Anh bước vào giai đoạn lú lẫn (Alzheimer ) ở cuối đời. Mấy năm nay anh đã thay đổi rất nhiều. Bắt đầu anh quên quên nhớ nhớ, tiếp đến là anh dễ xúc động, anh hay khóc. Mấy năm trước, nghe cô bạn đọc Thơ của anh, anh cười, anh nhớ lại, đọc tiếp theo, chỉ độ một năm sau đó, anh không đọc theo nữa, anh chỉ nghiêng đầu lắng nghe, rồi bật khóc. Hình như anh biết được người kia vừa nói ra những câu gì rất thân yêu, rất thân thuộc với mình, và điều đó làm anh xúc động, anh khóc rưng rức. Chị lại nhỏ nhẹ dỗ anh:
Nín đi, nín đi, Thơ của anh, cô ấy nhớ đấy mà, phải vui chứ.
Anh nghe chị, ngoan như em bé, lau nước mắt, bằng mấy ngón tay, rồi cười, một nụ cười rất thơ trẻ.
Những năm kế tiếp, anh bắt đầu quên mặt họ hàng, quên mặt những người bạn thân, anh chỉ nhớ có chị thôi. Anh 85 tuổi, chị 80 tuổi. Hai vợ chồng già sống với nhau, con trai, con gái đều có gia đình. Đứa ở xa, đứa ở gần cũng vậy thôi. Một năm tụ họp gia đình đôi ba lần vào dịp Lễ, Tết.
Khi anh mới bắt đầu lãng quên, sức khỏe anh vẫn còn tốt, sáng sáng chị chở anh tới Gym. Chị bơi lội, anh ngồi ngoài nắng hóng mặt trời. Chị đi chợ, đi tới nhà bạn họp mặt luôn luôn có anh đi theo. Mỗi ngày anh một chậm hơn và quên nhiều hơn nhưng anh vẫn tự lo được vệ sinh cho mình, chị chỉ cần nhắc.
Rồi bỗng một ngày anh không làm gì một mình được nữa, chị phải phụ anh. Cơ thể chị nhỏ quá so với anh, chị không thể khênh vác, tắm gội cho anh được. Anh bắt đầu ngu ngơ như một đứa trẻ còn mặc tã, mà anh đang mặc tã thật, chị không thể nào khênh, đỡ anh làm những việc vệ sinh cá nhân cho anh. Chị gọi con, con trai chị từ tiểu bang xa về tìm Home Care để gửi Bố vào. Tìm mãi mới được một nơi gần nhà, Mẹ chỉ lái xe có 8 phút là thăm được Bố. Số tiền hơi cao, nhưng để con lo.
Con ở lại thêm vài ngày nữa yên tâm có chỗ tốt cho Bố mà Mẹ không phải đi xa, muốn thăm Bố lúc nào cũng được. Chị ngậm ngùi :
·Ừ thôi con về nhà với vợ, con đi.
Mấy hôm có con, chị yên tâm. Con đi rồi, chị một mình trống trải, thấy căn nhà của mình sao nó rộng mênh mông thế này, căn nhà không có anh bỗng tự nhiên thành xa lạ, giống như chính chị cũng vừa dọn vào một ngôi nhà mới, chị buồn trống cả hồn. Buổi tối đi ngủ chị nghĩ tới anh ở nhà mới với những người xa lạ chắc anh còn buồn hơn chị bây giờ. Thương anh quá, chị mong sao cho đến sáng để vào thăm anh.
Anh ở đã nhà mới được hai tuần, mỗi ngày chị tới thăm, người ta không cho chị vào hẳn phòng anh, ngay cả phòng khách cũng chưa được vào (Vì đang thời Đại Dịch) họ đưa anh ra ngoài hàng hiên, nơi đó có sẵn mấy cái ghế cho anh chị ngồi gặp nhau. Chị thấy anh sạch sẽ, tươm tất chị cũng mừng, nhưng mỗi lần thấy anh hiền lành như một đứa trẻ ngoan, chị lại mủi lòng.
Sao anh thay đổi nhanh thế! Gặp chị anh không vui, chị đứng lên về anh không buồn, trên nét mặt anh chị không thấy một cảm xúc nào, anh nhìn chị như nhìn cái cây hay bức tường trước mặt, ánh mắt anh không vui, không buồn. Con chim sẻ sà xuống sân cỏ trước mặt hai người, chị cầm tay anh lay lay, chỉ anh, anh nhìn mà như không nhìn, ánh mắt anh không biểu lộ mộ cảm xúc nào.
Khi tới thăm anh, chị cứ đinh ninh là khi anh bước ra, thấy chị, ánh mắt anh sẽ sáng lên, miệng anh sẽ mỉm cười và khi chị bịn rịn chia tay về, ánh mắt anh sẽ buồn buồn, tay anh sẽ nắm chặt tay chị. Nhưng không, anh thản nhiên đứng lên đi vào, không hề quay đầu lại.
Chị không thấy anh khổ, không thấy anh buồn hay vui. Hình như anh không còn cảm giác buồn vui nữa. Sao anh thay đổi nhanh thế!
Chị nghĩ tới ba tháng mùa Đông sắp tới, người ta đã cho chị biết là sẽ không có thăm viếng vì trời lạnh người già yếu không thể ra ngoài hiên được và thân nhân vẫn chưa được quyền vào bên trong, nếu đại dịch vẫn còn.
Chị nghĩ tới nét mặt vô cảm xúc của anh, nghĩ tới hình ảnh anh đi vào không hề quay đầu lại và chị đứng ứa nước mắt nhìn theo dáng cái lưng im lặng của anh khuất sau cánh cửa.
Trời ơi trong 3 tháng mùa Đông, ngay cả cái lưng im lặng, cái dáng rất buồn đó, chị cũng không được nhìn thấy, mặc dù nó vẫn hiện hữu.
LTS:Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh được biết trong cộng đồng người Việt nhiều năm qua với chuyên khoa về hiếm muộn, vô sinh, và lựa chọn trai gái theo ý muốn. Ông đã từng làm nghiên cứu về bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực thuộc National Institutes of Health. Bác Sĩ Minh là Board Certified về Obstertrics, Gynecology và Reproductive Endocrinology Infertility. Phòng mạch tọa lạc trong khuôn viên bệnh viện Fountain Valley, tại 11180 Warner Ave., Suite 465, Fountain Valley, CA 92708. Số điện thoại liên lạc: (714) 429-5848, trang nhà: www.bacsihongocminh.com
Phẫu thuật thông tim (angioplasty) là một phương pháp y khoa tiêu chuẩn nhằm khai thông động mạch vành tim bị nghẽn, khi bị bệnh tim hay bị tai biến động mạch tim.
Như ta đã biết, mạch máu vành tim có thể bị lở loét và cholesterol tụ tập vào đó tạo thành “plaque”, đại loại như bị nghẽn ống nước. Thật ra, cholesterol được tích tụ từ phía bên trong vách của động mạch, phía dưới chỗ bị hư hại, sau đó, vách động mạch bị òa vỡ ra, và những mảnh vụn cholesterol nầy trôi vào mạch máu và làm nghẽn nhiều chỗ khác, tạo ra hiện tượng đột quỵ tim.
Trong từ angioplasty, chữ “angio” có nghĩa là mạch máu, còn chữ “plasty” có nghĩa là sữa chữa, nắn nót trở lại, cũng như plastic surgery có nghĩa là giải phẫu chỉnh hình. Bác sĩ thường gọi angioplasty là “percutaneous coronary intervention, hay PCI, dịch nôm na là “can thiệp vào hệ thống mạch vành tim, xuyên qua da”.
Khi làm phẫu thuật thông tim, bác sĩ sẽ luồn một đường ống vào một mạch máu ở dưới háng hay cổ tay. Sau đó, với sự hướng dẫn của hệ thống X-ray, đường ống sẽ luồn đến chỗ nghẽn của động mạch vành tim. Cuối cùng, một bong bóng nhỏ được phình lên, hay một ống kim loại nhỏ gọi là stent được nhét vào sau đó để mở rộng chỗ bị nghẽn.
So với giải phẫu tim để nối ghép động mạch, phương pháp thông tim ít gây ra thương tổn phụ. Vì khỏi phải mở tung lồng ngực, bệnh nhân hồi phục nhanh chóng. Trung bình, phẫu thuật thông tim chỉ tốn độ 30 phút đến vài giờ. Có khi bệnh nhân phải ở lại trong bệnh viện qua đêm để hồi phục.
