dimanche 23 avril 2023

TÂN NHẠC VN – NHẠC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT – NHẠC PHỔ THÔNG – “CHỈ LÀ GIẤC MƠ QUA” (“YELLOW BIRD”) – OSWALD DURAND, MICHEL MAULÉART MONTON, NAM LỘC, TRƯỜNG KỲ

TÂN NHẠC VN – NHẠC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT – NHẠC PHỔ THÔNG – “CHỈ LÀ GIẤC MƠ QUA” (“YELLOW BIRD”) – OSWALD DURAND, MICHEL MAULÉART MONTON, NAM LỘC, TRƯỜNG KỲ

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn nhạc phẩm “Chỉ Là Giấc Mơ Qua” (“Yellow Bird”, “Choucoune”) của các nhạc sĩ Michel Mauléart Monton, Nam Lộc, Trường Kỳ, phổ từ bài thơ “Choucoune” của thi sĩ Oswald Durand.

Thi sĩ Oswald Durand (September 17, 1840 – April 22, 1906) là một nhà thơ và chính trị gia người Haitian, được người ta cho rằng “ông đối với Haiti giống như là Shakespeare của England và Dante của Italy”. Trong các bài thơ nổi tiếng của ông có bài “Choucoune” với lời thơ ca tụng nét đẹp của người yêu, một phụ nữ người Haitian, sau khi người yêu đã bỏ chàng để theo một người da trắng. Lời thơ nhằm bảo vệ văn hóa Haiti này đã trở thành một bài hát suy tôn tổng thống và bài hát quốc gia của Haiti.

Sinh ra ở Cap-Haïtien, ông đã từng dạy học trước khi được bầu vào Thượng Nghị Viện năm 1885, một vị trí mà ông được tái đắc cử 6 lần. Ông thỉnh thoảng hoạt động trong giới báo chí, làm việc với tính cách tư vấn, viết bài, trong vài trường hợp còn là người sáng lập.

Thi sĩ Oswald Durand.
Thi sĩ Oswald Durand.

Nhạc sĩ Michel Mauléart Monton (1855–1898) chẳng những là một nhạc sĩ dương cầm mà ông còn là nhà soạn nhạc. Ông nổi tiếng vì đã soạn bản nhạc méringue classic “Choucoune” – còn được biết đến là bài “Yellow Bird” trong Anh ngữ.

Ông sinh ra ở Thành phố New Orleans, tiểu bang Louisiana, US, trong một gia đình cha là người Haitian và mẹ là người American. Thân phụ ông tên Emilien Monton, là một thợ may di cư đến Louisiana hành nghề. Vì lý do của gia đình ông được chị lớn của ông, Odila Monton, chủ nhân tiệm “Rue du Magasin de l’Etat” ở Port-au-Prince nuôi dưỡng. Nhờ đó ông đã học âm nhạc cùng với Toureau Lechaud, một nhạc sĩ danh tiếng được kính trọng người Haitian dạy ông đàn Piano.

Phong cách âm nhạc của ông ảnh hưởng sự quyến rũ nồng ấm của vùng thiên nhiên nhiệt đới Haiti, pha lẫn âm nhạc Phi châu Vodou và âm nhạc cổ điển Âu châu. Ông trộn lẫn những âm hưởng này vào rất nhiều sáng tác của ông.

Ông được biết đến khi ông soạn nhạc cho bài thơ “Choucoune” của thi sĩ Oswald Durand, được viết khoảng 10 năm trước đó vào năm 1883. Bài hát này phát hành trên đài phát thanh công cộng ngày 14 tháng 5 năm 1893. Trên thể điệu meringue nhẹ và chậm được gọi bằng tên phổ thông “Ti Zwazo” hay “Ti Zwezo” (nghĩa tiếng Pháp: “Little Bird”“Choucoune” thành công ngay trên Haiti và thế giới liền sau đó, và được đưa vào United States dưới tên “Yellow Bird”.

“Yellow Bird” nằm ở vị trí #70 trên bảng sắp hạng “Billboard Hot 100” do nhóm Mills Brothers trình bày năm 1959. Nó được sống lại thành công nhất trong mùa hè 1961 nằm ở vị trí #4 trên bảng “Billboard Hot 100” dưới dự trình bày của nhóm Arthur Lyman Group, và đứng vị trí #2 trên bảng sắp hạng “Easy Listening” với thể điệu hòa âm bằng những nhạc cụ Hawaiian, đồng thời cùng với bản hòa âm của Lawrence Welk nằm ở vị trí #61.

