mardi 19 janvier 2021

Song Thao viết về Lệ Thu và truyện ngắn LẼ RA

Song Thao viết về Lệ Thu và truyện ngắn "Lẽ ra"

     VĨNH BIỆT LỆ THU



Tôi biết Lệ Thu từ hồi chưa có cái tên Lệ Thu. Khi đó Oanh mới 15
tuổi, tươi mát, xinh xắn, là hàng xóm của anh bạn tôi. Anh Trần Cao S.
Hồi đó chúng tôi đang học lớp Đệ Nhị ban Văn Chương trường Chu Văn An.
Khoảng thời gian đó, năm 1956, thi Tú Tài Một, ban C, như một cuộc
vượt vũ môn. Số người đậu chỉ khoảng 10%. Chục người thi chỉ có một
người đậu. Đi nghe đọc kết quả thi như đi nhận bản án. Số báo danh
được xướng lên cách từng quãng lớn. Có khi cả phòng thi không có một
người đậu. Vậy nên học thi tới xanh lét người.
Nhà S. hồi đó ở đường Hòa Hưng, có phòng rộng rãi, chúng tôi tụ nhau
lại học thi. Học chung như vậy có cái lợi là người nọ chỉ cho người
kia nếu chưa thấu hiểu bài. Nhà Oanh ở ngay sát vách nhà S. Oanh chơi
với cô em gái S. nên chạy qua chạy lại hoài. Ngày đó, Oanh xinh xắn,
ríu rít như một con họa mi, thường rót nước, cắt trái cây cho chúng
tôi giải lao. Khi Oanh thành Lệ Thu, hát ở vũ trường, S. tới nghe
hoài, còn tôi hồi đó không có cái thú la cà những nơi đó. Lệ Thu có
nhắn S. rủ tôi tới nhưng chẳng biết sao, tôi chẳng một lần thấy Lệ Thu
trên bục trình diễn.
Năm 2004, tôi gặp lại Lệ Thu khi cô tới hát tại Toronto. Dĩ nhiên sau
từng đó năm xa cách Lệ Thu không nhận ra tôi khi tôi hỏi : “Oanh khỏe
không?”. Thấy tôi hỏi bằng tên thật, cô nàng nhíu mắt, chồm tới hỏi
gấp: “Anh là ai vậy?”. Tôi ỡm ờ hỏi lại: “Oanh còn nhớ ngày ở Hòa Hưng
không?”. Lệ Thu cuống quýt cùng tôi nhắc về những ngày đó. Cô luôn
giục tôi: “Anh nói nữa đi!”. Hình như gặp lại cố nhân của những ngày
hoa mộng đó làm cô nhỏ Oanh sống trở lại thời kỳ chanh cốm của mình.
Chúng tôi nhắc nhau ôn lại những kỷ niệm của thời xa xưa đó. Chính Lệ
Thu cho tôi biết anh bạn tôi, anh Trần Cao S. đã mất. Từ ngày đó tới
nay, tôi không có dịp gặp lại Lệ Thu nữa.
Giao tình của tôi với Quỳnh Giao lại là một chuyện khác. Quỳnh Giao
kết duyên với anh bạn tôi, anh DNH, bạn học tại Chu văn An và Đại học
Văn Khoa Sài Gòn. Thời gian ở Sài Gòn sau khi rời Văn Khoa, tôi chỉ
thỉnh thoảng gặp H., chưa bao giờ gặp Quỳnh Giao. Những ngày chộn rộn
đó, đã hết thời kỳ sinh viên bên nhau, mỗi người chúng tôi đều có công
việc riêng nên chúng tôi hầu như mất liên lạc với nhau. Phần lớn đã
nhập ngũ. H. cũng nhập ngũ nhưng làm ngay tại Đài Phát Thanh Quân Đội
nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần cầu Thị Nghè. Nhà tôi ở Thị
Nghè, ngày ngày đi làm phải ngang qua đài, vậy mà chẳng bao giờ gặp
nhau. Kể cũng lạ. Nhưng sau 1975 lại khác. Tôi gặp lại nhiều bạn bè cũ
trong các trại được gọi là “học tập cải tạo”. H. nhanh chân chuồn đi
được ngay năm 1975 nên tôi không gặp lại vợ chồng anh. Qua Mỹ, H. may
mắn vào làm biên tập viên của đài VOA. Chục năm sau, tôi mới được bảo
lãnh qua Montreal. Không biết sao anh biết tin để liên lạc lại ngay
với tôi. Một năm sau, năm 1986, khi đài VOA tuyển người, anh bạn gửi
đơn qua cho tôi và hối thúc tôi thi “để tụi mình lại ngày ngày gặp
nhau như ở Văn Khoa ngày cũ”. Tôi điền đơn dự thi và được sắp xếp tới
thi tại tòa Lãnh Sự Mỹ nằm trong cao ốc Complexe Desjardin ở downtown
Montreal. Ngày thi, leo lên xe buýt, tay cắp mấy cuốn tự điển, lên
đường, lòng riêng chán ngán. Nể bạn, muốn thử thời vận chứ chẳng hy
vọng chi khi biết có tới 160 người thi trên khắp thế giới, chỉ chọn có
ba người. Chữ nghĩa sau chục năm bỏ xó đã gỉ sét, hy vọng chi. Mỗi
người thi riêng rẽ tại các tòa Đại Sứ và Lãnh Sự nơi cư ngụ. Bài thi
và băng thu giọng đọc được gửi về đài tại Hoa Thịnh Đốn chấm chung.
Vậy mà tên tôi có trong số ba người trúng tuyển. H. rất mừng trước
viễn ảnh chúng tôi lại gặp nhau hàng ngày. Nhưng số tôi vất vả, đài bị
cắt giờ phát thanh, tôi phải chờ khi có chỗ trống mới có thể qua làm
việc. Ba năm sau, không được kêu, họ bắt thi lại, tôi bỏ cuộc. Vậy là
lỡ dịp qua làm hàng xóm với vợ chồng Quỳnh Giao. Trong thời gian ở thủ
đô nước Mỹ, Quỳnh Giao không có cơ hội thi thố tài năng. Chỉ ra được
ba cuốn băng “Hát Cho Kỷ Niệm”. Mỗi lần có băng, hai vợ chồng đều gửi
qua cho tôi. Tới nay tôi còn giữ được những...kỷ niệm này. Rồi Quỳnh
Giao bỏ đi Cali, ra được một số CD có giá trị, tôi cũng còn giữ được
tất cả. Trong một lần qua Cali, tôi gặp lại Quỳnh Giao tại nhà của anh
chị Nguyễn Mộng Giác. Quỳnh Giao kéo tôi ra nói chuyện riêng. Nàng tâm
sự rất nhiều, nhất là lý do nàng bỏ về Cali.
Trong truyện ngắn “Lẽ Ra”, viết vào năm 2003, tôi mượn hình ảnh của Lệ
Thu và Quỳnh Giao, hư cấu trong nhân vật Mai. Đây có lẽ là nhân vật
tôi đắc ý nhất trong các truyện ngắn của tôi.
Nay, cả hai đã người trước kẻ sau bước qua thế giới khác, họ bỏ lại
trần gian những huy hoàng của cuộc đời nghệ sĩ mà hầu như mọi người
chúng ta, cả trong lẫn ngoài nước, đều ngưỡng mộ. Hai cuộc xí xóa khá
vội vã đã khiến tôi ngơ ngẩn. Chỉ còn lại chút an ủi. Tôi đã kịp giữ
họ lại trong nhân vật Mai. Mai sẽ chẳng bao giờ bỏ đi! Mai sẽ mãi mãi
ở lại trong truyện ngắn “Lẽ Ra” dưới đây