Phẫu thuật angioplasty còn được áp dụng trong các trường hợp nhẹ khác, như bị mệt tim, tức ngực (angina), hoặc để tăng lượng máu lưu thông cho dù ngay sau khi bị đột quỵ tim.
Có hai loại thông tim:
1.Balloon angioplasty, bao gồm dùng sức căng của bong bóng thổi phồng để thông chỗ nghẽn. Thật ra hầu như phương pháp nầy luôn luôn sẽ đi kèm với phương pháp kế tiếp.
2.Đặt ống kim loại “stent” vào mạch máu, phòng chống trường hợp mạch máu bị nghẽn trở lại.
Stent thường được làm bằng lưới kim loại, có khi được bao bọc bằng thuốc gọi là “drug eluting stents” (DES), nhằm tăng hiệu năng chống mạch máu bị nghẽn trở lại. Hầu như, đại đa số trường hợp thông tim đều dùng lưới kim loại có bọc DES. Trong năm 2018, có khoảng 1.8 triệu lưới stent được sử dụng.
Để chuẩn bị cho phẫu thuật thông tim, bệnh nhân phải theo lời dặn dò của bác sĩ. Nên khai báo cho bác sĩ biết tất cả các thứ thuốc đang uống, cho dù là thuốc phụ, hay thuốc dược thảo. Một số thuốc có thể làm tăng nguy cơ bị chảy máu. Như tất cả các loại giải phẫu, trước ngày làm phẫu thuật, bệnh nhân phải nhịn đói, và có khi nhịn uống nước khoảng 12 tiếng. Lý do, để tránh bị sặc nước hay thức ăn vào trong phổi trong khi gây mê.
Bác sĩ thường phải cho thử máu, nhất là thử tình trạng của trái thận, xem có đủ khả năng lọc và giải trừ thuốc cản quang gọi là contrast giúp X-ray được chính xác hơn.
Nói chung, phương pháp thông tim khá an toàn, ít khi bị nguy hiểm, rắc rối. Tỉ số nguy cơ bị nguy hiểm vào khoảng 5%. Tuy nhiên một số tình trạng sự cố có thể xảy ra như:
1.Chỗ cắt ở háng hay cổ tay có thể bị chảy máu không cầm lại.
2.Mạch máu bị hư hại, kể cả mạch máu thận do phản ứng phụ của thuốc cản quang contrast.
3.Bị dị ứng với thuốc contrast.
4.Bị đau ngực.
5.Bị rối loạn nhịp tim.
6.Chỗ nghẽn không thông được phải tiến hành mổ tim cấp kỳ.
7.Bị tai biến não, hay bị đột quỵ tim.
8.Bị rách động mạch.
9.Bị tử vong.
10.Cuối cùng, luôn luôn có nguy cơ chỗ nghẽn bị ngẽn trở lại.
(Hình minh họa: Getty Images)
Thường thường, người cao tuổi, nguy cơ bị tăng cao hơn. Ngoài ra những người bị bệnh tim nặng, bị nghẽn động mạch nhiều chỗ, hay bị suy thận cũng dễ bị tai biến trong khi làm phẫu thuật.
Sau khi xong phẫu thuật, bệnh nhân sẽ phục hồi nhanh chóng. Thường thường, bệnh nhân sẽ ở lại trong bệnh viện từ vài giờ, có khi qua đêm. Sau đó, không được lái xe khoảng 24 tiếng, và không được khiêng vác vật nặng trong vòng một vài tuần. Bệnh nhân có thể đi làm trở lại trong vòng một tuần, tùy theo lời khuyên của bác sĩ.
Tổng quan, phẫu thuật thông tim tương đối ít bị nguy hiểm so với mổ tim. Ở Mỹ, trung bình có khoảng 1.2 triệu ca thông tim được tiến hành mỗi năm. Bác sĩ thường khuyên làm phẫu thuật thông tim một khi có vấn đề với hệ thống động mạch vành tim.
Tuy vậy, một nghiên cứu mới đây nhất, trong Tháng Mười Một, 2019, từ trường Đại Học Y Khoa New York University Grossman School of Medicine, cho biết, các phương pháp thông tim và ngay cả giải phẫu tim để ghép nối động mạch vành, vẫn không có hiệu quả bằng thuốc men và thay đổi nề nếp sống. Nói chung, các phương pháp nầy chỉ tốn tiền, tốn công, nguy hiểm, nhưng chẳng có lợi gì hơn so với uống thuốc, ăn uống cẩn thận, và… tập thể dục đều đặn!
Trên những đoạn khúc khuỷu của đường đời, chúng ta thường dễ trượt ngã và oán trách số phận: “Sao đời lại bất công như thế?”. Nhưng người Ấn Độ khác hẳn lại luôn dùng kim chỉ nam là 4 quy tắc tâm linh đầy sâu sắc dưới đây để đi qua những cơn sóng của niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống.
1. Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp
Không ai ngẫu nhiên bước vào cuộc đời bạn mà không mang một ý nghĩa nào đó. Tất cả những người chúng ta gặp trên đường đời đều là những người “thầy” vô giá. Dù họ yêu thương bạn, bỏ rơi bạn, giúp đỡ bạn hay tranh đấu với bạn, tất cả chỉ để dạy bạn cách sống, cách yêu thương, cách bao dung và nhẫn nhường. Số phận luôn sắp đặt đúng người vào đúng thời điểm để tôi luyện ý chí và phẩm cách con người bạn, để bạn nhận ra đâu là giá trị cuộc sống và giá trị của bản thân mình. Vậy nếu bạn chỉ biết ơn những người trao cho bạn cơ hội mới, những người tặng bạn những khoảnh khắc ngọt ngào, và thù ghét những người để lại vết thương lòng trong bạn thì bạn mới chỉ hiểu một nửa thông điệp của tạo hóa
2. Bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời bạn đều là những điều nên xảy ra
Không có điều gì chúng ta từng trải qua trong cuộc đời mình đáng ra không nên xảy ra cả, kể cả những điều nhỏ nhặt nhất. Trước mỗi một sai lầm hay vấp ngã, chúng ta đều than thở "Giá như mình không làm thế thì mọi chuyện đã khác". Nhưng không, chẳng có cái giá nào hết bởi vì những gì nên xảy ra thì đều đã xảy ra. Qua đó, chúng ta rút ra được bài học để hoàn thiện, phát triển bản thân hơn. Thay vì ngồi đó bực tức, bất lực, trách mình vì đã đánh đổ nước cam lên chiếc laptop ban sáng, bạn hãy bình tĩnh chấp nhận, lau chùi nó rồi nó đem chiếc máy tính đi sửa và rút kinh nghiệm lần sau không bao giờ để nước vào túi đựng laptop nữa, có phải là tốt đẹp hơn không? Khi bị kẹt cứng trên một tuyến đường đông đúc trong lúc đưa con đi học, bạn cũng sẽ không nghĩ rằng nếu đi nhanh hơn thì một chiếc xe tải lao như bay trên đường có thể cướp đi sinh mạng của mình và con mình? Bởi vậy mới nói, đừng ngồi mà ước "giá như" bởi chẳng có gì xảy ra trong cuộc đời là không có nguyên do. Nhẹ nhàng chấp nhận mới có thể ung dung, tự tại. Không có gì chúng ta trải qua lại có thể khác đi và đừng tốn thời gian để hối tiếc về những chuyện đã qua.
3. Chuyện gì đến, ắt sẽ đến
Tất cả mọi chuyện trên đời đều xẩy đến vào đúng thời điểm nó xẩy ra, không sớm hơn hay muộn hơn. Chúng ta không thể đoán trước điều gì sắp xảy ra, cũng không thể ngăn chặn nó vì nó đã ở đó và sẽ xảy ra vào một thời điểm mình không ngờ tới. Việc lo sợ vào một ngày nào đó một chuyện tồi tệ ập đến sẽ khiến bạn quên đi những giây phút đáng quý của hiện tại. Dù là niềm vui hay nỗi buồn, hãy học cách can đảm đón nhận nó. Bạn không thể kiểm soát thế giới xung quanh bạn. Chuyện gì phải đến cũng sẽ đến và phải học cách bình thản đối diện với những chuyện có thể bất ngờ xảy ra. Đôi khi, chúng ta phải chờ đợi rất lâu và trải qua rất nhiều những “chuyện sẽ đến” để hiểu hết ý nghĩa của thời điểm. Thời điểm luôn là món quà mà Thượng Đế trao cho những ai biết nhẫn nại, kiên trì và quyết tâm.