“Yellow Bird” được vô số nghệ sĩ và các chương trình truyền hình liên tục thu âm và phát hành từ đó đến nay. Nhạc phẩm còn được đưa vào làm nhạc nền trong phim “The Sapphires” của Australia năm 2012.

Trước năm 1975, trong các phiên bản thu âm “Yellow Bird” của nhiều nghệ sĩ, thịnh hành nhất ở miền Nam VN là phiên bản của ban nhạc “The Brothers Four”. Qua phiên bản này hai nhạc sĩ Nam Lộc và Trường Kỳ đặt lời Việt thành “Chỉ Là Giấc Mơ Qua” cho “Yellow Bird”.

Nhạc sĩ Trường Kỳ (thập niên 1960s).
Nhạc sĩ Trường Kỳ (thập niên 1960s).

Nhạc sĩ Trường Kỳ (1946 – 2009) là một trong những người tiên phong khai sinh phong trào nhạc trẻ Sài Gòn trước năm 1975 và là nhà biên khảo về Tân Nhạc Việt Nam. Cùng với Tùng Giang, Nam Lộc, anh được mệnh danh là “Vua Nhạc Trẻ” từ những thập niên 60 và 70 tại miền Nam Việt Nam.

Anh tên thật Joseph Vũ Trường Kỳ, sinh ngày 29 tháng 3 năm 1946 tại Hà Nội.

Ngoài việc sáng tác ca khúc và viết lời Việt cho các ca khúc nước ngoài, anh còn viết phóng sự cho báo Kịch Ảnh, Màn Ảnh, phụ trách trang nhạc trẻ trên nhật báo Sống của nhà văn Chu Tử, cộng tác với các báo Tinh Hoa, Chính Luận, Tiền Tuyến, Thứ Tư…

Anh cũng là người viết tiểu thuyết. Quyển tiểu thuyết “Tuổi Choai Choai” của anh đã được dựng thành phim “Vết Chân Hoang”.

Sau biến cố 1975, Trường Kỳ và gia đình định cư ở Canada từ năm 1980, tiếp tục sinh hoạt văn nghệ, cộng tác với nhiều tờ báo ở Canada cũng như ở Hoa Kỳ. Những năm cuối đời, anh cộng tác với Đài VOA trong chương trình “Nghệ Sĩ và Đời Sống”, chương trình phát thanh hàng tuần vào khuya thứ bảy về âm nhạc Việt và đời sống nghệ sĩ.

Sáng chủ nhật 22 tháng 3 năm 2009, anh thấy mệt và được cấp cứu chuyển vào bệnh viện thành phố Mississauga, Ontario, Canada và sau đó 1 giờ, anh đã từ trần tại nơi đây, để lại một con gái duy nhất và vợ anh ở Montreal, Canada.

Những tác phẩm nổi tiếng của Trường Kỳ gồm có “Biết Đến Thuở Nào” (cùng sáng tác với Tùng Giang), “Khi Ta Hai Mươi”, “Rồi Mai Đây”, “Yêu Nhau Đi”, “Như Một Giấc Mơ”, v.v…

Nhạc sĩ Nam Lộc.
Nhạc sĩ Nam Lộc.

Nhạc sĩ Nam Lộc, tên đầy đủ là Nguyễn Nam Lộc, anh sinh năm 1944 tại Bắc Ninh trong một gia đình có 11 anh chị em (anh là người con thứ hai). Gia đình anh di cư vào Miền Nam năm 1954 lúc anh được 10 tuổi.

Nam Lộc nổi tiếng với nhạc phẩm “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”, và MC cho các chương trình ca nhạc của Trung Tâm Asia.

Lớn lên ở Sài Gòn, anh tham gia Phong trào Nhạc Trẻ vào đầu thập niên 1960s, và mở đường “Việt hóa” nhiều bản nhạc ngoại quốc thịnh hành đương thời bằng cách đặt lời tiếng Việt. Cùng trong nhóm này có những nhạc sĩ tên tuổi gồm: Phạm Duy,Trường Kỳ, Nguyễn Duy Biên, Tùng Giang, Jo Marcel…

Vào những năm đó anh điều hành quán cà phê “Quán Gió”. Đồng thời anh còn hợp tác với Cục Tâm Lý Chiến trình diễn “Đại Hội Nhạc Trẻ” quy mô ở Vận Động Trường Hoa Lư và Thảo Cầm Viên Sài Gòn.

Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, anh cùng gia đình sang định cư tại Hoa Kỳ. Anh làm việc cho cơ quan thiện nguyện USCC giúp cộng đồng người Việt tỵ nạn an cư. Trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt anh có công đóng góp xây dựng Tượng đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở Westminster, California, US.

choucoune1

“Choucoune” – Nguyên thủy lời Creole (phối hợp của 3 thứ tiếng: Pháp, Tây Ban Nha, Phi Châu) của thi sĩ Oswald Durand – Courtesy of Gage Averill

1. Dèyè yon gwo touf pengwen
Lot jou mwen kontré Choukoun
Li souri lè li wè mwen
Mwen di : « Syèl a la bèl moun »
Mwen di : « Syèl a la bèl moun »
Li di : « Ou trouve sa chè ? »

(Chorus:) Ti zwazo nan bwa ki t’ apé kouté (x2)
Kon mwen sonjé sa
Mwen genyen lapen
Ka dépi jou-sa
De pyé mwen nan chen
Kon mwen sonjé sa
Mwen genyen lapen
De pyé mwen nan chen

2. Choukoun sé yon marabou
Jé li klére kon chandèl
Li genyen tété debou
A si choukoun té fidèl
A si choukoun té fidèl
Nou rété kozé lontan

(Chorus:) Jis zwazo nan bwa té parèt kontan (x2)
Pito bliyé sa
Sé two gran lapen
Ka dépi jou-sa
De pyé mwen nan chen
Pito bliyé sa
Sé two gran lapen
De pyé mwen nan chen

3. Ti dan Choukoun blan kou lèt
Bouch li koulè kayimit
Li pa gwo fanm, li gwosèt
Fanm konsa plè mwen touswit
Fanm konsa plè mwen touswit
Tan pasé pa tan jodi

(Chorus:) Zwezo te tandé tout sa li té di (x2)
Si ou sonjé sa
Yo dwé nan lapen
Ka dépi jou-sa
Dé pyé mwen nan chen
Si ou sonjé sa
Yo dwé nan lapen
Dé pyé mwen nan chen

4. N’alé lakay manman li
Yon granmoun ki byen onèt
Sito li wè mwen li di:
“A mwen kontan sila-a nèt”
“A mwen kontan sila-a nèt”
Nou bwe chokola nwa

(Chorus:) Eske tout sa fini, ti zwazo nan bwa (x2)
Pito bliyé sa
Sé two gran lapen
Ka dépi jou-sa
De pyé mwen nan chen
Pito bliyé sa
Sé two gran lapen
De pyé mwen nan chen

5. Yon ti blan vini rivé
Ti bab wouj, bèl figi woz
Mont sou koté, bel chivé
Malè mwen, li ki lakoz
Malè mwen, li ki lakoz
Li trouvé choukoun joli

(Chorus:) Li palé fransé, Choukoun renmen li (x2)
Pito bliyé sa
Sé two gran lapen
Choukoun kité mwen
Dé pyé mwen nan chen
Pito bliyé sa
Sé two gran lapen
Dé pyé mwen nan chen

Tiếng Anh, dịch nghĩa từ tiếng Creole by Dady Chery. (Copyright © 2011-2013 by Dady Chery. All Rights Reserved)

1. Behind a thick cactus grove
Yesterday I found my Choucoune
Oh! That smile when she saw me
I said “Heaven, what beauty!”
I said “Heaven, what beauty!”
She said, “Dear, do you think so?”

(Chorus:) Little bird, who listened deep in these woods (2X)
When I think of this
It brings me such pain
Ever since that day
Both my feet in chains
When I think of this
It brings me such pain
Both my feet in chains

2. Choucoune is a marabout,
Eyes as bright as candlelight
Her breasts ever so perky
Ah! If Choucoune had been true!
Ah! If Choucoune had been true!
We stayed and talked a long while

(Chorus:) All the birds looked so happy in these woods (2X)
Better forget this
The pain is too great
Ever since that day
Both my feet in chains
Better forget this
The pain is too great
Both my feet in chains

3. Choucoune’s teeth are white as milk
Her lips pink as caimite
She’s not fat but well padded
Women like this send me fast
Women like this send me fast
Though yesterday’s not today

(Chorus:) Little bird, who heard every word she said (2X)
If you think of this
It will make you sad
Ever since that day
Both my feet in chains
If you think of this
It will make you sad
Both my feet in chains

4. We went to her mother’s house
A straight-talking old woman
Soon as she saw me she said
Ah! This one I like the best!
Ah! This one I like the best!
We drank up her hot cocoa

(Chorus:) Is all lost, dear little bird of these woods (2X)
Better forget this!
The pain is too great
Ever since that day
Both my feet in chains
Better forget this
The pain is too great
Both my feet in chains

5. Young white fellow came around
Trim red beard on his pink face
Pocket watch and hair of silk
My troubles, he brought them all
My troubles, he brought them when
He found my pretty Choucoune