                                     LẼ RA
*SONG THAO


“ Lẽ ra em không nên lấy Đắc.”
Tôi ngước nhìn Mai, vẫn cặp mắt mọng nước mỗi lần có chuyện buồn. Ngày
xưa tôi đã tốn biết bao nhiêu ô mai mơ vì những giọt nước mắt ẩn giấu
này. Chuyện trường, chuyện ngoài đường, chuyện bạn bè, biết bao nhiêu
chuyện đã làm buồn cô bé lúc nào cũng như một cơn mưa thu này. Có lẽ,
ngày đó, chỉ có tôi chịu hiểu và chịu chiều Mai. Soạn thì như một lò
lửa, người lúc nào cũng bắng hắng những lo toan, giờ đâu mà nghe cô em
gái nhỏ nhít nói những chuyện anh cho là vớ vẩn. Tại mày khó chịu quá
chứ sao! Đó là một lời nhận xét và cũng là câu chấm hết cho những
chuyện mà anh cho là đầu cua tai nheo của cô em gái. Bước chân vùng
vằng cùng khuôn mặt tiu nghỉu của Mai thì có nặng thêm được kí nào
trước đôi mắt của Soạn đâu. Mẹ Mai thì chôn mình trong những bận bịu
của một bà mẹ chưa già, lại vẫn cứ tưởng là vẫn còn rất trẻ, tâm trí
nằm nơi những hột xoàn, những quân bài, những kiểu cọ áo quần. Mai
chưa nói hết chuyện thì đã bị mẹ gạt đi như phủi những hạt bụi dính
trên chiếc áo mới rất ưng ý. Chuyện con nít vớ vẩn mà cũng làm mất
thời giờ của người ta!
Tôi dịu giọng thương cảm.
“ Thôi, chuyện qua rồi, em chẳng nên giữ mãi trong lòng làm chi nữa.”
Mắt Mai đờ đẫn.
“ Nhưng em sợ Đắc không hiểu cho em. Dù sao, em cũng đã chủ động trong
chuyện này.”
Tôi thực sự không muốn dây dưa mãi với nỗi phiền muộn này.
“ Anh tin nó sẽ phải hiểu. Chuyện quá khứ chắc nó đã đào mộ vùi lấp đi rồi.”
“ Em nghĩ rằng Đắc sẽ chẳng bao giờ chôn vùi được chuyện này đâu. Em
biết Đắc mà! Dù sao chúng em cũng đã có hơn hai chục năm chồng vợ. Vả
lại, em sợ anh.”
Tôi thực sự không muốn khuấy động nỗi buồn của Mai nhưng thấy cần phải
phá vỡ đi cái bóng u ẩn đang nặng nề trên cuộc gặp gỡ lại của tôi và
cô em hàng xóm đã nhiều năm xa cách.
“ Trông anh dữ lắm sao?”
Mai cúi mặt.
“ Anh không dữ. Nhưng vì anh không một lời trách cứ em nên em sợ.”
Tôi châm chọc Mai cho nhẹ bớt nét muộn sầu trên khuôn mặt tôi vẫn thương.
“ Vậy thì bây giờ anh trách cho em hết sợ nghe.”
Mai cố nhếch miệng.
“ Anh trách bây giờ thì em cũng chẳng hết sợ.”
“ Sao vậy? Anh không trách em sợ, anh trách em cũng chẳng hết sợ.”
“ Tại vì, tự trong lòng anh, anh không trách em.”
Thật ra, khi nghe tin Mai đành đoạn bỏ Đắc ra đi, tôi ngơ ngẩn như
người bị ma ám. Tôi thương cho cả hai người. Lúc đó, tôi còn ở Việt
Nam, cuộc sống ngắc ngoải trong cơm áo, nghe được tin như vậy, tôi
cũng chỉ biết buồn. Cuộc tình không do tôi vun xới nhưng tôi như có
trách nhiệm. Chính tôi đã dẫn Đắc đến nhà Mai. Hồi đó chúng tôi đang
học thi Tú Tài Bán Phần, một cuộc thi khá cam go mà mười người thi may
ra được một hai người có tên trên bảng kết quả. Ông anh tôi trước đó
đã hốc hác học đêm học ngày mà tới ngày nghe đọc kết quả cũng không
dám đi nghe, phải nhờ tôi đi nghe giùm. Tôi chưa thi nhưng nghe những
con số báo danh nhẩy cách từng quãng dài, tim cũng hốt hoảng nhẩy
trong lồng ngực. Chung quanh tôi, những khuôn mặt xám ngoét hoảng loạn
không còn hồn phách treo tim theo những vần tên hụt hẫng phát ra từ
chiếc máy phóng thanh rè rè đầy quyền thế. Cái trò đau tim đó, cộng
thêm với sự thúc hối của cửa quân trường rộng mở nếu hụt tên trên bảng
vàng, làm chúng tôi vật vờ trên đường đi tìm tương lai. Chúng tôi co
lại học thi chung với nhau cho vơi nỗi sợ. Nhà Soạn tương đối rộng
rãi, có phòng riêng, nên ngày đêm tôi và Đắc tới dùi mài kinh sử. Nhà
tôi ở trong đường hẻm sát ngay căn nhà ngoài mặt đường của gia đình
Soạn, nên tôi và Soạn thân nhau. Cả gia đình Soạn coi tôi như người
trong nhà. Chỉ có Đắc ở xa tới nên được làm khách. Mai đang học Đệ
Ngũ, tươi như một cành lan trong sương sớm, là đầu sai của các ông
anh. Thực ra, trong thời gian ngậm ngải tìm trầm, chúng tôi chẳng có
nhiều nhu cầu. Bụng dạ nào mà ăn ăn uống uống. Nhưng Mai lại cứ ngoan
ngoãn lúc thì đĩa cam, lúc thì bình nước, lúc thì chén chè, lúc thì
miếng ổi miếng cóc mang vào cho các ông Tú chờ. Mai lúc nào cũng tươi
tắn chăm lo cho chúng tôi.
“ Mời mấy anh dùng, sau này có làm ông lớn thì đừng có quên Mai.”
Tôi giỡn lại với Mai.
“ Em trông hình hài các anh thì biết, anh nào anh nấy như ve sầu mùa
đông thế này, biết bao giờ lớn được!”
Mai cười theo.
“ Ve sầu mùa đông thì rồi đời rồi, còn đâu mà xác xơ. Anh phải nói là
ve sầu ham hố, muốn bán thịt mình để mua tấm bằng. Mai thấy các anh
học mà muốn bỏ học. Mai ấy à? Đậu hay rớt, kệ! Chứ không có cái kiểu
học tàn phai nhan sắc như các anh đâu!”
Mai bưng miệng. Những ngón tay thon nhỏ, trắng ngần, e ấp dưới mái tóc
dài bóng mượt đổ xuống. Mai có những ngón tay tài hoa, những ngón tay
có lần tôi buột miệng xưng tụng là những ngón tay bắt được của trời
làm Mai mắc cở.
“ Dễ sợ! Trời to cao như thế thì tay phải là tay hộ pháp. Có bắt được
thì Mai cũng phải mang trả lại cho trời. Xấu xí chết đi ấy!”
Tôi biết Mai châm chọc tôi, nhưng thấy cái vẻ dễ thương của Mai, tôi
cố níu chiếc lưỡi thích cãi cọ của mình.
“ Ừ, tay trời làm sao sánh được với tay Mai. Trông thấy tay Mai là anh muốn vẽ.”
Mai vốn biết tài vẽ của tôi, chắp hai tay trước ngực van vỉ.
“ Thôi, cho Mai xin đi anh. Anh mà vẽ thì tay Mai lại thành tay trời
mất. Tội Mai một chút cho Mai chóng lớn!”
Mai hồi đó đang thành người lớn. Mắt đã liếc gương, miệng đã tươi tắn,
ngực đã chanh cốm, cử chỉ đã điệu đàng, nụ cười đã e dè giữ ý. Nhưng
lớn trước tuổi là đôi bàn tay Mai. Những ngón tay Mai vờn trên phím
dương cầm như những bước chân chim nhởn nhơ nhẩy nhót. Chúng tôi đã
say mê mỗi khi Mai đàn cho nghe khi nghỉ xả hơi. Mai búng ra những âm
thanh rộn rã, thanh thoát và tươi mát. Tươi mát như Mai trước phím
đàn. Mai đàn như chơi đùa. Tiếng đàn của Mai nhí nhảnh, nghịch ngợm.
Như chính Mai mười lăm.
Tôi mê tiếng đàn của Mai. Đắc còn mê hơn nữa. Mỗi lần nghe Mai đàn,
đôi mắt Đắc ngây dại dưới tròng mắt kính cận khá dầy.
Nhà hàng mờ mờ tối với những ngọn đèn vàng vọt yếu đuối tỏa một thứ
ánh sáng khiêm nhượng từ trên trần sẫm một mầu ảm đạm. Trông mập mờ
giống một phòng trà ở Saigon thời trước hơn là một nhà hàng ăn. Ngọn
nến leo lét giữa bàn chập chờn trên khuôn mặt Mai lúc sáng lúc tối.
Mai có đẫy đà hơn xưa, khuôn mặt đậm nét phấn son cũng tròn trịa hơn.
“ Em tới ăn ở đây thường không?”
“ Thỉnh thoảng. Anh thấy sao?”
Tôi quay người nhìn quanh.
“ Khéo lắm! Họ biết dùng bóng tối để cho thực khách trong mỗi bàn có
cảm tưởng gần gũi nhau hơn. Ngọn nến giữa bàn như chút ánh sáng thân
mật vun vòng người quanh bàn vào với nhau.”
Mai cầm tay tôi nói nhỏ.
“ Anh vẫn nghệ sĩ như xưa.”
Tôi xoay bàn tay lại nắm những ngón tay của Mai.
“ Đâu có nghệ sĩ bằng những ngón tay này. Anh có đọc báo. Họ vẫn nhắc tới em.”
Mai để yên tay trong tay tôi.
“ Đó là lẽ sống của em bây giờ. Vì nó mà đời em khổ. Nhưng em chấp
nhận bởi vì chính em muốn như vậy.”
Mắt tôi không chớp trước mặt Mai. Mai nhìn lại, bướng bỉnh.
“ Em lớn lên nhiều!”
Mai cười.
“ Chắc anh tránh không muốn nói em già!”
“ Không, anh không muốn nói tới cái lớn sinh học. Mỗi năm mỗi thêm
tuổi, chẳng ai trốn tránh được chuyện đó. Anh muốn nói tới tinh thần.
Sau bao nhiêu năm mới gặp lại em, anh không ngờ em lại già dặn đến như
vậy. Trong đầu anh, trong từng ấy năm xa cách, hình ảnh em trong anh
vẫn luôn luôn là hình ảnh cô bé Mai của anh những ngày tháng cũ.”
Mai vân vê chiếc khăn ăn đỏ sậm.
“ Thôi anh, anh đừng làm em khóc.”
Tôi cầm dao cầm nĩa lật úp con cá đang ăn dở trên chiếc đĩa hình bầu
dục giữa bàn.
“ Cho anh xin lỗi. Đưa cho anh chiếc chén của em. Hai anh em mình phải
xử cho xong chú cá thơm phức này. Ngày xưa em thích ăn cá lắm mà!”
Mai đưa chiếc chén mỏng tanh cho tôi.
“ Anh cho em xin. Anh nhớ dai nhỉ? Anh Đắc cũng thích ăn cá lắm.”
“ Thế à? Nó thích thật hay nó muốn chiều em vậy?”
“ Chắc anh ấy thích thật. Anh ấy gặm tới tận xương.”
Tôi bật cười.
“ Anh nói có sai đâu. Nó chiều em nên gặm xương để dành cho em phần
thịt. Cái thằng lù đù như nó lấy được em thì chiều chuộng vợ phải
biết!”
‘ Bộ anh thì hơn gì? Em nghe đồn là anh cũng biết điều với chị lắm, phải không?”
“ Em đừng nghe lời đồn của thiên hạ. Nhưng thằng Đắc, anh biết nó quá