4. Chuyện gì đã qua, hãy để cho nó qua
Quy tắc này rất đơn giản. Khi một điều gì đó đã kết thúc, thì có nghĩa là nó đã hoàn thành trách nhiệm giúp ta phát triển. Duyên phận của chúng ta với điều đó đã chấm dứt để nhường chỗ cho mối nhân duyên khác hội tụ. Đôi khi chia tay một người hay rời bỏ một công việc chưa chắc đã là điều không tốt, bởi vì biết đâu đó lại là cơ hội để mình tìm được một công việc mới tốt hơn hay một người khác tử tế hơn. Đó là lý do chúng ta phải biết buông bỏ, để lại sau lưng những muộn phiền và quá khứ để dành sức tiếp tục cuộc hành trình của đời mình. Để có thể an nhiên, mỗi người nên biết tùy duyên và thuận theo tự nhiên mà sống. Không phải ngẫu nhiên mà bạn đọc được bài viết này bởi vậy nếu cảm thấy đúng, đừng giữ cho riêng mình mà hãy chia sẻ! Hãy yêu thương bản thân, sống an nhiên và luôn hạnh phúc nhé!
Tôi phải cám ơn ông bạn đã chuyển cho tôi bài viết về cà cuống của tác giả Vũ Thị Tuyết Nhung. Vừa đọc được hai chữ “cà cuống” là đầu óc tôi cuống cả lên. Cả một thời nhỏ dại ùn ùn trở về. Nhưng đọc bài “Cà Cuống” của Vũ Thị Tuyết Nhung trước đã. “Tôi còn nhớ, mẹ tôi thuở sinh thời, cứ vào cữ tháng Bảy mùa thu trở ra đến tháng Mười chớm đông, lúc Người đi chợ Hàng Bè, thi thoảng lại được mấy bà hàng tôm hàng cá quen gọi vào, thầm thì giúi riêng cho mấy con cà cuống mà các bà thường chỉ để dành cho khách ruột sành ăn”. Tác giả Vũ Tuyết Nhung còn nhớ “mùa” cà cuống, tôi thì chịu. Ngày nhỏ ý niệm thời gian chưa vướng vào đầu óc, tôi chỉ nhớ bất chợt vào những buổi tối liên tiếp, cà cuống bay bổ vào những ngọn đèn đường là lúc chúng tôi chạy đuổi theo bắt cà cuống. Cà cuống là con gián cồ, lớn gấp nhiều lần. Vậy mà gián thì chúng tôi sợ mà cà cuống thì chúng tôi…thương, thi nhau chạy theo chộp bằng tay không. Chộp xong, kiếm mấy cành cây khô, nổi lửa, nướng ăn ngay tại chỗ, thơm cách chi!
Cà cuống nướng là thứ ăn lấy được của bọn trẻ chúng tôi. Người lớn ăn khác, trân trọng hơn nhiều. Họ phân biệt cà cuống đực và cà cuống cái. Chuyện tưởng chỉ có chính con cà cuống mới quan tâm đến, nhưng đực cái cũng là thứ mà các người lớn săm soi đầu tiên khi nắm được chú cà cuống. Bởi vì cà cuống đực mới có bọng nước thơm, thứ quý giá nhất của cà cuống. Mỗi con đực có hai bọng, nhỏ bằng đầu tăm, chứa thứ nước thơm tho. Với cà cuống đực thì thứ nước có mùi thơm này là để dụ con cái. Với con người thì thứ nước thơm này để khoái khẩu. Bởi vì món chi có tí tinh chất này cũng biến thành món ngon được. Từ chén nước mắm chấm rau muống luộc dân dã cho tới những món cao cấp hơn như bún thang, bánh cuốn, chả cá. Người Tràng An chỉ lấy đầu chiếc tăm, chấm vào chiếc lọ nhỏ chứa tinh chất cà cuống một hai chấm là món ăn dậy mùi, thơm ngát. Mỗi người Hà Nội đều có những kỷ niệm với cà cuống. Với tôi là chén bún thang ngày tết. Lòng phơi phới trước giờ khắc tinh khôi của ngày đầu năm, gắp miếng bún thang nhè nhẹ hương cà cuống, thấy tất cả cái tết trong người. Với tác giả Vũ Tuyết Nhung là một thứ cũng rất tết: bánh chưng. “Bao năm nay, từ ngày đi lấy chồng, tôi đã nhiều lần đặt bánh chưng ở các cửa hàng nổi tiếng trong thành phố, hay là tự gói lấy bằng các thứ gạo đỗ, thịt thà thơm ngon nhất, mà sao ăn cứ không được như hương vị bánh chưng mẹ gói lúc sinh thời. Thì ra, ngày xưa, mẹ tôi khi ướp nhân bánh trước khi gói, bao giờ cũng nhớ rảy vào một chút tinh dầu cà cuống mà bà để trong một chiếc lọ bé xíu, gọi là lọ penexilin nút cao su, quấn mấy lần nilon như một thứ đồ gia bảo, cất trong ngăn trên của chiếc tủ chùa ở gác hai. Nếu không cho vào nhân bánh, thì khi xóc gạo gói bánh, bà cho nhàn nhạt muối đi một chút. Đến lúc bóc bánh ăn, mới chấm thêm chút nước mắm cà cuống, thì cũng hợp giọng khôn tả”.Nói tới món ngon Hà Nội, người ta không thể không vời tới những Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài. Trong “Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường”, Thạch Lam nói tới cà cuống trong một món ăn thông thường là phở mà chúng ta tưởng cà cuống chẳng có vai trò chi. “Trong nhà thương vốn có một bà bán các thứ quà bánh ở một gian hàng dựng dưới bóng cây. Cái quyền bán hàng đó là cái quyền riêng của nhà bà, có từ khi nhà thương mới lập. Bà là người ngoan đạo nên tuy ở địa vị đặc biệt đó bà cũng không bắt bí mọi người và ăn lãi quá đáng. Thức gì bán cũng ngon lành, giá cả phải chăng. Nhưng gánh phở của bà thì tuyệt: bát phở đầy đặn và tươm tất, do hai con gái bà làm, trông thực muốn ăn. Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ”.
Thứ “thoảng nhẹ như một nghi ngờ” này, Tô Hoài miêu tả trong “Chuyện Cũ Hà Nội” với một món ăn khác: “Từng lá bánh được bóc ra, trắng tinh, xếp lên đĩa. Đĩa giò lụa cả khoanh đã cắt khía ra từng miếng. Nước mắm Nam Ô được thửa đã rót ra cái bát nhỏ của nhà hàng. Mùi nước mắm phảng phất thơm ngát cà cuống”. Cũng món bánh cuốn chấm nước mắm cà cuống này, trong cuốn “Món Ngon Hà Nội”, Vũ Bằng da diết:“Để làm nổi hẳn vị của nước chấm lên, người hàng bánh cuốn thường gia thêm vào chai nước chấm một hai con cà cuống băm nhỏ, nó đem đến cho ta một cái thú đậm đà hơn là cái thú cà cuống nước bán từng ve nhỏ ở các hiệu bán đồ nấu phố Hàng Đường hay một chút mắm tôm cà cuống đệm vào làm tăng vị của bún thang lên đến cái mức ăn ngon gần như không thể nào chịu được”.
Thứ mà nhà văn Vũ Bằng gọi là “cà cuống nước bán từng ve nhỏ” mà ông chê ỏng chê eo không biết có phải là các lọ cà cuống chế bằng hóa chất không? Tôi không nghĩ vậy tuy từ thập niên 50 của thế kỷ trước, người ta đã phân chất tinh dầu cà cuống. Đó là một hợp chất gồm nhiều chất dễ bay hơi. Mãi tới gần đây, nhờ tiến bộ của ngành sắc ký khí (gas chromatography) người ta mới xác định rõ hơn thành phần của tinh dầu cà cuống. Trong một nghiên cứu, Đại học Suranaree bên Thái Lan đã nhận diện được 22 chất tạo hương ở cà cuống đông lạnh, và 27 chất ở cà cuống luộc. Thành phần chính là hai chất: hexenol acetate và hexenyl butyrate. Tất cả các hợp chất này cấu thành mùi hương đặc trưng của cà cuống. Từ những kết quả phân tích này, người ta dùng kỹ thuật phối hương để chế ra tinh dầu cà cuống nhân tạo.
Đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, lần đầu tiên tôi biết tới thứ cà cuống nhân tạo này khi đang tu nghiệp ở Manila. Một anh bạn sinh viên Việt Nam ở Phi, dân Bắc kỳ di cư, đã bất ngờ kiếm được một chai tinh chất cà cuống do Thái Lan sản xuất tại một cửa hàng trên phố Tàu Manila. Cuối tuần, khi tới nhà một Việt kiều tại Phi chúng tôi làm món bánh cuốn Thanh Trì. Trịnh trọng mở nút chiếc chai nhỏ xíu, mùi cà cuống xông lên làm nức chí mọi người. Nhưng, như gió thoảng mưa sa, chỉ trong chớp mắt, mùi hương bay đi mất. Của giả chẳng thể so sánh được với của thật. Khi qua định cư tại Montreal, ăn bánh cuốn, tiệm cũng hỏi khách, nếu khách thích có mùi cà cuống thì chi thêm ít tiền để có được vài giọt chất cà cuống…giả mạo. Gọi là…để tưởng nhớ mùi hương. Chưa kịp nhớ, hương đã cao bay xa chạy!Cà cuống làm bằng hóa chất như vậy là hàng nhái.
Chẳng ai chuộng. Tinh dầu cà cuống chính tông chỉ có con cà cuống được đóng vai trò nhà sản xuất, một loại nhà sản xuất bủn xỉn. Mỗi con cà cuống chỉ cho được 0,02 mililitretinh dầu. Tính ra muốn có 20 mililitretinh dầu phải cần tới một ngàn chú cà cuống đực. Tinh dầu này ở dạng lỏng, nhẹ hơn nước nên dễ bị bay hơi kiến cho việc bảo quản khá khó khăn. Tôi nhớ ngày đó ông bà tôi thường đựng tinh dầu này trong những chai dùng để đựng thuốc chích penicillin có nắp đậy bằng cao su. Sau khi đã dùng hết thuốc, lấy chai không, rửa sạch để đựng tinh dầu cà cuống. Muốn chắc ăn hơn, lấy giấy ni lông bao thêm nhiều lớp bên ngoài nắp, cất vào tủ chè có khóa. Tết nhất hoặc giỗ chạp mới đem ra dùng.
Bắt được cà cuống, đè ra lấy tinh dầu cũng phải có nghề. Đây là công việc đòi hỏi khéo tay, tỉ mỉ, nhẩn nha. Nếu nóng vội bọng tinh dầu có thể bể, uổng một đời cà cuống! Đầu tiên, người ta bẻ gập đầu cà cuống xuống tận ngực, hai bọng dầu sẽ lòi lên trên sóng lưng. Bọng dầu này, gọi là “chỉ dầu”, dài khoảng từ 2 tới 3 milimetre, trông giống như sợi bún tàu. Lấy một cây tăm tre nhọn, khẽ khều bọng dầu lên, bỏ vào chai. Cần phải tách dầu ra khỏi bọng, nếu không tinh dầu sẽ có mùi hôi.
Dân ta biết tới hương vị cà cuống từ rất lâu, khoảng 2.200 năm trước, từ thời Triệu Đà lận. Con cà cuống dĩ nhiên không biết tự đặt tên. Tên của muôn loài do con người đặt. Nhưng tại sao lại là cà cuống? Nhà văn Vũ Bằng, trong cuốn “Thương Nhớ Mười Hai”, đã cà kê dê ngỗng như thế này: “Tục truyền rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở nước ta ăn cơm với con cà cuống. Thấy thơm một cách lạ kì, ông ta bèn gửi dâng vua Hán một mớ và gọi nó là “quế đồ”, nghĩa là con sâu của cây quế. Vua Hán nếm thử thì nhận rằng nó giống mùi quế thực, khen ngon và phân phát cho quần thần mỗi người một con. Bất ngờ trong đám có một ông lắm chuyện tâu rằng: “Đó không phải là con sâu sống ở trong cây quế mà chỉ là một con sâu sống ở dưới nước “thuỷ đồ”. Vua mới phán rằng: “Thử nãi Đà chi cuống dã”, nghĩa: đó là lời nói láo của Đà. Từ đó, cà cuống thành ra đà cuống. Nó còn một tên nữa là “long sắt”, nghĩa là con rận rồng. Con rận rồng! Nghe tên có quý không? Ta có tám món ăn quý nhất gọi là bát trân : nem công là một, chả phượng là hai, da tây ngu là ba, bàn tay gấu là bốn, gân nai là năm, môi đười ươi là sáu, thịt chân voi là bảy, yến sào là tám. Con rận rồng không phải là một thứ trân, mà chỉ nên coi là gia vị, nhưng nghe tên thì quý có phần hơn cả bát trân là khác”. Cà cuống hay rận rồng không nằm trong bát trân nhưng chen chân được với ngà ngọc. Trong các món đồ Triệu Đà triều cống vua Hán ngày đó, người ta ghi nhận được các món sau: một đôi ngọc bích trắng, một ngàn bộ lông chim trả, 10 sừng tê, 500 vỏ ốc màu tía, 40 đôi chim trả sống, 2 đôi chim công và một giỏ cà cuống. Như vậy, nằm kề bên cạnh các thứ chi bảo, cà cuống cũng thuộc loại oai lắm rồi!
Thứ oai phong như vậy hình như trời chỉ cho miền Bắc nước ta? Không hẳn vậy, miền Nam cũng cà cuống như ai nhưng người ta không biết dùng. Tác giả Tuyết Nhi, một người mà tôi chắc là sinh trưởng trong Nam, đã viết: “Nhiều năm trước, cứ vào mùa nước nổi là tôi lại theo cha giăng lưới, dở dớn, kéo chài… Tôm cá miền Tây thì nhiều vô số kể còn cà cuống thì thỉnh thoảng cũng thấy vài con. Tuy vậy, ở xóm lưới quê tôi dường như không ai biết con cà cuống có thể ăn được cả. Như bây giờ, khi hỏi cha tôi con cà cuống ăn được không, ông kinh ngạc bảo: “Trời, con đó mà ăn uống gì! Nhìn thấy ghê!”. Vậy đấy, có những thứ đặc sản mà đôi khi mình không biết, lại bỏ qua”. Một tác giả khác kể lại chuyện bắt cà cuống ở Cần Thơ: “Hằng năm, cứ vào mùa mưa là cà cuống xuất hiện. Chúng rất thích ánh đèn, mỗi khi màn đêm buông xuống, nơi nào có ánh đèn sáng chúng thường bay ra. Biết được những đặc điểm nêu trên, chúng tôi thường tụ tập dưới những cột đèn đường sau những cơn mưa để bắt cà cuống. Lúc bấy giờ, công trình làm Bến Xe Mới ở Cần Thơ quê tôi, đã hoàn thành nhưng chưa đi vào hoạt động. Đây là điểm tập kết của chúng tôi hằng đêm để rượt bắt cà cuống. Mỗi đêm, nếu may mắn chúng tôi bắt được vài trăm con cà cuống rất dễ dàng”.Chuyện khá lạ lùng. Dân Cần Thơ cũng đuổi bắt cà cuống dưới ánh đèn đường y chang như chúng tôi ở Hà Nội. Ngạc nhiên hơn nữa khi tác giả Vũ Thế Thành kể chuyện bắt cà cuống ngay tại Tân Định, Sài Gòn. “Hồi nhỏ tôi vẫn theo lũ bạn đi bắt cà cuống ở những cột đèn đường, đem bán cho mấy người ve chai. Cà cuống rẻ rề, cả chừng hai chục con mới được 5 cắc. Họ thu gom cà cuống, bỏ trong thùng sắt tây, sau này tôi mới biết, họ đem bán cho một tiệm thuốc tây ở đường Hai Bà Trưng, Tân Định, trích lấy tinh dầu. Chỉ con đực mới có tinh dầu. Hồi bắt cà cuống, tôi đâu có biết đực cái thế nào, hễ thấy cà cuống là chộp. Vậy mà đực cái gì họ cũng mua. Con đực được khều lấy tinh dầu. Rồi sau đó, đực hay cái gì cũng lên… chảo chiên hết”.