(Chorus:) Spoke French words that made my Choucoune love him (2X)
Better forget this
The pain is too great
Choucoune left me here
Both my feet in chains
Better forget this
The pain is too great
Both my feet in chains

(Notes on the translation: This is the first complete English translation of Oswald Durand’s marvelous poem. I strived to keep the meaning and meter; the rhyme will have to wait for a better poet. The lines “A si choukoun té fidel, Nou rété kozé lontan” are sometimes replaced with “A si choukoun té fidel, Mwen ta renmen li lontan” (Ah! If Choucoune had been true, I’d have loved her a long time,” which would seem more sensible. On the other hand, the heart of the poem is that the writer remembers his time with Choucoune as if it happened yesterday, as he casually glides from past to present and back in his lamentations to a bird, and so I respected the original lyrics found by Averill. Another small example of Durand’s genius that defies translation: “Pyé mwen nan chen” is an Haitian Creole proverb about being hopeless stuck on someone, and “Dé pyé mwen nan chen” means doubly so. DC)

“Choucoune” (Trần Đình Hoành dịch từ bản dịch tiếng Anh của Dady Cherry)

(TĐH: Oswalk Durand, tác giả bài thơ này là người Haiti. Và người con gái trong bài thơ này, tên cúng cơm là Choucoune, cũng là người Haiti. Người Haiti là người có nước da xạm đen, gần giống người Châu Phi. Trong bài nói đến người đàn ông da trắng đến và giành mất Choucoune của tác giả. Oswalk Durand là một chính trị gia Haiti. Ông dùng cô người yêu Choucoune làm biểu tượng cho nước Haiti chạy theo văn hóa tây phương).

1. Phía sau vườn xương rồng
Tôi gặp Choucoune hôm qua
Ôi! Nụ cười khi nàng gặp tôi
Tôi nói: “Trời, đẹp quá!”
Nàng nói: “Vậy sao, anh?”

Tôi nói: “Trời, đẹp quá!”
Nàng nói: “Vậy sao, anh?”

(Điệp khúc)
Này chim bé, đang lắng nghe trong rừng (2 lần)
Khi nghĩ đến chuyện này
Lòng tôi đau đớn
Kể từ ngày ấy
Hai chân tôi bị xiềng

2. Choucoune là cò trắng
Mắt sáng như ánh đèn cầy
Ngực đứng cao
A! phải chi Choucoune chân thật!

A! phải chi Choucoune chân thật!
Chúng mình đã ở lại và nói chuyện lâu

(Điệp khúc:) Chim chóc vui tươi trong rừng này
Tốt hơn là quên chuyện này
Đau đớn quá
Kể từ ngày ấy
Hai chân tôi bị xiềng

3. Răng Cchoucoune trắng như sữa
Môi nàng hồng như vú sữa
Nàng không mập nhưng tròn trịa
Phụ nữ như thế làm tôi ngã ngay

Phụ nữ như thế làm tôi ngã ngay
Dù hôm qua không là hôm nay

(Điệp khúc:) Này chim bé, nghe mỗi lời nàng nói (2 lần)
Nếu em nghĩ đến chuyện này
Em sẽ buồn
Kể từ ngày ấy
Hai chân tôi bị xiềng
Nếu em nghĩ đến chuyện này
Em sẽ buồn
Hai chân tôi bị xiềng

4. Hai đứa đến nhà mẹ nàng
Người phụ nữ thẳng tính
Vừa thấy tôi bà nói
A! Tôi thích cậu này nhất

A! Tôi thích cậu này nhất
Chúng tôi uống ca cao nóng của bà

(Điệp khúc:) Tất cả đã mất, chim bé trong rừng ơi (2 lần)
Tốt hơn là quên chuyện này
Đau đớn quá
Kể từ ngày ấy
Hai chân tôi bị xiềng
Tốt hơn là quên chuyện này
Đau đớn quá
Hai chân tôi bị xiềng

5. Một chàng da trắng trẻ đã đến
Râu quai nói tỉa gọn trên khuôn mặt hồng
Đồng hồ bỏ túi và tóc tơ
Phiền não của tôi, hắn mang đến tất

Phiền não của tôi, hắn mang đến khi
Hắn thấy được Choucoune đẹp của tôi

(Điệp khúc:) Nói vài lời yêu thương bằng tiếng Pháp (2 lần)
Tốt hơn là quên chuyện này
Đau đớn quá
Choucoune bỏ tôi lại đây
Hai chân tôi bị xiềng
Tốt hơn là quên chuyện này
Đau đớn quá
Hai chân tôi bị xiềng

choucoune_CHOUCOUNE

Nhạc phẩm “Yellow Bird” (“Choucoune” – Nhạc sĩ Michel Mauléart Monton, Thi sĩ Oswald Durand)

Yellow bird, up high in banana tree
Yellow bird, you sit all alone like me.
Did your lady friend, leave your nest again
That is very sad, make me feel so bad
You can fly away, in the sky away
You’re more lucky than me.
I also had a pretty girl, she’s not with me today
They’re all the same those pretty girls
Take tenderness, then they fly away.