mà! Có nhắm mắt anh cũng biết nó...phụng dưỡng em như thế nào!”
Mai nhai xong miếng cá, hớp một chút vang trắng, nghiêng đầu ngó vào mặt tôi.
“Anh thiệt!”
Đám cưới của Mai với Đắc, tôi không về tham dự được. Lúc đó tôi đang
lặn lội trong rừng sâu, làm tiền quân cho một chiến dịch lớn. Guồng
máy đang quay nhanh một cách ác liệt, con chốt là tôi tài cán gì để có
thể rút chân rút cẳng ra khơi khơi về Saigon ăn cưới. Buổi tối, mắc
chiếc võng dưới tàng cây, poncho úp kín người, tôi nằm trằn trọc nhớ
về Saigon. Saigon có Mai, có Đắc đang lao xao bước vào vòng vợ chồng.
Đã lâu tôi không gặp cả Đắc lẫn Mai nên không biết chuyện tình của hai
người ra sao. Thiệp cưới đến với tôi khá bất ngờ. Tôi thẫn thờ chẳng
buồn ăn trưa hôm đó. Mấy tên sĩ quan bạn cùng mâm tưởng tôi thất tình.
Thực ra, tôi quá thắc mắc về cuộc hôn phối này. Đắc lúc nào cũng cẩn
tắc, kỹ càng, tính trước cả cây số trước khi làm một chuyện gì, dù lớn
hay nhỏ. Mai thì phóng khoáng, văn nghệ, đam mê, chuyện gì cũng làm
xong rồi mà vẫn chưa tính. Vậy mà hai đứa lại ráp vào nhau. Bây giờ
lại còn buộc chặt vào nhau nữa. Tôi mải băn khoăn về cái thiệp cưới
không chờ đợi này đến lúng túng trong công việc. Hoàn khá tinh ý. Hắn
bắn liền. Thất tình hay sao vậy, cha nội?/ Cỡ tao mà thất tình à?/ Cỡ
nào mà chẳng thất tình được. Thuyền lớn thì có sóng lớn, cha nội ơi.
Mà thiệp cưới của ai vậy?/ Của em thằng bạn cũ./ Cha nói cô dâu hay
chú rể vậy?/ Cô dâu!/ Vậy thì đúng boong rồi, chối gì nữa cha. Cái thứ
đó là đau nhức hết biết!/ Nhức cái mẹ gì. Chú rể là thằng bạn thân của
tao. Cả hai đứa tao coi như người nhà./ Nhà cửa gì, cha nội! Cái mửng
đó lại còn nhức bạo hơn nữa!/ Mày biết cái đếch gì! Chỉ nói tầm bậy!/
Tầm bậy mà vậy vậy đúng boong. Này cha nội, chuyện đã dĩ lỡ rồi thì
tha cho chúng nó. Còn cha nội, quẳng gánh buồn đi mà...hành quân! Láng
cháng buồn với sầu, ngơ ngác giữa trận tiền, dễ ăn đạn lắm đấy. Có
thân thì lo. Dục cha nó mấy cái vụ hậu phương đó đi!
Nhớ lại chuyện cũ của tên quan ba bạn, bộ binh mà mồm miệng như pháo
binh, tôi cười vu vơ. Mai nhìn dò hỏi.
“ Anh cười gì vậy?”
“ Nhớ lại câu nói của tên bạn lính cũ khi anh nhận được thiệp cưới của em.”
“ Anh ấy nói sao?”
Tôi cố gạt đi.
“ Nó nói tầm xàm ấy mà. Nó tưởng anh thất tình. Hồi đó tên nào nhận
được thiệp cưới cũng được phong làm anh hùng thất tình. Đời lính, nay
đây mai đó, sống nay chết mai, mấy ai dám đèo bòng. Các em gái hậu
phương rủ nhau sang ngang hết. Thiệp cưới như một bức thư từ giã. Một
lời từ giã hồng!”
“ Anh buồn lắm hay sao mà anh ấy biết?”
“ Buồn chi! Em vui mà sao anh buồn được?”
Mai thở dài. Nàng đưa tay ngoắc anh hầu bàn. Hai ngón tay trỏ chụm lại
vẽ ra một tờ giấy tưởng tượng.
“Để anh trả cho.”
“ Em mời anh mà. Anh chê em không có tiền sao?”
“ Ai dám chê! Em đang gõ ra tiền mà.”
“ Anh thiệt! Không sợ em giận à? Em đàn vì nghệ thuật, vì đam mê. Tiền
chỉ là chuyện phụ.”
“ Cho anh xin lỗi!”
Mai lườm tôi.
“ Lại còn bầy đặt xin lỗi!”
Chớm thu, những tàng cây trong công viên đang trở vàng. Lác đác trên
những thảm cỏ bên đường, những cánh lá nằm như những con bướm vàng
phơi mình ngủ yên. Mai khẽ hát một khúc nhạc thu, tay nhịp nhịp trên
vòng lái. Tôi thả đầu óc ngơi nghỉ. Như đã đến bến bờ.
“ Anh còn nhớ những cánh lá me vàng đuổi nhau trên đường Nguyễn Du không?”
“ Sao mà quên được!”
“ Anh nhớ bữa anh chở em tới trường Quốc Gia Âm Nhạc không?”
“ Em bắt anh chở em đi học nhạc hoài, có nhớ bữa nào vào bữa nào đâu.”
Mai liếc sang phía tôi, lắc đầu.
“ Chán anh quá! Cái bữa gió đuổi lá me chạy lao xao trên đường một mầu
vàng rực đó.”
Tôi nhỏm người, hứng thú.
“ Bữa anh bắt em đi bộ ấy hả?”
“ Ai mà bắt được em! Bữa đó em cũng thích đi bộ đấy chứ!”
“ Nhưng mà anh nghĩ ra chuyện xuống xe dắt bộ đạp lá me mà đi.”
Mai vênh mặt.
“ Tại vì anh lái xe thì anh nghĩ ra trước chứ em ngồi sau, hai chân
cũng đã muốn đạp lá vàng lắm rồi!”
“ Đẹp thiệt!”
Mai mơ màng.
“ Lúc đó đi bên anh, em thấy anh lãng mạn quá!”
“ Anh thấy em cũng vậy!”
Mai thở dài.
“ Lúc đó em ước mong là đường cứ dài ra mãi chẳng bao giờ hết!”
Mũi xe vòng gắt sang phía trái. Mai uốn người theo. Tôi giữ chặt chiếc
tay cầm trước mặt. Bánh xe thắng gấp trước khung cửa nhà để xe.
“ Tới nhà rồi. Chút xíu nữa thì mải nói chuyện đi quá.”
Tôi nhìn Mai gật gù đầu.
“ Ngoài tài đàn, nay anh lại biết thêm em có tài dừng xe khẩn cấp. Lần
sau cẩn thận nghe cô bé!”
“ Anh cứ mắng em đi. Để em cứ ngỡ là mình vẫn còn nhỏ.”
Phòng khách nhà Mai lãng đãng những mầu vàng và xanh dịu mắt. Chiếc
đàn dương cầm đen bề thế chiếm hẳn một góc phòng sừng sững thu hút đôi
mắt tôi vừa bước vào phòng. Bên góc đối diện, tủ rượu chen lấn những
chai nhiều hình dáng và mầu sắc. Mai đứng giữa phòng, tay chỉ vào cây
đàn và tủ rượu.
“ Đời em đấy. Đàn và rượu.”
Tôi ngồi xuống chiếc nệm ghế xanh.
“ Đàn thì anh biết. Rượu thì anh hơi ngạc nhiên.”
Trên chiếc nệm ghế vàng, Mai cười.
“ Chắc anh tưởng em là bợm nhậu?”
“ Gần như vậy!”
“ Rõ ghét cái anh này! Em đâu có hư như vậy. Em thích ngắm rượu hơn uống.”
“ Mà uống cũng thích gần như ngắm!”
“ Đâu có! Cũng uống nhưng uống sơ sơ. Uống như một cách chọc quê sữa!”
Mai vụt đứng dậy, chạy ra nhấc cổ một chai, móc hai chiếc ly bằng
những kẽ tay trái, đặt xuống bàn trước mặt tôi. Nhìn bộ mặt ngơ ngác
của tôi, Mai cười.
“ Anh làm gì mà trông như đang sống ở trên rừng vậy? Em giỡn đấy!
Nhưng cũng thực đấy! Mấy chục năm sống với Đắc, ngày nào anh ấy cũng
bắt em uống sữa. Uống đến phát ngán, phát điên lên. Vậy mà em vẫn cố
chịu đựng. Lúc đó, trong thâm tâm, em nghĩ là uống rượu chắc thích
lắm. Mà thích thật anh ạ, thỉnh thoảng, đi ăn tiệc, ăn cưới, em nhấp
ké với Đắc mà thấy lợm mùi sữa. Em biết Đắc thương em. Dưới mắt Đắc,
em lúc nào cũng là cô bé Mai ngày xưa. Anh ấy không cho em lớn. Em
chịu đựng được là vì em thật tình thương Đắc.”
Hai chiếc ly lăn tăn sủi bọt khi Mai nghiêng chai đổ rượu.
“ Mừng cho cuộc gặp gỡ lại của anh em mình!”
Hai thành ly cụng nhau. Rượu tê đầu lưỡi. Vẫn Mai cảm động.
“ Mừng anh vẫn như xưa!”
Tôi lặng đi.
“ Mừng em cũng vẫn như xưa!”
Mai đặt ly xuống bàn, buồn bã.
“ Không còn như xưa đâu, anh ạ. Khi bỏ Đắc ra đi, em đã bỏ lại sau
lưng chiếc lồng kính đã ấp ủ em. Ấm cúng nhưng chật chội quá!”
“ Lúc đó em không còn thương Đắc nữa à?”
Mai lắc đầu.
“ Vẫn còn chứ anh. Em thương Đắc nhưng tội cho anh ấy nhiều hơn. Đắc
tưởng em như một con búp bê, yên ổn nép trong tình yêu của anh ấy.
Nhưng em có cái đam mê riêng của em, em thèm sống lại với đám đông,
thèm tiếng vỗ tay tán thưởng, thèm những ngưỡng mộ trong dáng đứng
đồng loạt của khán giả khi em dứt tiếng đàn. Nỗi đam mê lớn dần lên,
tuổi đời cũng cao dần lên, rồi tới lúc em hốt hoảng thấy như đã quá
trễ tràng để trở lại với sân khấu. Em bay ra khỏi lồng mà lòng còn để
lại những vương vấn. Cho tới bây giờ em vẫn thương Đắc, vẫn tội nghiệp
anh ấy, vẫn tiếc là anh ấy không hiểu em, không hiểu được tâm hồn em.”
Mai bưng ly rượu tới chiếc đàn, ngồi xuống chiếc ghế đen bóng. Cánh áo
trắng thon thả bờ lưng. Ly rượu đứng trên thành đàn. Bông hồng vàng lẻ
loi trong chiếc bình mầu xanh vươn lên như cổ thiên nga. Những nốt
nhạc dập dìu vang lên.
“ Em đàn cho anh.”
Âm thanh của bản Fur Élise lả tả rơi. Ngày xưa, mỗi lần nghe Mai đàn,
tôi chỉ thích bài này. Tôi vốn có đôi tai điếc với nhạc cổ điển của
Mai. Mai đã đi xa biết bao nhiêu đoạn đường với những năm tháng miệt
mài trên phím đàn, tôi vẫn cứ kéo Mai về với nét nhạc đơn sơ, dễ dãi
nhưng rộn ràng nhịp tim tôi. Bao nhiêu năm tìm về, Mai không hỏi tôi
mà tay đã nhấn những nốt nhạc xưa. Nhạc bảng lảng trong tôi. Một thời
sinh viên. Một thời lính tráng. Một thời tù ngục. Một thời vượt sóng.
Một thời tị nạn. Nhưng trùm lấp trong tôi vẫn là một thời ngọc ngà có
Mai lí lắc, có tôi lạng chạng, có Soạn rối rắm, có Đắc mông muội. Hai
bàn tay Mai vươn ra đập rộn ràng những nốt nhạc cuối. Nhạc vần vũ
trong tôi, mềm tim, lắng hồn.
Mai quay lại.
“ Anh thấy sao? Tiếng đàn của em.”
“ Chững chạc hơn, điêu luyện hơn, dĩ nhiên. Em làm anh chết trong nhạc
nhưng vẫn ấm ức như thiếu một chút gì.”
“ Em hiểu anh!”
Mai đứng dậy, khỏa lấp.
“ Mình uống thêm ly nữa nghe anh! Chưa bao giờ em thấy vui như hôm nay!”