Chuyện cà cuống bay la đà dưới ánh đèn đường đã đi vào cổ tích. Chúng tuyệt giống nơi phố thị. Nhưng ngày nay cà cuống lại nở rộ ở miền Nam do có cả một kỹ nghệ nuôi cà cuống. Nghe nói có rất nhiều trang trại nhưng có lẽ trang trại nuôi cà cuống của anh Lê Thanh Tùng ở ấp Bến Đò 2, xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, thành lập từ năm 2007, là quy mô nhất. Đất Củ Chi bên cạnh nhà anh Tùng là vùng đất rộng mênh mông bị bỏ hoang từ lâu, cỏ cao lút đầu người. Đó là nơi anh Tùng hội ngộ với cà cuống. Vì là đất hoang nên môi trường không bị ô nhiễm, các loài côn trùng mặc sức sinh sôi nảy nở, trong đó có cà cuống. Anh Tùng là người mê nuôi các loại côn trùng. Anh khởi đầu bằng cách nuôi dế. Gia đình anh sống nhờ trại nuôi dế này cả chục năm trước khi anh nghe nói tới cà cuống. Anh cũng chỉ nghe sơ sơ biết cà cuống là đặc sản hiếm hoi trên Sài Gòn nên tìm đọc sách vở nói về thứ côn trùng lạ lẫm này. Anh biết được là cà cuống thường sống trong hồ, ao, đầm lầy, ruộng lúa, ban ngày ở dưới nước, ban đêm bay lên. Thức ăn của chúng là tôm tép, nòng nọc và cả cá lẫn ếch nhái. Sau bốn tháng lặn lội vừa bắt côn trùng, vừa có ý tìm kiếm cà cuống, anh bắt được đúng năm con. Anh khởi nghiệp nuôi cà cuống từ năm…tù nhân này. Anh nuôi chúng trong hồ xây, thả dày đặc lục bình. Anh chia sẻ: “Khi càng hiểu nhiều về nó, tôi càng mê. Xem trên sách báo, nhiều nhà khoa học cho rằng việc nuôi cà cuống là điều không thể càng làm tôi thêm quyết tâm. Mày mò nghiên cứu, tìm hiểu, tôi thiết kế những ao hồ có đặc điểm giống hệt môi trường thiên nhiên. Từ năm con cà cuống đầu tiên, tôi thả trong hồ, bỏ cá con vào làm thức ăn cho chúng. Chỉ vài tuần, chúng đẻ trứng và nở ra đến vài trăm con”. Ngày nay, trang trại của anh lúc nào cũng có khoảng năm ngàn cà cuống. Anh làm đông lạnh và bán cho khách thu bạc triệu mỗi ngày. Nhưng anh Tùng là một nông dân có tâm. Anh không giữ độc quyền. Những nông dân nào muốn theo nghề, anh sẵn sàng nhượng con giống, chỉ cách nuôi và mua lại thành phẩm. Theo anh, có như thế mới phát triển được một ngành nuôi mới.Chắc chúng ta đều biết câu thành ngữ: cà cuống chết đến đít vẫn còn cay.
Ngoài nghĩa đen khen ngợi tinh dầu cà cuống, câu này còn có nghĩa bóng, ám chỉ những người ngoan cố, bảo thủ, cố chấp, cay cú trước sự thất bại hoặc cái sai trái rành rành của mình. Tôi vốn có lòng thương cà cuống, ít nhất chúng là một phần tuổi thơ của tôi, nên rất bất mãn với cổ nhân. Cà cuống đâu có cay như ớt, như gừng để gừng càng già càng cay. Tinh dầu cà cuống thơm tới mê đắm. Vậy có nên chăng sửa lại câu thành ngữ trên: cà cuống chết đến đít vẫn còn…thơm!
Tài liệu về quả dưa leo này đã được đăng tải trên tờ The New York Times vài tuần trước đây, một tờ báo thường giới thiệu những phương pháp khá sáng tạo và lạ lùng, để giải quyết những vấn đề thông thường. Sau đây là những khám phá thú vị về quả Dưa leo :
1/ Dưa leo chứa rất nhiều loại sinh tố mà chúng ta cần mỗi ngày như Vit. B1, B2, B3, B5, B6, Calcium, Iron, Magnesium, Phosphorus, Potassium, and Zinc.
2/ Khi cảm thấy mệt mỏi vào buổi trưa, quí vị hãy để qua một bên các loại thức uống có cà phê, và hãy chọn lấy một quả dưa leo. Dưa leo có các loại Vitamin B, và Carbohydrates, có khả năng làm quí vị hưng phấn trở lại được vài giờ đồng hồ.
3/ Khi chiếc gương trong phòng tắm bị mờ đi vì hơi nước, quí vị hãy dùng một lát dưa leo, thoa dọc theo gương, chỉ trong chốc lát, gương sẽ trong lại và tỏa ra một mùi thơm tựa như quí vị đang ở trong phòng tắm hơi.
4/ Khi loài ấu trùng và ốc sên đang hủy hoại những luống cây ngoài vườn nhà, quí vị hãy đặt vài lát dưa leo vào trong một lon đồ hộp nhỏ, vườn của quí vị sẽ không còn những loài sâu ay ốc sên phá hoại trong suốt vài tháng trời. Lý do là vì những hóa chất trong dưa leo phản ứng với chất nhôm của lon đồ hộp, sẽ tỏa ra một mùi hương mà con người không thể cảm nhận được, nhưng lại khiến cho các loài côn trùng khiếp sợ và bỏ chạy khỏi vườn.
5/ Quí vị đang muốn tìm một cách nhanh chóng và dễ dàng nhất để loại trừ những tế bào mỡ trên da (cellulite) trước khi vào hay bước ra khỏi hồ tắm ? Hãy thoa một hay hai lát dưa leo trên những vùng da quí vị muốn. Các hóa chất thực vật sẽ khiến cho lớp collagen trên da trở nên săn chắc và do đó, khiến cho cellulite trên da khó nhìn thấy. Cách này cũng tác dụng rất tốt trên các nếp nhăn nữa.
6/ Quí vị muốn tránh cảm giác choáng váng hay nhức đầu dữ dội sau khi uống rượu chăng ? Hãy ăn vài lát dưa leo trước khi đi ngủ. Khi thức dậy, quí vị sẽ thấy tỉnh táo và hết nhức đầu. Dưa leo chứa một lượng đường vừa đủ, các loại vitamin B, và các chất điện giải để tái bổ sung những tinh chất sinh tố cần thiết mà cơ thể đã bị mất đi, hầu tái lập sự cân bằng, xua tan cảm giác choáng váng hay nhức đầu.
7/ Quí vị muốn tránh một bữa ăn trưa, hay ăn tối thịnh soạn chăng? Dưa leo đã được dùng hàng thế kỷ nay, ngay cả bởi những người giăng bẫy thú rừng, các nhà buôn, các nhà khai phá Âu châu khi muốn có một bữa ăn nhanh, họ đã ăn dưa leo để không còn cảm giác đói bụng nữa.
8/ Quí vị sắp có một cuộc họp quan trọng, hay một cuộc phỏng vấn tìm việc làm, nhưng lại không đủ thời gian để đánh bóng đôi giầy của mình. Hãy thoa một lát dưa leo tươi lên giầy, hóa chất của dưa leo sẽ khiến giầy bóng lên, tuy không thật hoàn hảo nhưng cũng có tác dụng chống thấm nước.
9/ Trong nhà quí vị không có loại dầu chống rỉ sét WD 40, nhưng lại đang cần loại trừ tiếng kẽo kẹt từ bản lề của cửa ra vào. Hãy dùng một lát dưa leo chùi chung quanh bản lề đó, cửa sẽ không còn tiếng kẽo kẹt nữa.
10/ Quá căng thẳng nhưng lại không có thời gian để massage hay ghé vào spa, quí vị hãy cắt hết một quả dưa leo, cho vào một bình nước sôi, rồi hé mở nắp đậy, để cho hơi nóng thoát ra ngoài. Các hóa chất và dưỡng chất từ dưa leo sẽ tác dụng với nước sôi và tỏa ra một làn hương làm dịu đi sự căng thẳng.