Yellow bird, up high in banana tree
Yellow bird, you sit all alone like me.

Let her fly away, in the sky away
Pick a town and soon, take from night to noon
Black and yellow you, like banana too
They might pick you someday.
Wish that I was a yellow bird
I’d fly away with you
But I am not a yellow bird
So here I sit, nothing else to do.
Yellow bird, Yellow bird…

 

“Chim Vàng” (Trần Đình Hoành dịch lời phiên bản “Yellow Bird” tiếng Anh”)

(Lời dịch này đi theo nốt nhạc, để hát. Tặng các anh chị thích hát. Lời dịch đi theo lời nguyên thủy là lời của một cậu. Tuy nhiên các cô có thể đổi vài từ và biến thành lời của một cô:-) )

Chim vàng ơi, thật cao trên đọt cây chuối kia.
Chim vàng ơi, ngồi cô đơn một nơi giống tôi
Nàng của chim lại đã rời nhà thêm lần nữa?
Thật là buồn đau quá, làm lòng tôi tê tái
Trời rộng sâu thăm thẳm, bạn còn bay xa lắm.
Bạn được phúc hơn tôi rồi.

Tôi cũng từng chia tháng năm với nàng, nhưng lúc này thật lẻ loi.
Con gái từ xưa đến nay vẫn vậy
Nhận dịu dàng âu yếu, xong vẫy bay lên trời.

Chim vàng ơi, thật cao trên đọt non chuối kìa.
Chim vàng ơi, ngồi cô đơn một nơi giống tôi
Trời rộng cao thăm thẳm, giờ bạn nên bay trốn
Người làm vườn đang đến, chặt từ đêm tới nắng
Vàng và đen như chú, nhìn thật như trái chuối
Chợt họ lỡ tay thêm phiền

Tôi ước làm chim lẻ loi cánh vàng, tôi sẽ cùng bay với chim
Nhưng tiếc rằng tôi chẳng chim cánh vàng, vậy nên ngồi đây
Chằng có chi để làm

Chim vàng ơi, chim vàng ơi, chim vàng ơi, chim vàng ơi…

Nhạc sĩ Nam Lộc.
Nhạc sĩ Nam Lộc.
Nhạc sĩ Trường Kỳ.
Nhạc sĩ Trường Kỳ.

Nhạc phẩm “Chỉ Là Giấc Mơ Qua” (“Yellow Bird”, “Choucoune” – Lời Việt: Nam Lộc & Trường Kỳ)

Như làn mây, tình yêu thôi, giờ đây lững lờ
Như làn gió, tình yêu thôi, giờ đây hững hờ.
Rồi một lần xa cách là một đời than trách
Rồi cuộc tình bay mất và một người đi khuất
Tình chỉ còn cay đắng để chỉ còn xa vắng
Để chỉ còn nắng vương cuối đường.

Thương người thương, ngàn xưa ơi, ngàn sau nét cười
Vương sầu vương, đường xưa nay giờ đâu bóng người.
Tình nhiệm màu tan vỡ lòng chỉ còn nhung nhớ
Giờ một mình quên lãng lạnh lùng theo năm tháng
Dù một lần em đã mềm lòng như chiếc lá
Là một lần xóa mối duyên đầu.

Em nhớ ngày, anh đón em góc trường
E ấp, thẹn thùng, vấn vương
Em nhớ ngày, anh đón em cuối đường
Dù đường lan vết nắng, nắng vẫn lung linh màu.

Thôi giờ đây, còn đâu ngọt ngào đôi má hồng
Thôi giờ đây, tìm đâu đây mùi hương ngất ngây.
Ngày tàn dần như khói chiều buồn dần muôn lối
Một mình lang thang tới miền cỏ hoang nắng chói
Ngày nào ta chung lối nhẹ nhàng đan tóc rối
Chỉ còn là giấc mơ qua rồi.