1/2003

MỸ TRANG chuyển


Thêm về Huyền Thoại Lệ Thu

Phỏng Vấn Danh Ca Lệ Thu: đài SBTN




**************************************************

Đây là tiếng khóc TIỂN NGƯỜI của người chồng 11 năm bên cạnh cuộc đời của Lệ Thu : Võ Thành Đông  qua phổ nhạc của NS Mai Hoài Thu và qua tiếng hát ca sĩ Đông Nguyễn 
———

Lời bài thơ vĩnh biệt LỆ THU 

Ở chốn ấy có một nơi gọi là nhà nghi lễ
Em một mình 
Ta không thể về thăm 
Đâu phải vì đường xa
Mà bởi lòng ta muôn vạn dặm
Mười một năm bên nhau hơn mười năm đầm ấm
Ba mươi năm cách
Giờ thật sự mới chia lìa 
Chỉ ta biết nỗi buồn kia 
Lòng nghẹn ngào nhức nhối
Đêm trăn trở rớt kỷ niệm về trên gối 
Nhang trầm bay hương khói trái tim đau
Em về trước, ta đến sau
Chắc sẽ gặp lại nhau nơi nào thiên thần dẫn lối
Thiên đường xa
Em sẽ tới chẳng cô đơn 
Ta ôm hoài tiếng hát lẫn nguồn cơn
Có ánh sáng và tiếng đờn sân khấu 
Những vốn liếng nhiệm mầu một đời gương mẫu 
Tiếng hát còn vọng thấu đến ngàn sau
Đuốc hồng ân thay đèn màu
Soi đường dẫn rước hồn vào cõi không
Tiễn người thắp nén hương lòng
Đưa Thu giữa lúc trời Đông lạnh lùng
Chia phôi lần cuối nghìn trùng 
Mai sau nếu có mong đừng xa nhau ( KH / Võ Thành Đông)

lundi 18 janvier 2021

Xuất Xứ Những Bài Nhạc Việt "Vang Bóng Một Thời"

Xuất Xứ Những Bài Nhạc Việt "Vang Bóng Một Thời"


Đa số bài viết Xuất Xứ được trích từ Blog Cà Phê Diễm Xưa, lời xuất xứ được thố lộ từ chính các tác giả của nhạc phẩm!



1- XUẤT XỨ BÀI BIỆT LY

Tôi viết Biệt ly năm vừa tròn 20 tuổi trong hoàn cảnh chính quyền thực dân Pháp tuyển mộ rất nhiều người Việt Nam sang làm thợ hoặc lính đánh thuê cho các thuộc địa khác của Pháp. . Hồi đó, cha tôi làm việc ở ga Hàng Cỏ, Hà Nội.. Sân ga Hàng Cỏ bấy giờ sôi động hơn bao giờ hết, liên tục đưa đón tàu đi tàu về chuyên chở những chàng trai Việt lên đường tha hương. Người đi kẻ ở. Buồn lắm. Đau xót lắm. Cái không khí tiễn đưa không hẹn ngày về tác động mạnh đến tâm cảm vốn day dứt của tôi.Nhà ở gần ga nên tôi thường được chứng kiến những cuộc chia tay đầy nước mắt trên sân ga.

Điều đó khơi dậy trong lòng tôi nhiều cảm xúc và tôi có ý định sáng tác một bài hát về đề tài này.tôi được anh bạn kể chuyện anh ta phải lòng một cô gái nhưng bị bố mẹ ngăn cấm và mối tình tan vỡ. Câu chuyện đó và những cảm nhận của thời thơ ấu đã giúp tôi viết Biệt ly

Lần đầu, Biệt ly được công bố trước đám đông khán giả là vào năm 1940 ở Hà Nội. Chị Phụng, một ca sĩ ở ngõ chợ Khâm Thiên là người đầu tiên hát. Không còn nhớ rõ nghệ danh, tôi chỉ nhớ tên gọi thân mật là chị Phụng - một giọng hát được nhiều người Hà thành yêu mến. Sau một thời gian nằm im ắng, đến năm 1988 Biệt ly mới chính thức được hát trở lại trên các sân khấu trong Nam ngoài Bắc, được đưa vào chương trình Nửa thế kỷ bài hát Việt Nam. Cùng với Biệt ly, nhiều ca khúc tiền chiến của các nhạc sĩ khác như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Hoàng Quý... cũng được biểu diễn trở lại.

Mấy phút bên nhau rồi thôi Đến nay bóng em mờ khuất Người về u buồn khắp trời Người ra đi với ngàn nhớ thương Mấy phút bên em rồi thôi Dáng em sống trong hồn tôi Xa cách ta còn tìm đâu ngày vui Biệt ly ước bao đường tơ Réo rắt trong muôn hương mơ Thành sầu tiễn đưa Biệt ly ước mong hoàng hôn Êm đềm về ru ấm tâm hồn Người yêu đương cách xa Đành sống vui cùng gió sương.

2- XUẤT XỨ BÀI GIỌT MƯA THU

Từ ô cửa nhỏ, mưa ngâu chảy ra tới sông dài, bể rộng, bây giờ nhạc sĩ của mưa mùa thu đã đi và đi xa muôn thuở trong lòng người yêu nhạc bởi duy nhất ba bài hát bất hủ. Ba giọt nước ấy đã góp cho ly nước của nền âm nhạc Việt Nam thêm sóng sánh, quánh vàng.