Có một lần cũng lâu rồi, có một cô bạn dịch bài về ẩm thực Việt Nam cho một tờ báo tiếng Anh hỏi tôi từ “cháo” dịch sang tiếng Anh như thế nào? Tôi lúc đó chủ quan nên bảo với cô ấy “cháo” dịch tiếng Anh là “porridge” mà không suy nghĩ gì nhiều. Đến khi cô ấy đưa bài dịch của mình đã được đăng báo cho tôi xem thì tôi mới giật mình, vì món cháo mà bạn tôi hỏi là “cháo vịt Thanh Đa” mà dịch ra “duck porridge” thì sai bét. Sau lần đó tôi tự trách mình rất nhiều về sự ẩu tả của mình và cũng chính vì vậy mà tôi trở nên cẩn thận hơn rất nhiều, vì đúng là sai một ly đi một dặm.
Trong tiếng Anh có đến ba từ để nói về cháo. “Porridge” là từ để chỉ cháo trắng đặc được nấu từ gạo hoặc yến mạch gần giống như cháo trắng mà chúng ta hay dùng để ăn chung với hột vịt muối. Các nước phương Tây cũng ăn porridge nấu rất đặc vào buổi sáng cho thêm tí muối tiêu với trứng tráng hoặc xúc xích nhỏ.
Còn cháo hoa (cháo nấu với ít gạo và nhiều nước để hạt gạo nở ra như hoa) và thường nấu chung với thịt thì được gọi là “congee” hoặc “rice soup”. Để nói về món cháo vịt, đáng lẽ phải gọi là “duck meat congee” hoặc “duck meat rice soup” mới đúng. Quả thật, có những cái mình nghĩ rằng mình biết rồi nhưng vẫn sai như thường.
Trở lại với cháo, lúc nhỏ tôi rất ghét ăn cháo vì cháo vừa nhạt vừa loãng, ăn xong cũng như chưa ăn, không được chắc bụng như ăn cơm. Tôi né tất cả các thể loại cháo từ cháo trắng ăn với thịt kho tiêu mỗi khi bị bệnh, cho tới cháo gà, cháo vịt, cháo lòng, cháo cá…
Trong đó, món cháo mà tôi ghét nhất là cháo trắng của người Tiều. Không như cháo trắng của người Việt bán ở các xe cháo khuya ăn cùng với dưa món, hột vịt muối hoặc thịt cá kho tiêu, vốn là cháo trắng nấu đặc; cháo trắng của người Tiều nấu rất loãng, bảy phần nước và ba phần gạo, nấu tới hạt gạo nở bung ra gần như nát nhừ, ăn chả có mùi vị gì cả.
Người Tiều ăn cháo gần như trong mọi bữa ăn. Buổi sáng của người Quảng Đông, sang thì điểm tâm với đủ thứ há cảo xíu mại, bình dân thì cũng tô hủ tíu mì hay cái bánh bao; còn buổi sáng của người Tiều thì ăn cháo loãng với cà na muối, hột vịt muối hoặc cải xá bấu muối thật mặn. Sang hơn tí thì người Tiều có thêm cặp dầu cháo quảy là xong bữa ăn sáng. Buổi trưa và buổi chiều thì họ lại tô cháo loãng được múc ra húp thay canh. Ngay cả những quán bán đồ ăn người Tiều cũng luôn có nồi cháo trắng kế bên nồi cơm.
Hồi còn nhỏ, mỗi lần dẫn tôi đi ăn cơm Tiều, ba tôi luôn kêu thêm chén cháo trắng để húp với ít nước thịt kho còn lại. Khi tôi tỏ vẻ không hứng thú với việc húp chén cháo trắng nhạt thếch lõng bõng này, ba tôi hay bảo: “Hồi ba còn nhỏ, a dè a mà (ông nội bà nội) nghèo lắm, cả nhà bảy tám anh chị em, mỗi người chỉ có dách gủn pạc chúc (một chén cháo trắng) và pun che hàm tản (nửa cái trứng vịt muối) thôi.”
Ba tôi chẳng bao giờ dạy cho tôi nói tiếng Quảng Đông một cách bài bản mà luôn có cách nói chuyện nửa Việt nửa Quảng như vậy, con cái hiểu thì hiểu không hiểu thì thôi. Vậy mà cuối cùng tôi cũng nói được tiếng Quảng.
Người Tiều không chỉ ăn cháo trắng mà còn có cả cháo lòng với đầy đủ tim gan cật ruột cũng gần giống như cháo lòng của người Việt; nhưng lòng xắt lát mỏng để bên ngoài chứ không nấu trong nồi như cháo lòng của người Việt, khi nào khách gọi thì mới trụng qua cháo rồi cho vào tô.
Nước cháo được nấu bằng mực, nấm rơm và xương ống nên rất ngọt và thơm. Người Tiều ăn cháo lòng cũng thường thêm dầu cháo quảy như người Việt nhưng không bỏ giá và ớt mà bỏ rất nhiều hành lá xắt nhỏ, tiêu xay, gừng tươi xắt sợi và một ít dầu mè.
Cũng như ăn hủ tiếu mì, người Hoa ăn cháo thường nêm thêm giấm đỏ và nước tương chứ không nêm nước mắm. Không chỉ có cháo lòng mà cháo cá, cháo mực, cháo thịt bằm hoặc cháo tôm viên khi ăn cũng nêm nếm như vậy: gừng tươi, dầu mè, tiêu, xì dầu và giấm. Cháo lòng kiểu người Tiều hồi đó tôi cũng có ăn một vài lần ở chợ Bàn Cờ quận 3 nhưng vì không hảo cháo lắm nên lâu rồi cũng không ăn lại.
Dân sành ăn tối Sài Gòn – Chợ Lớn chắc ít người không biết tới quán cháo thập cẩm ở bùng binh Soái Kình Lâm kế bên chợ thuốc bắc Phùng Hưng. Cháo ở đây nấu theo kiểu người Quảng Đông là cháo trắng nấu đặc và ăn với tôm, mực, da heo, gan, cật, phèo nên gọi là “chạp chúc” (cháo thập cẩm).
Thật ra gọi là “thập cẩm” không đúng lắm vì “chạp cẩm” dịch ra tiếng Việt là “tạp cẩm” mới đúng. Có lẽ chữ “tạp” nghe có vẻ hổ lốn và hỗn tạp quá nên người Việt mới gọi là “thập cẩm” cho sang hơn.
Theo lời kể của những người sống lâu ở Chợ Lớn thì quán cháo Đèn Năm Ngọn (tên cũ của khu Soái Kình Lâm) này đã có từ rất lâu đời rồi, nếu tính tới nay chắc cũng không dưới năm sáu chục năm. Hồi nhỏ, ba tôi hay chở tôi ra đây ăn, nhưng quán cháo này gắn với một kỷ niệm khá kinh dị nên tôi không bao giờ quay trở lại ăn nữa, dù thỉnh thoảng thèm món Hoa, tôi vẫn chở bà xã đi vòng vòng Chợ Lớn ăn lại những quán gắn liền với ký ức tuổi thơ của mình.
Có một lần khi đang ngồi ăn với ba mẹ tôi ở quán cháo đó, có một cậu bé trạc tuổi tôi lúc đó (5-6 tuổi) bán vé số mời mua. Và khi nhìn lên thì tôi suýt nữa hét toáng lên vì sợ: cánh mũi của cậu bé này không biết bị ai cắt mất chỉ còn hai cái lỗ sâu hoắm nhìn vừa đáng thương vừa đáng sợ. Hình ảnh đó ám ảnh tôi tới ngày hôm nay đến mức tôi không dám ăn lại quán cháo đó lần nào nữa cho dù đã hơn 30 năm rồi.
Dạo mấy năm gần đây tôi lại đổi tính thích ăn cháo. Nhiều lúc cảm thấy mệt trong người hoặc chỉ là đơn giản không muốn ăn cơm thì một chén cháo trắng và nửa cái hột vịt muối luộc hoặc tí thịt kho tiêu mặn cũng có thể giải quyết cơn đói và nhẹ người.
Cầu kỳ hơn một tí thì cho cái trứng hột vịt bắc thảo và tí thịt bằm vào trong nồi cháo quấy lên. Tôi thích ăn trứng bắc thảo nấu chung với cháo hoặc chưng cùng với trứng vịt tươi, trứng vịt muối tạo thành món trứng 3 màu ăn chung với cơm hay cháo gì cũng rất ngon.