Dưới đây mình có bài:

– YELLOW BIRD (Chỉ là giấc mơ qua), ca khúc truyền thống Haiti (trích)

Cùng với 11 clips tổng hợp nhạc phẩm “Chỉ Là Giấc Mơ Qua” (“Yellow Bird”, “Choucoune”) do các ca sĩ nổi tiếng trên thế giới trình diễn để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn,

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

choucoune_HN1

YELLOW BIRD (Chỉ là giấc mơ qua), ca khúc truyền thống Haiti (trích)

(Hoài Nam)

Sau Greenfields, một ca khúc khác do The Brothers Four thu đĩa ngày ấy cũng rất được thính giả yêu nhạc ngoại quốc ở Sài Gòn ưa chuộng là bản Yellow Bird, được Nam Lộc (và Trường Kỳ?) đặt lời Việt với tựa Chỉ là giấc mơ qua.

Khoảng đầu thập niên 1960, khi được nghe bản này do ban nhạc Arthur Lyman hòa tấu, chúng tôi cứ ngỡ đây là một bản nhạc có gốc gác đảo Hạ-uy-di (Hawaii), bởi giai điệu và âm hưởng đặc thù Hạ-uy-di trong đó. Về sau có cơ hội tìm hiểu mới biết mình vừa sai vừa… đúng: đây là một ca khúc truyền thống của đảo quốc Haiti (một cựu thuộc địa của Pháp trong vùng biển Caribbean) chứ không phải của đảo Hạ-uy-di (ở Thái bình dương), nhưng đã được ban Arthur Lyman cải biến thành một nhạc khúc mang giai điệu và âm hưởng Hạ-uy-di.

Ca khúc nguyên thủy của Haiti có tựa đề Choucoune, do nhạc sĩ dương cầm Michel Mauléart Monton, một người có cha Haiti và mẹ Mỹ, phổ từ bài thơ có cùng tựa của thi sĩ Haiti Oswald Durand vào năm 1883.

Bài thơ được viết bằng tiếng Haiti, tức “Créole” – là phối hợp của ba ngôn ngữ Pháp, Tây-ban-nha và Phi Châu, nội dung ca tụng nhan sắc của một phụ nữ Haiti có biệt danh là “Choucoune”.

Được được trình diễn lần đầu tiên ở thủ đô Port-au-Prince vào năm 1893, về sau Choucoune đã trở thành một trong những ca khúc truyền thống phổ biến nhất trên hòn đảo này. Năm 1949, trong các buổi liên hoan kỷ niệm 200 năm lập quốc của Haiti, Choucoune đã được sử dụng như một ca khúc chính thức sau quốc ca.

choucoune_HN2

Năm 1957, cặp vợ chồng nhạc sĩ kiêm nhà viết ca khúc nổi tiếng Alan và Marilyn Bergman của Mỹ đã đặt lời Anh cho bản Choucoune với tựa “Yellow Bird”. Nội dung lời hát trong nguyên bản tiếng Haiti và phiên bản tiếng Anh hoàn toàn khác nhau; riêng tựa đề Yellow Bird, Alan và Marilyn Bergman được gợi ý từ chữ “ti zwero” (little birds) trong điệp khúc của ca khúc nguyên bản; từ đó, một số người còn gọi ca khúc này là bản Ti Zwero.

Vào khoảng thời gian nói trên, thể điệu “Calypso” sôi động của vùng biển Caribbean đang được xem là thời thượng, cho nên hầu hết các ca sĩ, ban nhạc đã trình bày Yellow Bird theo thể điệu “Calypso”.

Tuy nhiên, đĩa Yellow Bird thành công nhất lại là một đĩa mang giai điệu và âm hưởng Hạ-uy-di, do ban Arthur Lyman Group thu đĩa năm 1961, như chúng tôi đã viết ở một đoạn trên.

Arthur Lyman (1932 – 2002) ra chào đời tại Hạ-uy-di, mẹ là người bản địa, cha mang 4 dòng máu Hạ-uy-di, Pháp, Bỉ, và Trung Hoa. Arthur Lyman được xem là một trong những nhạc sĩ chơi đàn marimba hay nhất từ trước tới nay (“marimba” là một loại đàn gõ tương tự đàn “xylophone”, nhưng làm hoàn toàn bằng gỗ, nên có thanh âm trầm ấm hơn).

Mùa hè năm 1961, bản Yellow Bird do Arthur Lyman Band thu đĩa đã lên tới hạng 4 tính tất cả các thể loại (Billboard Hot 100) và hạng 2 trong danh sách nhạc nhẹ (Easy Listening) tại Hoa Kỳ.

choucoune_HN3

choucoune_HN4

Trong khi đó tại các quốc gia Mỹ la-tinh nói chung, vùng biển Caribbean nói riêng, Yellow Bird lại rất phổ biến và được ưa chuộng qua sự trình tấu của các nhạc sĩ sử dụng “steel drums” (trống thép), còn được gọi là “steel pans”.