Sinh ra trong một gia đình nghèo tại Nam Định, cha mất sớm, gia cảnh túng thiếu, lại có tới sáu người con.. Chú bé Phong đã phải sớm bỏ học, rời quê lên Hà Nội kiếm sống. Nhờ vào năng khiếu vẽ tranh mà Phong đã có việc cho một số tờ báo như vẽ truyện tranh, hình minh họa… và được vào học dự thính tại trường cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

Trong một kì thi, thầy giáo cho các học viên tự sáng tác. Đến lượt chấm tác phẩm của Phong, thầy giáo người Pháp TARDIEU đã rất tâm đắc, khen ngợi nhưng lại phán một câu “E rằng con sẽ không sống được lâu bởi hình là vận mệnh người” do trong đó Phong vẽ nhưng thân cây khô của mùa thu, khẳng khiu và đặc biệt tất cả đều cụt ngọn
Quả đúng như thế, cuộc sống của Phong rất long đong, khốn khổ. Anh không chỉ sống ở Hà Nội mà còn lang bạt qua Campuchia, dạt về Hà Nội với đủ nghề nhưng vẫn không thể sống nổi. Từ vẽ tranh, dạy vẽ, mở lớp dạy nhạc, sáng tác và cả nghề hát nhạc hội…

Cám cảnh với oan nghiệt cuộc đời như một định mệnh vương vào tuổi đời. Phong đã viết những bài hát não nề diễn tả tâm trạng của mình, đặc biệt cả ba bài nổi tiếng nhất đều được viết trong mùa thu vàng vọt, mưa não nề. Bởi thu chỉ đẹp và lãng mạn cho người đang mặn nồng, say đắm. Mùa thu sẽ là nỗi đớn đau của người bệnh tật từ thể xác, tâm hồn cho đến nghèo túng.

Thu 1942, Phong bệnh nặng. Một hôm mưa tầm tã, rơi lộp bộp trên mái lá, không thể ngủ, cũng chẳng thể nằm vì nước lạnh thấm ướt căn nhà nhỏ sơ sài. Phong ngồi ôm gối nhìn qua cửa sổ đếm từng giọt rơi xuống, vỡ bóng hòa vào dòng nước lênh láng, trôi tuột và nghĩ rằng có lẽ cuộc đời của mình cũng như thế. Nỗi buồn đã buông chụp xuống ngay từ khi mới chào đời. Hàng ngàn nỗi khổ đã bủa vây và chưa có ngày nhìn thấy hào quang. Đau quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để Phong gắng gượng lết tới bàn tuôn trào những cảm xúc lai láng trong một giai điệu hết sức da diết, não nề và tuyệt vọng.

“…Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây

Lòng vắng muôn bề không liếp che, gió về

Ai nức nở thương đời châu buông mau

Dương thế bao là sầu…”

Vừa viết, Phong vừa ôm ngực ho lên từng hồi dài. Bài hát được đặt tên “Vạn cổ sầu” có nghĩa là những nỗi buồn không thể giải thoát.

Ngay sau đó những người bạn vì lo lắng cho sức khỏe của Phong đã đội mưa tới thăm. Ôm đàn, vuốt ngực, đè nén cảm xúc, chàng trai trẻ đã hát cho mọi người cùng nghe thay cho tâm sự không thể tỏa bày. Cung điệu trầm lắng, rời rã, ngưng đọng, nức nở của một con người chẳng còn định hướng tựa con thuyền nhỏ trên sông vạm vỡ mờ bóng đêm. Phong đã trải lòng theo từng lời ca ngọt ngào, không ủy mị, rên rỉ làm mọi người nín lặng và cùng buồn chỉ muốn khóc.

“Bài hát hay lắm Phong ơi, như xoáy vào tim, vào óc của người cùng tâm trạng, nhưng bi thảm quá. Đặc biệt tựa đề “Vạn cổ sầu” nghe tang thương lắm, nên sửa lại đi” – bạn bè góp ý như thế với Phong sau khi cùng lén lau những giọt nước mắt. Phong nghĩ, cũng đúng, bởi đâu phải mình khóc trong lòng, mà sau này người khác hát cũng sẽ phải đồng tâm trạng. Chẳng lẽ các ca sĩ yêu bài này cũng phải chịu vận mệnh như mình sao?

Nhìn những giọt mưa ngâu của Ngưu Lang – Chức Nữ vẫn tuôn trào chưa ngơi nghỉ dội xuống qua ô cửa, Phong thấy sao phũ phàng tựa đời mình quá. Thôi thì sửa tựa cho nhẹ nhàng hơn và “Vạn cổ sầu” được đổi thành “Giọt mưa thu”.

Có lẽ bài hát như một lời tạ từ, điềm báo trước và cũng là di chúc cuối cùng nên chẳng bao lâu sau chàng nhạc sĩ tài hoa, bạc mệnh, yểu đời: Đặng Thế Phong đã mang theo “Vạn cổ sầu” mãi đi vào màn đêm nhạt nhòa khi mới 24 tuổi tại quê hương Nam Định của mình vì căn bệnh của những người nghèo: bệnh Lao.


3- XUẤT XỨ BÀI ÁO LỤA HÀ ĐÔNG

Ai trong chúng ta cũng đã từng hát một lần bài " ÁO LỤA HÀ ĐÔNG" của nhạc sĩ NGÔ THỤY MIÊN, nhưng mấy ai biết rằng bài hát này lại có xuất xứ từ một cuộc thi hoa hậu đầu tiên của Việt Nam.

Năm 1930, xứ Bắc Kỳ đã tổ chức cuộc thi người đẹp (giống như thi Hoa hậu bây giờ) với những ấn tượng lạ: không phải ở Hà Nội mà ngay tại tỉnh Hà Đông; các cô gái bất cứ lứa tuổi, kể cả đã có chồng, ngành nghề gì cũng đều được tham gia; phải mặc áo lụa của xứ Hà Đông.
Người đăng quang trong cuộc thi là người đẹp LÝ LỆ HẰNG, xuất thân từ một nông dân nghèo tỉnh Thái Bình. Do cuộc sống mưu sinh, cô phải lên Hà nội làm nghề hát cô đầu cho các quán rượu.

Sau khi thay đổi cuộc đời, cô trở nên nổi tiếng và là niềm ước mơ của bao công tử nhà giàu trong cả nước. Tuy nhiên chẳng ai có thể với tới được móng chân của người đẹp "chân lấm, tay bùn" bởi chỉ một thời gian sau Quốc Vương Bảo Đại đã chọn LÝ LỆ HẰNG làm người tình.
Có lẽ cũng như bao chàng trai si mê sắc đẹp khác, dù đã trải qua hơn 20 năm sau, nhà thơ NGUYÊN SA vẫn mơ tưởng đến nụ cười, ánh mắt khuynh đảo của hoa hậu đầu tiên và buộc ông phải viết bài thơ ca ngợi người đẹp mặc áo lụa ấy.
Mãi đến năm 1969, khi nghe câu chuyện về hoa hậu "thuần nông" phút chốc trở thành người yêu của ông vua cuối cùng Việt Nam, chàng trai 21 tuổi NGÔ THỤY MIÊN đã viết nên ca khúc nổi tiếng "ÁO LỤA HÀ ĐÔNG" được phổ lời từ bài thơ của NGUYÊN SA như để ngưỡng mộ những cô gái tựa như đóa sen vươn lên từ đầm lầy.


4- XUẤT XỨ BÀI NỮA HỒN THƯƠNG ĐAU

Vào những năm 60, báo chí Sài Gòn hao tốn rất nhiều giấy mực vì phải đăng nhiều kì vụ li dị giữa ca sĩ Khánh Ngọc và nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Tòa án xét xử nhiều lần chưa xong, vì thế vụ việc càng làm họ trở nên nổi tiếng hơn.

Lúc đó, chàng nhạc sĩ họ Phạm là thành viên chính trong ban hợp ca Thăng Long, ban nhạc đình đám nhất cả nước lúc ấy bởi các thành viên của nhóm nhạc đều là những ngôi sao đương thời như: vợ chồng ca sĩ Thái Hằng - Phạm Duy, ca sĩ Thái Thanh, vợ chồng ca nhạc sĩ Phạm Đình Chương – Khánh Ngọc…

Vợ của nhạc sĩ họ Phạm này là một ca sĩ được nhiều người biết đến với tên gọi “ngọn núi lửa” bởi cô có bộ ngực hấp dẫn và thường quyến rũ khán giả nam say đắm mỗi khi cô lên hát.

Trước khi đưa đơn ra tòa, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã nghe phong phanh vợ mình ngoại tình. Nhưng vì tình yêu nên ông vẫn tin tưởng vợ và bỏ ngoài tai tất cả những tin “lá cải” ấy. Chỉ đến khi một số người bạn hẹn ông đi bắt ghen tại Thủ Thiêm thì sự việc mới đổ bể. Chẳng hiểu sao báo chí biết rất nhanh và vụ “ăn chè Thủ Thiêm” được mọi người biết đến như một chuyện khôi hài đương thời.

Kẻ trong cuộc gây ra đổ bể này không ai xa lạ hơn lại chính là người anh rể của ông. Nhạc sĩ nổi tiếng thuở ấy: Phạm Duy.

Người đau lòng nhất :chàng nhạc sĩ. Anh rất yêu thương vợ, nhưng cả dư luận xã hội đều rõ tường tận nên đành phải gửi đơn xin li dị. Đây là quãng thời gian đau khổ, ông không còn tâm trí biểu diễn cùng các anh chị trong ban hợp ca nữa mà lui về trong bóng tối viết những tình ca buồn như để tâm sự với chính mình trong gương. Một loạt bài hát mang tâm trạng như thế ra đời: “Đêm cuối cùng”, “Người đi qua đời tôi”, “Khi cuộc tình đã chết”, “Thuở ban đầu”, “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”…
Sau li dị, ông được quyền nuôi con trai khi ấy mới khoảng 4 – 5 tuổi, bắt đầu đi biểu diễn trở lại. Một lần, tình cờ ông gặp vợ mình trên sân khấu của chương trình nhạc hội. Cuối buổi diễn ông có nhã ý muốn được tiễn cô về vì trời đang mưa nhưng Khánh Ngọc từ chối.