Hột vịt bắc thảo (tiếng Quảng Đông gọi là pì tản) ai ăn không quen thì nhìn hơi sợ sợ vì cả quả trứng đen bóng và có mùi ngai ngái của amoniac, nhưng khi đã quen rồi thì sẽ ghiền vì vị béo béo bùi bùi rất đặc trưng.
Hồi còn ở Mỹ có lần tôi nấu cháo trứng vịt bắc thảo mời cô bạn người Nhật ăn thử. Cô lúc đầu còn ngại vì thấy màu cháo đen thui nhưng khi ăn một chén thì tự động vô nồi múc thêm chén nữa. Bởi vậy mới nói, không phải cứ là sơn hào hải vị mới ngon mà đôi khi những thứ dân dã đơn giản nếu hạp khẩu vị vẫn ngon hơn yến sào bào ngư vi cá vậy.
Tháng 9, 10 là khoảng thời gian hoa bỉ ngạn nở đỏ rực khắp Nhật Bản. Đây là loài hoa biểu tượng mùa thu của đất nước này.
Hoa Higanbana, hay còn gọi với cái tên bỉ ngạn, là một trong những loài hoa mang tính biểu tượng của mùa thu ở Nhật Bản, thường bắt đầu nở từ giữa tháng 9 đến hết tháng 10. Cánh đồng bỉ ngạn lớn nhất Nhật Bản ở Kinchakuda, thành phố Hidaka, tỉnh Saitama. Nơi đây cách thủ đô Tokyo khoảng 1 giờ di chuyển bằng tàu. Ảnh: Sora__films.
Vé vào cửa là 2,86 USD. Vào mùa cao điểm, toàn bộ khu vực này sẽ được bao phủ bởi hơn 500 triệu bông hoa đỏ rực. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh ngoạn mục nhất mùa thu. Hoa bỉ ngạn ở đây nở đẹp nhất từ giữa đến cuối tháng 9. Lúc này, lễ hội Kinchakuda Manjushage sẽ được diễn ra. Ảnh: Totsutotsu.
Năm nay, lễ hội bị hủy bởi diễn biến phức tạp của dịch Covid-19. Ngoài ra, Nhật Bản còn nhiều địa điểm khác để du khách ngắm cánh đồng hoa bỉ ngạn như công viên Kenei Gongendo, đền Gugyo-ji, Anao-ji, Katsuragi Hitokotonushi, sông Yakachi và Bảo tàng Tưởng niệm Nankichi Niimi… Ảnh: JW.
Mỗi nơi thu hút du khách bởi một vẻ đẹp riêng. Đền Gugyo-ji là nơi 50.000 cây hoa đỏ 40 năm tuổi nở rộ. Ngoài ra, điểm đến này còn có loài hoa bỉ ngạn trắng, tạo nên sự tương phản giữa ngập tràn sắc đỏ. Dù đang trong mùa dịch, nhiều du khách vẫn tranh thủ ghé thăm cánh đồng bỉ ngạn để ngắm hoa và check-in, sống ảo. Ảnh: Kayllasinzimbra.
Công viên Kenei Gongendo là địa điểm nổi tiếng khác ở tỉnh Saitama để chiêm ngưỡng bỉ ngạn. 3,5 triệu bông bỉ ngạn đỏ nở rộ dưới những tán cây xanh tươi của công viên thu hút lượng lớn du khách ghé thăm hàng năm. Trong khi đó, đền Katsuragi Hitokotonushi nổi bật với hàng bỉ ngạn nở xen kẽ giữa ruộng bậc thang. Ảnh: JW.
Sông Yakachi và Bảo tàng tưởng niệm Nankichi Niimi thu hút với 3 triệu bông nở dọc bờ sông lãng mạn. Bỉ ngạn thuộc cây thân thảo lâu năm, chiều cao khoảng 40-100 cm. Hoa có 3 màu chính đỏ, trắng và vàng. Bỉ ngạn ở Nhật mang ý nghĩa hồi ức đau thương, biểu tượng cho vẻ đẹp của cái chết, sự chua xót khi phân ly, từ biệt… Ảnh: Builtforearth.
Vào mùa hè, khi nhiệt độ quá cao, cây bỉ ngạn sẽ chết. Trong tiếng Nhật, higan (bỉ ngạn) có nghĩa là bồng lai. Theo dân gian, người Nhật cho rằng bỉ ngạn là cửa ngõ để đi vào thế giới của những người đã chết. Vào những ngày người trần gian gặp người âm giới, bỉ ngạn là nơi trú ngụ của những linh hồn. Ảnh: Mosusandesu.
Trong suốt chiều dài của lịch sử, có lẽ chưa có bữa yến tiệc nào xa hoa và tốn kém bằng bữa tiệc Tết xuân Canh Tý năm 1874 do Từ Hi Thái Hậu đời nhà Thanh, Trung Quốc tổ chức nhằm thiết đãi sứ thần, tướng lĩnh của các quốc gia phương Tây.
Quan khách nhận được thiếp mời từ ngày 23 tháng Chạp năm Quý Dậu (1873), bao gồm 400 khách mời, trong đó có 212 vị khách đến từ 8 quốc gia liên minh đánh Trung Quốc và 188 công thần của triều đình Mãn Thanh. Thực đơn có đến 140 món ăn, khai tiệc vào 12 giờ đêm Giao thừa năm 1874, kéo dài đến giờ Tý đêm mồng 7 Tết, hao tốn 98 triệu hoa viên Trung Quốc, vào khoảng 374 vàng và cần đến 1750 người phục dịch.
Hình Từ Hi Thái Hậu
Ngay từ rằm tháng 2 năm Quý Dậu (1873), mỗi tỉnh ở Trung Quốc được lệnh tiến cử 10 đầu bếp giỏi nhất để vào kinh thành hội ý thực đơn, sau 2 tháng bàn bạc, các đầu bếp đã đưa ra thực đơn gồm 140 món ăn, trong đó có 7 món vô cùng đặc biệt, và 7 đêm bữa tiệcdiễn ra, mỗi đêm chỉ dùng một món.
Vào đêm 30 Tết, tất cả khách mời của buổi tiệc sẽ tề tựu tại Duy An Cung, cùng thời điểm đó, Từ Hi Thái Hậu dự lễ trừ tịch ở miếu Tôn Long. Sau ba hồi chiêng trống long phụng được vang lên là hồi khánh ngọc bao tin Thái Hậu xuất cung. Quan khách sẽ đồng loạt đứng dậy hướng về long kiệu nơi có 8 vệ sĩ lực lưỡng khiêng, Thái Hậu sẽ khẽ vén màn bước ra để chào quan khách.
Sau ba hồi chiêng, thái thú Lý Hồng Chương sẽ thay mặt phát biểu ý nghĩa của buổi yên tiệc này nhằm mục đích thắt chặt tình giao hữu giữu triều đình nhà Thanh và các nước phương Tây. Thay mặt 8 nước, sứ giả của Anh quốc đáp lời. Và tiếp theo ba tiếng ngọc khánh báo hiệu yến tiệc bắt đầu, các khách mời sẽ ngồi cách nhau một mét, sau lưng có 2 người hầu nam và nữ đứng phục dịch.
Cứ hết mỗi một món ăn, nhạc sẽ tấu lên một bản, sau khi dùng đúng 5 món, khách mời sẽ được uống một chén rượu thuốc nước có tác dụng tiêu thực. Tất nhiên, rượu để đãi khách cũng là loại rượu quý và đại bổ. Nhà bếp sẽ dọn lên 20 món mỗi ngày, trong đó có một món đặc biệt nhất như đã đề cập. Cứ mỗi lần dùng một món ăn mới thì Từ Hi thái hậu sẽ gõ khánh ngọc, một viên thái giám lại vòng tay xướng tên món ăn.
Hãy cùng tìm hiệu 7 món ăn đặc biệt này nhé.
Sâm thử (chuột sâm)
Sâm thử nghĩa là chuột được nuôi bằng nhân sâm. Chuột sau khi sinh sẽ được đem nuôi trong lồng kính, ăn các loại sâm hảo hạng và uống nước suối cho đến khi sinh ra con thì sẽ lấy những con đó nuôi riêng theo cách thức trên để cho ra thêm một lớp chuột mới, nhưng lớp chuột mới vẫn chưa được dùng, cứ nuôi như thế đến đời thứ ba thì chuột mới thực sự "Thập toàn đại bổ".
