảnh trên facebook Tam Pham
Thái Hà (08.04.2020) – Cha Anthony Phạm Hữu Tâm đã viết trên trang facebook cá nhân của mình những dòng sau:
“Lửa gần rơm lâu ngày phải cháy
Gần Giê-su riết phải theo gương
Nhớ xưa Tuần Thánh Chúa hy sinh
Thì nay ta lại theo chân Ngài
Bạn thân mến, thứ Hai Tuần Thánh tôi bay lên New York City giúp Y tế 3 tuần. Hồi hộp và hơi sợ vì Coronavirus đang lây nhiễm nặng và người chết quá nhiều. Nhưng nhân viên y tế làm việc quá tải cần được giúp đỡ. Hy vọng góp phần được chút ít, theo gương hy sinh của Chúa Giêsu năm xưa. 3 thùng hàng gồm masks (homemade, surgical, N95), gloves, PPE là những món quà tình thương người Houston gởi NYC. Cảm ơn nhóm Trợ Tá Houston, Nail Supply, Đài Saigon 900, VieTV và nhiều anh chị thiện nguyện viên. Xin cầu nguyện cho bệnh nhân, nhân viên y tế và gia đình của họ.”
Được biết, cha Anthony Phạm Hữu Tâm thuộc thuộc Tu Hội tận Hiến, là một bác sĩ danh tiếng đang hành nghề tại Houston, Texas. Ngài là một bác sĩ, một chuyên gia Vật lý và Phục hồi chức năng ở Houston, Texas. Ngài đã theo học và tốt nghiệp từ Trung tâm Khoa học Y tế của Đại học Bắc Texas tại Fort Worth vào năm 2003, với hơn 17 năm kinh nghiệm đa dạng, đặc biệt là về Vật lý và Phục hồi Chức năng.
Ngài đã quyết định đến New York là nơi dịch Viên phổi Vũ Hán đang bùng phát dữ dội nhất nước Mỹ. Tính đến ngày 04/06/20 số người chết đã lên đến 5,489 người vượt xa số người chết vì khủng bố 911 là khoảng 3,000.
Phát biểu trong cuộc họp báo ngày 3-4, thị trưởng thành phố New York cho biết thành phố này đang “trong cuộc đua khốc liệt với thời gian”, cho biết họ đang rất cần bổ sung trang thiết bị y tế, giường bệnh. Ông cũng nhắc lại đề nghị với chính phủ liên bang về việc huy động quân đội hỗ trợ.”
Đáp lại lời kêu gọi của chính quyền New York và trên hết là tiếng kêu của bệnh nhân và các bác sĩ , y tá và những người làm trong bệnh viện đang khó nhọc chiến đấu để cứu người vì thiếu nhân lực và thiết bị y tế, cha Tâm đã một mình cùng với một số thiết bị cùng với tấm lòng của cha đến để giúp một tay. Chúng ta cầu nguyện cho cha và tiểu bang New York được bình an thoát khỏi đại dịch này.
Truyền Thông Thái Hà
Tổng hợp từ facebook cá nhân của cha Anthony Phạm Hữu Tâm (Tam Pham) và facebook anh Liem Ly
Hình ảnh cha Anthony Phạm Hữu Lộc tại phi trường để đi đến New York. Ảnh từ facebook Ta
Hình ảnh cha Anthony Phạm Hữu Lộc tại phi trường để đi đến New York. Ảnh từ facebook Tam Pham
Người đứng đầu Liên minh Âu châu cho hay: vì vi khuẩn Coronavirus, nên người già sẽ bị cách ly cho đến năm 2021
Thanh Quảng sdb
13/Apr/2020
Người đứng đầu Liên minh Âu châu cho hay: vì vi khuẩn Coronavirus, nên người già sẽ bị cách ly cho đến năm 2021
Chủ tịch Liên Minh Âu châu, bà Ursula von der Leyen đã đưa ra những bình luận trên với một tờ báo của Đức.
(Tin Vatican - Stefan J. Bos)
Những bình luận của bà làm cho lễ Phục sinh ở châu Âu thêm ảm đạm! Bà Von der Leyen nói với tờ Nhật báo Bild của Đức rằng những người lớn tuổi có thể phải bị cách ly cho đến hết năm nay.
Bà nhấn mạnh rằng các biện pháp này thật là cần thiết để bảo vệ họ và những người dễ bị tổn thương khác, hầu phòng chống lại vi khuẩn Coronavirus, đại dịch COVID-19. Bà nói: "Tôi biết đây là điều khó khăn và sự cách ly là một gánh nặng". Nhưng theo lời của bà, "đó là một nan đề của sống và chết." Bà nhấn mạnh: "Chúng tôi phải giữ kỷ luật và cương quyết."
Chủ tịch của Liên Minh Châu Âu còn giải thích thêm, theo kế hoạch của bà thì trẻ em và thanh thiếu niên sẽ được hưởng nhiều tự do sớm hơn trong việc di chuyển hơn người lớn tuổi và những người ốm đau thì bị cách ly.
Bà Von der Leyen hy vọng một phòng thí nghiệm ở châu Âu sẽ sớm đưa ra một loại vắc-xin mới chống COVID-19. Nhưng bà cảnh báo: "Bao lâu chưa có vắc-xin, chúng tôi phải hạn chế việc tiếp xúc, nhất là đối với những người lớn tuổi!"
Trở ngại cho hàng triệu triệu người
Bà cũng nêu lên đây là một trở ngại cho hàng triệu triệu người buộc phải xa cách cha mẹ lớn tuổi hoặc ông bà của họ.
Những người thân yêu đã vẫy tay chào nhau từ những cửa sổ… Và ngay cả khi họ gặp nhau, nhiều người không thể ôm hôn nhau hay bắt tay nhau như thói quen thường làm, vì nay theo các hướng dẫn của chính quyền xã hội phải tránh và giữ một khoảng cách để tránh lây nhiễm...
Tính cho thời điểm này đã có hơn 120.000 ca tử vong trên toàn thế giới, mà khoảng một nửa là từ Châu Âu.
Nhiều quốc gia trong Châu Âu đang và sẽ còn công bố những quy tắc nghiêm nhặt hơn sau kỳ nghỉ lễ Phục sinh!