Nhạc cụ độc đáo này xuất phát từ Cộng hòa Trinidad and Tobago, là những cái trống bằng thép, mặt trống chia thành nhiều ô tròn hoặc bán nguyệt, khi được gõ lên, mỗi ô sẽ tạo ra âm thanh trầm bổng khác nhau.

Riêng những người đàn guitar, có lẽ ai cũng biết tới, và yêu thích bản Yellow Bird qua nghệ thuật trình bày của danh cầm Mỹ Chet Atkins (1924-2001), người đã có công khai sáng một thể loại nhạc “country music” êm dịu hơn, thường được gọi là “Nashville sound” (Nashville, thuộc tiểu bang Tennessee, là thủ đô của country music và folk music của Hoa Kỳ).

Về các đĩa Yellow Bird do các ca sĩ hoặc ban hợp ca của Mỹ trình bày, được ưa chuộng nhất tại miền nam Việt Nam trước năm 1975 chính là đĩa của The Brothers Four.

Yellow Bird

Yellow bird, up high in banana tree
Yellow bird, you sit all alone like me.
Did your lady friend, leave your nest again
That is very sad, make me feel so bad
You can fly away, in the sky away
You’re more lucky than me.
I also had a pretty girl, she’s not with me today
They’re all the same those pretty girls
Take tenderness, then they fly away.

Yellow bird, up high in banana tree
Yellow bird, you sit all alone like me.

Let her fly away, in the sky away
Pick a town and soon, take from night to noon
Black and yellow you, like banana too
They might pick you someday.
Wish that I was a yellow bird
I’d fly away with you
But I am not a yellow bird
So here I sit, nothing else to do.
Yellow bird, Yellow bird…

Trước năm 1975, Yellow Bird đã được Nam Lộc (có tài liệu ghi là Trường Kỳ, hoặc Nam Lộc & Trường Kỳ) đặt lời Việt với tựa Chỉ là giấc mơ qua.

Chỉ là giấc mơ qua

Như làn mây, tình yêu thôi, giờ đây lững lờ
Như làn gió, tình yêu thôi, giờ đây hững hờ.
Rồi một lần xa cách là một đời than trách
Rồi cuộc tình bay mất và một người đi khuất
Tình chỉ còn cay đắng để chỉ còn xa vắng
Để chỉ còn nắng vương cuối đường.

Thương người thương, ngàn xưa ơi, ngàn sau nét cười
Vương sầu vương, đường xưa nay giờ đâu bóng người.
Tình nhiệm màu tan vỡ lòng chỉ còn nhung nhớ
Giờ một mình quên lãng lạnh lùng theo năm tháng
Dù một lần em đã mềm lòng như chiếc lá
Là một lần xóa mối duyên đầu.

Em nhớ ngày, anh đón em góc trường
E ấp, thẹn thùng, vấn vương
Em nhớ ngày, anh đón em cuối đường
Dù đường lan vết nắng, nắng vẫn lung linh màu.

Thôi giờ đây, còn đâu ngọt ngào đôi má hồng
Thôi giờ đây, tìm đâu đây mùi hương ngất ngây.
Ngày tàn dần như khói chiều buồn dần muôn lối
Một mình lang thang tới miền cỏ hoang nắng chói
Ngày nào ta chung lối nhẹ nhàng đan tóc rối
Chỉ còn là giấc mơ qua rồi.

Trong khi nguyên tác Choucoune có nội dung ca tụng nhan sắc của một giai nhân thì Yellow Bird lại viết về nỗi sầu lẻ bóng, còn Chỉ là giấc mơ qua thì tiếc nhớ mối duyên đầu! Tuy nhiên, cả hai ca khúc hát lên, nghe cũng chỉ thấy bâng khuâng, man mác. Có lẽ vì nét nhạc đẹp cho nên nỗi buồn cũng nên thơ?!

(Hoài Nam)

oOOo

Yellow Bird – Nhóm The Brothers Four:

 

LK Yellow Bird & The John B Sails Marianne Jamaica Farewell
– Nhóm The Brothers Four (2012):

 

Yellow Bird – Nhóm Kingston Trio:

 

Yellow Bird – Nhóm The Mills Brothers:

 

Yellow Bird – Nhóm Roger Whittaker:

 

Choucoune – Ca sĩ Celia Cruz (1952):

 

Choucoune – Ca sĩ Jocelyne Dorisme:

 

Yellow Bird – Ca sĩ Ti zwazo:

 

Yellow Bird – Hòa âm trống thép:

 

Chỉ Là Giấc Mơ Qua – Ca sĩ Thanh Lan:

 

Chỉ Là Giấc Mơ Qua – Ca sĩ Như Mai, Thúy Vy:

 

Chỉ Là Giấc Mơ Qua – Ca sĩ Kiều Nga:

 

NGUỒN

Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu - Thanh Lan


Chỉ Là Giấc Mơ Qua (Yellow Bird) - Thanh Lan


Nhạc sĩ Nam Lộc.
Nhạc sĩ Nam Lộc.
Nhạc sĩ Trường Kỳ.
Nhạc sĩ Trường Kỳ.