Ông lặng lẽ trở về căn nhà kỉ niệm, nhìn qua màn mưa nhớ về những ngày hạnh phúc giờ trôi theo dòng nước, tan vỡ như những bong bóng mưa. Một người vẫn còn đây, người còn lại đã rời xa. Trái tim yêu đã chia làm đôi. Lời thề vỡ vụn… Chịu đựng không nổi nỗi đau dằn xé, ông dự định tìm đến cái chết nhưng đúng lúc ấy tiếng khóc con trẻ đòi mẹ trong đêm làm ông phải vụt ôm con vào lòng dỗ dành mà nước mắt tuôn trào…

Hình ảnh của đêm khốn cùng ấy đã đi vào từng lời của bài hát “ Nửa hồn thương đau” được ông viết trong đêm rã rời đó như lột tả từng mảng tâm trạng bị chà xát. Nếu ai đã nghe một lần bài hát này và cũng đồng cảm với cuộc đời của nhạc sĩ Phạm Đình Chương sẽ hiểu được tâm hồn con người chỉ có thể chịu đựng một giới hạn nhất định.

Dẫu là một bản tình ca, nhưng khi nhắc tới nhạc sĩ Phạm Đình Chương, người ta lại nghĩ ngay đến “Nửa hồn thương đau” bởi sự bất hủ của tuyệt tình ca và sự chung thủy trong tình yêu của một người đàn ông. Sau này ông đã ở vậy nuôi con và ra đi lặng lẽ tại California năm 1991.


5- XUẤT XỨ BÀI GỬI GIÓ CHO MÂY NGÀN

Vào đầu thập niên 50, một nhà tỷ phú trẻ từ Hải Phòng lên tận nhà hát Lớn Hà nội để xem đoàn hát Sài Gòn ra diễn. Sau đêm đầu, chàng đã ở lại và xem tiếp những đêm sau chỉ vì đem lòng hâm mộ cô ca sĩ chính của đoàn: ca sĩ MỘC LAN.

Khi đó ca sĩ MỘC LAN đang là một ngôi sao lớn của cả nước, không chỉ đẹp, đoan trang, hiền lành mà cô còn nổi tiếng bởi đang sống rất hạnh phúc bên chồng cũng là một ca sĩ hàng đầu: ca sĩ CHÂU KÌ. Hai người từng được mệnh danh là cặp tài tử giai nhân, trai tài gái sắc.

Trở lại câu chuyện Công tử đất Cảng Hải phòng, khi cô ca sĩ về Sài Gòn, vì tương tư, anh cũng liền mua vé bay vào tìm cách gặp gỡ. Nhưng vì biết họ đang yên bề gia thất, hạnh phúc bên nhau nên chàng dùng kế “mưa dầm thấm lâu”. Nhà tỷ phú đã đặt khoản tiền rất lớn cho một tiệm hoa trên đường Nguyễn Huệ với điều kiện nơi đây phải làm theo lời đề nghị bí mật của anh Từ ngày ấy, mỗi sáng khi mở cửa nhà, cô ca sĩ đều nhận được một bó hoa hồng tươi thắm (trị giá món quà lãng mạn đó bằng 3 bữa ăn cho một gia đình trung lưu thuở ấy). Đều đặn như thế mà ca sĩ Mộc Lan vẫn không hề biết tên người hâm mộ mình, cũng như mục đích của người tặng. Tuy nhiên, với tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ, cô dần quyến luyến với người vô hình và trở nên nôn nóng chờ đợi đêm qua thật nhanh để sáng sớm được ôm bó hoa thơm ngây ngất.

Suốt 3 tháng trời, không thể chờ đợi được nữa, cô liền ra tiệm hoa Nguyễn Huệ và nhờ chuyển một bức thư cho người “vô danh, ẩn tích” với những lời cám ơn chân thành và một chút ẩn ý ngọt ngào. Như mưa gặp bão, khi nhận được những lời nói mà chàng hằng mong đợi, ngay trong đêm đó chàng công tử đã thức suốt để mơ mộng, thả hồn theo gió vào Nam, ngất ngây với tâm hồn kẻ đa tình và sáng sớm ra Bưu điện để gởi nhanh cho nàng một lá thư. Trước khi dán phong thư, chàng còn không quên xịt ít nước hoa vào và hôn nhẹ lên tờ giấy poluya màu xanh (loại giấy mỏng, dùng viết thư tình, chỉ đến khi thời đại computer ra đời người ta mới quên dùng giấy này để viết thư) Nhận thư, ca sĩ MỘC LAN vô cùng bàng hoàng sững sờ, bởi trong đó không phải là những lời nói tỏ tình, yêu đương mà chỉ có một bài hát. Các khuông nhạc được kẻ bằng tay cẩn thận, lời hát được viết nắn nót trên nền tờ giấy mỏng tanh tình tứ “gửi bướm muôn màu tìm hoa, gửi thêm ánh trăng, màu xanh lá thư, về đây với thu trần gian…” chứng tỏ người theo đuổi nàng bấy lâu rất thật tình và gửi gắm hết tâm huyết thương mến.

Nàng còn ngạc nhiên hơn khi biết bài hát được sáng tác chỉ trong một đêm và viết dành riêng tặng cho nàng. Điều đặc biệt, tác giả tình khúc ấy là người không chỉ nổi tiếng giàu có nhất ở đất Cảng, khắp Bắc Kỳ, mà khi đó ông cũng đang là một nhạc sĩ lừng danh với tên gọi “ông Vua Slow – ĐOÀN CHUẨN” không ai không biết tên tuổi. Ngay hôm sau, trên sân khấu Sài Gòn, ca sĩ MỘC LAN đã hát vang “ GỬI GIÓ CHO MÂY NGÀN BAY ” của nhạc sĩ ĐOÀN CHUẨN (1924 – 2001). Chỉ trong một thời gian ngắn bài hát trở nên nổi tiếng với những giai điệu du dương, lời hát êm ái, sâu sắc và lãng mạn. Nhưng cũng từ khi câu chuyện tình nghệ sĩ này “thanh thiên, bạch nhật” thì mái ấm hạnh phúc của gia đình trai tài, gái sắc MỘC LAN – CHÂU KỲ cũng “gửi gió cho mây ngàn bay”. Bởi ít lâu sau nàng đã ngã vào vòng tay của chàng công tử đa tình đất Cảng.

6- XUẤT XỨ BÀI NỖI LÒNG

Phố Khâm Thiên những năm 30 là nơi phức tạp nhất của đất Hà Thành, ở đây tập trung những quán cô đầu, lầu xanh, nhà chứa, thuốc phiện, sòng bài, khu nhà ổ chuột … , tất tần tật các tệ nạn xã hội. Thế nhưng giữa vũng bùn như thế lại mọc lên một đóa sen tinh khiết - Một câu chuyện tình trinh son.

Còn đang học đệ thất (lớp 7 ngày nay), nhưng cậu bé Khánh đã để ý cô bé cạnh nhà. Vì còn quá nhỏ, ngây thơ, nên cả hai chẳng dám cho ai biết họ đang có tình ý. Để gặp nhau nói mấy câu bóng gió, thường thì cô cậu giả vờ vô tình cùng làm những chuyện gì đó ngay bên hàng rào, như phơi quần áo, xách nước giếng, quét sân, rửa bát… đây cũng là dịp hiếm hoi sau giờ học hoặc khi người lớn đi vắng.

Tình yêu non nớt, vụng dại vẫn kéo dài cho tới năm chàng Khánh học đến lớp đệ nhất. Đến kì thi Thành chung (tốt nghiệp phổ thông hiện nay) thì Khánh bị rớt. Biết vì phân tâm do yêu, không lo học, cô bé hàng xóm tránh mặt, không gặp nữa dù hai nhà chỉ cách nhau một hàng rào. Nàng gửi lời nhắn tới Khánh: khi nào thi đậu Thành Chung thì mới thấy nhau. Trong thời gian chàng lo dùi mài kinh sử để thi lại, đột ngột, chỉ trong một đêm gia đình cô gái chuyển gấp lên Thái Nguyên, nơi người cha sẽ tới làm việc. Không được gặp người yêu, Khánh chỉ kịp chuyển tới nàng một chiếc khăn tay. Kì thi ấy Khánh có bằng Thành Chung. Có kết quả, Khánh tức tốc đón xe lên Thái Nguyên. Sau bao tháng chưa nhìn thấy người yêu, sau bao thời gian xa cách, dồn nén nhớ thương, tình yêu của họ giờ mới có dịp nảy nở. Tựa như hạt mầm dưới lớp đất phủ, chỉ chờ đêm mưa đã vội vã vươn lên thành lá non. Chàng dám công khai chuyện tình cảm với gia đình nàng sau khi có việc làm trong ngành điện của thành phố.