Món ăn đặc biệt này được dọn ra, mọi người nhìn nhau, Thái Hậu cầm nĩa xúc một con chuột bao tử (chuột con mới sinh còn chưa mở mắt) ăn để cho mọi người có thể học theo, nếu ai tinh mặt sẽ thấy con chuột kêu lên chin chít và có một tia máu bắn ra.
Thái hậu thưởng thức món ăn một cách thong thả như thể muốn kéo dài hương vị món ăn tuyệt diệu này, có thể thấm nhuần trí óc, cơ thể và nói: "Mời chư vị". Nhưng lại không có ai động đũa, thái hậu cười và nói rằng người tiếc không thể thấm nhuần được văn minh Âu- Mĩ của các sứ giả, nhưng riêng về cái ăn thì người thấy quả là các sứ thần chậm tiến, không biết được cái gì là ngon, là bổ, về món ăn này, có lẽ các sứ giả còn phải học hỏi các nước phương Đông.
Não hầu (óc khỉ)
Ở gần núi Thiên Hoa vùng Sơn Đông có rừng lê được gọi là Lê Ngọc Căn, trị được các bệnh cam, thận, nhiệt uất, ho kinh niên. Nhưng rừng lê đã bị một bầy khỉ ở đó ăn hết, vì vậy thịt khỉ ở đây thơm, ngon, đại bổ, ăn vào trị được bệnh bán thân bất toại.
Tương truyền rằng về dược tính, não của bầy khỉ này còn quí hơn gập bội. Từ Hi thái hậu hạ lệnh phải bắt được 200 con khỉ trẻ, chưa thay lông, mỗi một con được thưởng 110 lượng vàng. Số khỉ Thiên Hoa Sơn đem đãi khách là 80 con, cứ 5 người ăn một bộ óc khỉ. 80 con khỉ này được tẩm bổ hàng ngày.
Để giảm bớt độ man rợ, Từ Hi thái hậu cho khỉ mặc áo quan, mũ mão như các tham quan, nịnh thần, nghịch tặc… trong lịch sử Trung Quốc và cho rằng cái chết của chúng là "xứng đáng".
Mỗi con khỉ sẽ được đặt trong một cái lồng nhỏ, như cái trống con, có thể khép lại và mở ra dễ dàng, một đầu sẽ khoét một cái lỗ vừa đủ để đầu khỉ ló lên; lồng có gông khá chắc để khỉ không thể nhúc nhích được, sau đó, người ta sẽ từ từ "hoá kiếp" cho những con khỉ. Lúc ăn, người hầu sẽ cầm một chiếc chày ngà và giáng xuống đầu khỉ, cú đập này đương nhiên đã được tập luyện, đủ để con khỉ xấu số chết ngay. Sau đó, rưới nước sâm nóng lên đầu khỉ để óc tái đi một chút. Quan khách sẽ dùng muỗng bạc để thưởng thức món ăn.
Món ăn này được liệt vào một trong những món kinh dị và vô nhân đạo nhất trên thế giới. Mặc dù chưa có nghiên cứu nào chứng minh tác dụng của óc khỉ, nhưng việc ăn tươi như vậy có thể khin người ăn mắc bệnh Creutzfeldt-Jakob- căn bệnh về não có mức độ tử vong cao. Nếu không được chữa trị kịp thời có thể dẫn đến mất mạng.
Tượng tinh (tinh khí của voi)
Trước hết, chọn những tổ yến thật to và tốt được lấy từ các đảo ngoài khơi biển Nam hải, rửa cẩn thận rồi nấu bằng nhân sâm và đường Chủng Càu Chỉ của Đại Hàn, hòa chung với nước lê Vân Nam cùng bột Kiết Châu Phấn, nấu khô lại rồi tạo thành hình con voi, cuối cùng bỏ vào lò nung cho thật chín và chắc.
Tượng tinh là các nài voi đã lấy sẵn, khi con voi làm bằng tổ yến đã được nung, các đầu bếp sẽ khoét lưng voi một lỗ trống vừa đủ nhét vào một cái bóng cá voi đã ngâm thuốc bắc phơi khô và có chứa tượng tinh trong đó. Món ăn được đem đi hấp cách thủy. Để thưởng thức món ăn, thực khách sẽ lấy một chiếc kim vàng và đâm vào bụng con voi để chất nước nhờn chảy vào chén bạc rồi uống.
Cỏ phương chi
Cỏ Phương Chi thường mọc trên phiến đá ở ngọn núi Thái Hàng. Đặc biệt, loại cỏ này chỉ vào những năm nhuận mới mọc và chỉ mọc đúng môt lần duy nhất vào ngày Trung thu, và đời sống lại rất ngắn, chỉ gặp phải ngọn gió bắc đầu mùa sẽ khô héo ngay lập
Cỏ Phương Chi. (Ảnh: Internet).
Muốn hái được loại cỏ này, trước đó một ngày người ta phải dắt lên núi một con ngựa đực trắng tuyền. Lúc mặt trời vừa mọc, dẫn ngựa tới phiến đá có cỏ, đợi ngựa ăn xong, sau đó "hóa kiếp" cho ngựa, rồi mổ bụng lấy dạ dày đem về chế thuốc, phơi khô. Tương truyền, cỏ này mát, trừ bách bệnh.
Cỏ Phương Chi sẽ được được nấu với Long Tu, người ăn vào sẽ sảng khoái tinh thần, suốt cả tháng không thấy mệt mỏi.
Trứng công
Thịt công làm nem đã là món quý, trứng chim công lại càng trân quý hơn nữa vì rất khó lấy được trứng công (khó đến gần ổ trứng vì công sẽ chống cự dữ dội để bảo vệ trứng, thậm chí công phá vỡ ổ trứng để không cho người lấy).
Công bảo vệ trứng rất kĩ lưỡng. (Ảnh: Internet).
Để nấu được món này, cần đến 100 con khỉ được huấn luyện để trộm trứng công. Kết quả thu được 500 trứng đãi khách, nhưng số khỉ lại "hi sinh" mất một phần ba.
Heo sữa Phúc Châu
Vùng Phúc Châu (Trung Quốc) có giống heo quý, thịt thơm ngon vô cùng, chuyên ăn một loại củ (giống như củ Hoành Tinh) mọc ở đồi Châu Tịch Xương.
Bữa tiệc đãi khách sử dụng 100 con heo sữa, là những con heo giống Phúc Châu 2 tháng tuổi. Heo được thui qua một lượt để làm sạch lớp lông heo. Tiếp đến người ta sẽ mổ bụng bỏ hết ruột gan rồi ướp các loại thuốc bổ quý trong vòng 3 ngày và đem chưng cách thủy. Lúc ấy thịt heo vô cùng thơm ngon, xương rất mềm.
Sơn dương trùng
Được lệnh của Từ Hi Thái Hậu, các thợ săn của vùng Hồ Bắc sau gần một tháng lặn lội rừng sâu đã bắt được 6 con dê núi đang có mang tại một cánh rừng vùng Thiên Tân. Đàn dê này sau đó được chăm sóc cẩn thận, hàng ngày được cho ăn bằng loại cỏ ở Vân Nam và Quảng Tây.
Đây là cỏ “Đông trùng hạ thảo” vô cùng quý, là vị thuốc bổ can thận. Dê ăn cỏ quý này, lại ăn thêm các lá cây thuốc bổ khác, 6 con dê núi ngày càng mập mạp, đẻ ra lứa con cũng mạnh khoẻ, to lớn hơn so với đồng loại.
Dê con vừa đúng 2 tháng tuổi được chọn lấy 14 con giao cho nhà bếp sơ chế. Sau đó, được ngâm vào thùng gỗ to đựng nước gừng và rượu quý. Đến ngày thứ 2, dê được vớt ra bỏ vào bể bằng sứ chứa sữa dê tươi và nước sâm nhung. Sau 2 ngày, người ta lấy hoa sen trắng (đã được tách cánh hoa và ghim kim vàng xuyên từ hương sen đến cuống hoa) cắm đầy mình dê.
Ngâm đến ngày thứ 10 (đúng hôm mùng 7 tiệc tàn), xuất hiện những con trùng trắng muốt đầy trong hoa sen. Nhà bếp sẽ nhặt lấy loại trùng sơn dương này chế biến thành món ăn, vô cùng bổ dưỡng, có tác dụng trị các bệnh lao phổi, tê bại, bán thân bất toại