Cũng cần nói thêm, thuở ấy, đường từ Hà Nội lên Thái Nguyên không thuận tiện như ngày nay. Xa hơn cả trăm hai chục cây số và phải đi bằng nhiều phương tiện khác nhau: tàu hỏa, ô tô, phà và cả băng rừng, chưa kể những nguy hiểm của cuộc chiến, thú dữ. Gần như mất cả ngày mới tới nơi. Vậy mà mỗi chiều thứ bảy Khánh lại bỏ Khâm Thiên sau lưng, lặn lội suốt đêm, sáng lên gặp nàng và trưa Chủ nhật vượt quãng đường xa về lại Hà Nội. Đều đặn từng tuần như thế. Mỗi lần gặp nhau họ lại xách đàn lên một ngọn đồi trước nhà nàng để hòa nhịp cùng gió trời thổi sáo vi vu trên những ngọn thông. Một lần, do bận công việc nên hai tuần liền chàng không thể đi như đã hẹn. Cuối tuần thứ ba chàng mới khăn gói lên thăm. Tới nhà, một không khí ảm đạm, buồn bã bao phủ. Cha nàng lặng lẽ đưa chàng một chiếc hộp gỗ. Đây là chiếc hộp từng đặt chiếc khăn tay và chàng trao tặng đêm gia đình nàng rời khỏi Hà Nội ngày xưa . Bên trong vẫn còn nguyên chiếc khăn trắng có thêu hình đôi chim bồ câu và một xấp thư mà chàng đã từng gửi trong những ngày không gặp. “Gió Thái Nguyên rét về Yên Thế Đất Thái Nguyên nước độc, rừng thiêng” Sau vài ngày bạo bệnh, nàng đột ngột ra đi. Ôm đàn lên ngọn đồi thông, chàng vật mình vào ngôi mộ người yêu còn thơm mùi đất, chưa kịp mọc cỏ non. Những giây phút lãng mạn hạnh phúc tuột vụt vào quá khứ. Chẳng còn tiếng gió vi vu thổi sáo trên lá, chẳng còn người yêu nghiêng tai nghe đàn. Thay vào đó là ngọn gió đông ào ạt như quất rát xuyên qua lồng ngực đớn đau, chĩa thẳng vào tim. Nước mắt chưa kịp rơi đã bay ngược hư vô. Kỉ niệm cùng nàng tuôn trào theo từng tiếng đàn rời rã “ yêu ai, yêu cả một đời, tình quá khắt khe khiến cho đời ta, đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ …”. Bài hát “Nỗi lòng” đã nghiệt ngã ra đời bên một ngôi mộ mới, trên một đồi thông chất chứa như tiếng khóc ai oán của một cuộc tình chưa chạm tay tới hạnh phúc. “…Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày Là đến với đớn đau Nhưng sao trong ta vẫn yêu vẫn nhớ Dù sao, dù sao nếu có một ngày Một ngày gieo trong tim ta Là tình yêu kia ly tan Mà lòng vẫn thương vẫn nhớ…”

Về lại Hà Nội, về lại ngõ nhỏ trong phố Khâm Thiên. Cùng với tác phẩm đầu tay “NỖI LÒNG”, chàng trai trẻ chỉ kịp giãi bày nỗi đớn đau tột cùng của mình trong một tuyệt tình ca nữa “CHIỀU VÀNG”, sau đó ông mãi về cõi xa cùng người yêu ngay tại ngôi nhà nhỏ có hàng rào xưa đầy kỉ niệm. Dẫu là một người viết nhạc không chuyên, chỉ với 2 bài duy nhất trong cuộc đời, nhưng NGUYỄN VĂN KHÁNH vẫn được đặt vào hàng ngũ những nhạc sĩ tài danh của dòng nhạc Tiền chiến.

7- XUẤT XỨ BÀI EM ƠI HÀ NỘI PHỐ

Cứ độ tháng 11, 12 thì trời Sài Gòn dẫu đang là nắng chói chang nhưng trong tôi cồn cào lên nỗi nhớ rét mùa đông. Còn cả ngàn nỗi nhớ cỏn con mà quay quắt như vậy…
Cái se lạnh cuối thu và gió heo may với ly cà phê đen nghi ngút khói trong quán nhỏ sớm mai. Căn phòng chật cùng những ly “quốc lủi"? và những thoáng say với vẻ mặt trầm ngâm của những bạn bè nghệ sĩ nghèo. Nụ hôn lạnh mùa đông, vòng tay bồi hồi ướt giá dưới một tri mưa bụi của những ngày tháng tình yêu còn nồng ấm. Rồi nỗi nhớ về căn nhà tôi đã sống ở Hà Nội qua suốt tuổi ấu thơ mà mùa đông năm 1972 khi những cành bàng trụi lá thì căn nhà ấy, và người bạn thân thiết nhất của tôi cũng vĩnh viễn bị bom B52 dập vùi. Thay vào đó là tượng đài về những người đã chết như một vết sẹo dẫu đã phủ kín rêu xanh mà chẳng bao giờ nguôi rát bỏng mỗi lần tôi nghĩ tới.

Rồi một ngày ngẫu nhiên gặp Phan Vũ trên đường Sài Gòn. Anh đưa tôi một bài thơ thật dài “Em ơi, Hà Nội phố". Tôi đọc lần đầu tiên mà như đã đọc từ rất lâu, như chính tôi vẫn thường nghĩ thế: “Em ơi, Hà Nội phố ta còn em mùi hoàng lan, ta còn em mùi hoa sữa… Ta còn em… Ta còn em… Chiều Hồ Tây lao xao hoài con sóng… Chợt hoàng hôn về từ bao giờ... Đọc xong bài thơ linh cảm mách bảo cho tôi đó sẽ là bài ca mà tôi yêu thích. Tôi tin vào linh cảm ấy và bài thơ dài hàng trăm câu sang bài ca chỉ còn lại vài câu.

Vẫn biết một bài ca có đáng là bao để trả cho món nợ ra đi. Nhưng, bài ca được viết ra tôi đã được giải thoát dù chỉ là phần nào và dẫu ít ỏi tôi cũng đã xây được chút gì cho kỷ niệm (một lần hành hương về dĩ vãng). Một chút gì nhỏ nhoi cho Hà Nội, nơi chứng kiến bao buồn vui của tôi trong suốt nửa cuộc đời.
(Ns. Phú Quang)


8- XUẤT XỨ BÀI HÀN MẶC TỬ

Đứng từ con đường mới mở chạy ngang sườn núi ven thành phố Quy Nhơn (Bình Định), vào những ngày trời ít sương mù, người ta có thể nhìn thấy những mái nhà của làng phong Quy Hoà lô xô ven biển. Con đường dốc đổ xuống nơi thi sỹ Hàn Mặc Tử sống những ngày cuối đời hơn nửa thế kỷ trước, lượn quanh co, vắng heo hút.

Ông được chôn trong nghĩa địa của làng phong.một nấm đất nhỏ như kích cỡ của hàng trăm ngôi mộ khác, xếp theo dãy thứ tự, nằm lặng lẽ trong muôn vàn cái chết lặng lẽ của người mắc bệnh cùi – vốn không có gia đình, hay nhiều bè bạn khi cuối đời.
Suốt 19 năm Hàn nằm lại trong nghĩa địa làng phong. Theo lời kể của nhiều nhà nghiên cứu về cuộc đời và thơ Hàn, trong thời gian đó, do hoàn cảnh chiến tranh, đường giao thông không thuận lợi và điều kiện khó khăn, nên mãi đến ngày 13.01.1959, gia đình và bạn bè mới cải táng sang địa điểm mới cho người đã chết. Buổi lễ cải táng cho nhà thơ được tiến hành khá đơn giản: chỉ có hai người chị, hai người em, ba người bạn và một vị linh mục tham dự.
Đến năm 1991, nhạc sỹ Trần Thiện Thanh cùng một số nhạc sỹ khác yêu mến tài năng thơ trẻ này đã đóng góp tiền để xây dựng một ngôi mộ - đài tưởng niệm, trên nền mộ cũ của Hàn.
Cảm động vì số phận của một nhà thơ lớn suốt hàng chục năm phải nằm nhỏ nhoi, quạnh quẽ, sau một lần viếng thăm mộ Hàn Mặc Tử, nhạc sỹ đã sáng tác bài hát về Hàn Mặc Tử và đau đáu nuôi ý định: “Nơi một thi sỹ lớn đã sống những ngày cuối đời và nằm cô quạnh suốt hai mươi năm, chẳng lẽ không có một dấu vết gì để nhớ?”.


9- XUẤT XỨ BÀI DIỄM XƯA

Sơn bắt đầu câu chuyện. Hai chị em đều đẹp và quí phái. Tôi theo cô Diễm. Mối tình học trò, có lẽ đơn phương, kéo dài từ khi tôi còn ở Huế cho đến lúc vào Sài Gòn trọ học. Cha mẹ Diễm khó và không thích tôi. Nhưng tôi vẫn cứ đeo đuổi hình bóng của Diễm, bởi Diễm cũng chưa có biểu hiện nào xa lánh tôi và cũng không có lời lẽ cự tuyệt. Năm đó tôi thi trượt Bac II. Diễm đậu và vào Sài Gòn để vào đại học Văn Khoa. Còn tôi thì về lại Huế, bỏ ngang việc học vì gia đình đang lâm cảnh sa sút. Phần buồn, phần tự ái, tôi không còn tìm cách liên lạc với Diễm nữa. Có lẽ vì vậy mà Diễm cũng lơ luôn.

Diễm đâu biết rằng trong thời gian này tôi đau khổ nhất. Tôi đã cố nén mọi khổ đau trong im lặng. Sự khổ đau và nhớ nhung dày vò tôi từng đêm, tôi đã phải viết nên bài "Diễm Xưa" để trút bớt nỗi khổ đau trong lòng. Nhưng có điều lạ là khi tôi viết xong bản nhạc này, tôi lại thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhàng. Tôi cảm thấy vơi đi rất nhiều nỗi nhớ và tình yêu. Trong lòng tôi bấy giờ chỉ còn một chút tình mong manh như sương, như khói. Nó không còn nồng nàn, mãnh liệt như trước kia. Một dịp tôi vào Sài Gòn, tìm đến cư xá nơi Diễm đang nội trú với ý định tặng nàng bản nhạc để làm kỷ niệm một thời tuổi trẻ, rồi thôi. Nhưng không gặp được Diễm. Tôi nhờ mấy cô bạn gái đang đứng ngoài cổng trao lại dùm. Khi tôi quay lưng đi được một quãng thì nghe tiếng Diễm từ trên "ban công" gọi theo:

- Anh Sơn! Anh Sơn! Anh Sơn ơi!

Nhưng tôi không ngoái lại. Tôi cắm đầu đi thẳng. Tiếng gọi tên tôi vẫn còn văng vẳng sau lưng. Từ ấy đến nay, tôi tự nhủ lòng, sẽ không bao giờ tìm gặp lại Diễm nữa.


10- XUẤT XỨ BÀI GỢI GIẤC MƠ XƯA

Năm 1954, ông quen cô gái có cái tên khá dễ thương: Lê Thu Hiền. Gia đình cô gái này vốn là người Bắc định cư tại Sài Gòn. Tình cảm hai người ngày càng đằm thắm, và ông luôn tin rằng cuộc tình ấy sẽ mang đến những điều như ông hằng mong ước. Bỗng một ngày, cô nói với ông rằng có người đang hỏi cưới cô. Ông liền liều đến nhà cô để gặp người bố và thưa chuyện hai đứa, nào ngờ chẳng ngăn được số phận, thời gian sau cô thật sự đi lấy chồng, lấy anh giám đốc trường dạy lái xe Auto Ecole Mayer.

Đó là thời điểm giáp tết Ất Mùi (1955), ngày cô lên xe hoa, ông ngồi ở quán cà phê cạnh nhà cô, nhìn thấy cô mặc lễ phục cô dâu, ôm bó hoa trắng. Đám cưới ấy to lắm, đoàn rước dâu đi một vòng rồi mới về nhà chú rể. Mỗi vòng bánh xe quay là mỗi lần nghiền nát tim ông. Nỗi buồn, sự đau đớn dâng ngập trong lòng ông. Đoàn xe cưới qua đi, ông bần thần trở về căn gác trên đường Lý Thái Tổ, vùi mình 
trầm tư và lúc ấy dường như bao nhiêu nỗi đau lại tuôn ra. Bài Gợi giấc mơ xưa được ra đời trong trạng thái đó. 

Thương em thì thương rất nhiều mà duyên kiếp lỡ làng rồi... Cả phần nhạc lẫn phần lời chỉ hoàn thành trong vòng khoảng 10 phút!
Ông đưa bài hát này cho ca sĩ Mạnh Phát, và được phát đầu tiên trên đài phát thanh Pháp Á. Bài hát trở nên nổi tiếng, và câu chuyện tình trong bài hát được nhiều người quan tâm. Vì sao ông đang ở Sài Gòn mà bài hát được bắt đầu bằng 
Ngày mai lênh đênh trên sông Hương? Vì ngay từ cái lúc nhìn người yêu đi lấy chồng, ông đã quyết tâm từ bỏ Sài Gòn để chạy trốn nỗi đau. Ông ra Huế, dù bao nhiêu người ngăn cản. Trong khoảng thời gian này, ông lao vào nhiều mối tình để tìm quên. Ca sĩ có, diễn viên cũng có. Hầu hết đều cảm mến ông từ bài hát Gợi giấc mơ xưa. Nhưng 2 năm sống ở Huế ông đau xót nhận ra một điều rằng, ông chẳng thể nào quên mà ngược lại, càng nhớ nhung nhiều hơn. Mối tình ấy trong ông quá sâu đậm, mỗi con đường, mỗi âm thanh đều gợi cho ông nhớ về ngày xưa Ngày mai lênh đênh trên sông Hương, Theo gió mơ hồ hồn về đâu? Sóng sầu dâng theo bao năm tháng, ngóng về đường lối cũ tìm em! Thương em thì thương rất nhiều mà duyên kiếp lỡ làng rồi Xa em ! lòng anh muốn nói bao lời gió buông lả lơi. Hình bóng đã quá xa mờ dần theo thời gian. Kiếp sau xin chắp lời thề cùng sống bước lang thang. Em ơi ! tình duyên lỡ làng rồi còn đâu nữa mà chờ, Anh đi lòng vương vấn lời thề nhớ kiếp sau chờ nhau. Tha hương lòng thương nhớ ngày nào cùng tắm nắng vườn đào. Gió xuân sang anh buồn vì vắng bóng người yêu. Rồi mai khi anh xa kinh đô. Em khóc cho tàn một mùa thơ. Nhớ người em nương theo cơn gió. Ru hồn về dĩ vãng mộng mơ. Thương anh thì thương rất nhiều mà ván đã đóng thuyền rồi. Đa đoan trời xanh cắt cánh lìa cành khiến chim lìa đôi Chiều xuống mưa gió tiêu điều reo trên dòng Hương. Tháng năm chưa xóa niềm sầu vì đứt khúc tơ vương. Anh ơi, đời đã l

Tập Tục Ăn Trầu

Tập Tục Ăn Trầu




Ăn trầu là phong tục cổ truyền của người Việt. Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một câu chuyện cổ tích nổi tiếng: Chuyện Trầu Cau.

Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện của phong cách, vừa là thể hiện tình cảm dân tộc độc đáo. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Với thôn dân Việt Nam, miếng trầu thắm têm vôi nồng cùng cau bổ tám bổ tư , vỏ chay rể quạch luôn là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm. Miếng trầu làm người với người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Và với các nam nữ thanh niên xưa thì nó là cội nguồn để bắt đầu tình yêu, bắt đầu câu hát, để vào với hội làng hội nước.





Cây cau thẳng, dây trầu mềm, khắp xứ sở Việt Nam đâu mà không thấy, hàng cau phía trước bên bể nước mưa và giàn trầu trong mỗi ngôi nhà nơi thôn dã luôn là biểu hiện của sự thái bình. Trong Nam có 18 thôn vườn trầu, tổng diện tích hàng trăm cây số vuông. Ngoài Bắc, dọc các thôn xóm ven sông Hồng, ngày xưa tới đâu mà chẳng nghe câu hát:

"Ru con con ngủ cho rồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh."

Và ở miền Trung, đâu đâu cũng thấy thấp thoáng bóng cau bên cạnh bóng dừa và văng vẳng đâu đây câu hát:

"Bồng em mà bỏ vô nôi,
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An."

Sách xưa thì ghi: "Ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm" những vật dụng cho việc ăn trầu hôm nay vẫn thấy, đó là cơi trầu (gắn liền với câu: đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu), là dao bổ cau (gắn liền với câu: mắt sắc dao cau), là chiếc âu trầu, là bình vôi, chìa vôi, ống vôi, là khăn, là túi đựng trầu. Nhà giàu còn đựng được tráp trầu, khay trầu sơn màu khảm trai rất đẹp. Như thế đủ thấy trầu cau gắn liền với sinh hoạt của nông thôn ta chặt chẽ và lâu đời biết dường nào. Trầu dùng tiếp khách hàng ngày, như bát chè xanh, như điếu thuốc lào. Trầu làm sính lễ trong đám hỏi, trầu thay cho thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui buồn của làng quê, Xuân đến, Tết về, trầu cau còn là quà tặng. Thơ Nguyễn Khuyến có câu:

"Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ
Xin đôi câu đối để mừng ông."

Hơn thế, trầu cau còn là đồ cúng lễ, ngày giỗ. Dân gian có câu "Sửa cơi trầu, đĩa hoa dâng cụ" để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của bậc tiền nhân. Trầu cau gần gũi với sinh hoạt của người Việt như thế nên hiển nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn học dân gian. Sự tích Trầu Cau là một câu chuyện bi ai mà thắm đượm nghĩa tình với hình tượng khó quên cây cau-người chồng, dây trầu-người vợ và hòn đá (vôi)-đứa em trai chồng...

Rồi đến cả trăm câu ví, câu đố, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian mà tập trung nhất là những bài, những câu của trai gái nói, hát với nhau gọi là những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu. Hát mời trầu có tới hàng trăm câu hát khác nhau nhưng câu nào cũng nói tới trầu, cau, vôi, vỏ hoặc nói về cái tài của người bổ cau, têm trầu. Câu hát mời trầu cũng là câu hát bày tỏ lòng mình.

Bên cạnh những "vôi nồng", "miếng trầu cánh phượng", "cau bổ bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm giải khăn", "trầu loan, trầu phượng, trầu tôi trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân, trầu ngãi"... để rồi thành "trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng". Tục ăn trầu còn gắn với phong tục nhuộm răng đen để có những má hồng răng đen tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở nào. Người thôn nữ má hồng răng đen, một thuở đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng trai, như câu ca xưa:

"Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen."

Sưu tầm

Những Hàm Răng Đen Cuối Cùng - Nhiếp Ảnh VCH (Cỏ Thơm-Tháng 1-2021)

http://www.cothommagazine.com/images/stories/nhiepanh/VuCongHien/NgheThuatNhiepAnh-VuCongHien-Cothom-January2021.pdf