Nhạc phẩm “Chỉ Là Giấc Mơ Qua” (“Yellow Bird”, “Choucoune” – Lời Việt: Nam Lộc & Trường Kỳ)

Như làn mâу, tình уêu thôi, giờ đâу lững lờ
Như làn gió,người уêu thôi, giờ đâу hững hờ.
Rồi một lần xa cách là một đời than trách
Rồi cuộc tình baу mất và một người đi khuất
Tình chỉ còn caу đắng để chỉ còn xa vắng
Để chỉ còn nắng vương cuối đường.


Thương người thương, ngàn xưa ơi, ngàn sau nét cười
Vương sầu vương, đường xưa naу giờ đâu bóng người.
Tình nhiệm màu tan vỡ lòng chỉ còn nhung nhớ
Giờ một mình quên lãng lạnh lùng theo năm tháng
Ɗù một lần em đã mềm lòng như chiếc lá
Là một lần xóa dấu đớn đau.

Em nhớ ngàу, anh đón em góc trường
E ấp, thẹn thùng, vấn vương
Em nhớ ngàу, anh đón em cuối đường
Ɗù đường loan vết nắng nắng vẫn lung linh màu.
Thôi giờ đâу, còn đâu ngọt ngào đôi má hồng
Thôi giờ đâу, tìm đâu đâу mùi hương ngất ngâу.
Ngàу tàn dần như khói chiều buồn dần muôn lối
Một mình lang thang tới miền cỏ hoang nắng chói
Ngàу nào ta chung lối nhẹ nhàng đan tóc rối
Ϲhỉ còn là giấc mơ qua rồi.

Như làn mâу, tình уêu thôi, giờ đâу lững lờ
Như làn gió,người уêu thôi, giờ đâу hững hờ.
Rồi một lần xa cách là một đời than trách
Rồi cuộc tình baу mất và một người đi khuất
Tình chỉ còn caу đắng để chỉ còn xa vắng
Để chỉ còn nắng vương cuối đường.


Thương người thương, 
Thương người thương....

Thương người thương, Thương người thương....

  Nhạc sĩ: Nam Lộc. Thể loại: Nhạc Trẻ. Lời :Nam Lộc- Trường Kỳ

samedi 22 avril 2023

Marche pour la journée de la Terre 22-04-2023 à Sherbrooke

 Belle journée ensoleillée au parc Victoria de Sherbrooke

avec Hélène Ouellet présidente de Force de l'Amitié


rencontre intergénérationnelle pour la TERRE









avec la conseillère municipale Fernanda Luz


rencontre entre les amis de longue date (depuis1965 à UdeS)

ensemble pour protéger la Maison Commune


rencontre Développement et Paix- Force de l'Amitié 







 




mardi 18 avril 2023

Vẻ vang dân tộc Giáo sư Tiến Sĩ: Nguyễn thục Quyên

 Phỏng vấn GS.TS Nguyễn Thục Quyên, tân viện sỹ Viện Hàn lâm KHKT Hoa Kỳ

GS.TS. Nguyễn Thục Quyên vừa được Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ (NAE) kết nạp làm viện sỹ vào đầu tháng 2/2023. Photo: Courtesy photo 

Xuất thân từ gia đình nhà giáo nghèo khó đông anh chị em ở xã Phước Lâm, huyện Long Điền, cô thôn nữ ngày nào thích thơ ca và văn chương Việt Nam, tò mò muốn tìm cách giữ ánh sáng ban ngày để dành cho ban đêm học bài vì nhà không có đèn điện, nay trở thành viện sỹ Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ, rạng danh với thành tựu quan trọng trong ngành hóa hữu cơ ứng dụng.

Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thục Quyên vừa được Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ (NAE) kết nạp làm viện sỹ vào đầu tháng 2 năm nay. GS. Thục Quyên được các đồng nghiệp tại NAE đánh giá cao về vai trò lãnh đạo trong giáo dục kỹ thuật và nỗ lực thúc đẩy sự đa dạng ở lĩnh vực hóa hữu cơ ứng dụng. Bà cũng có những công trình nghiên cứu đặc biệt về quang điện hữu cơ cho các tòa nhà và nhà kính tiết kiệm năng lượng.

Ngoài vai trò là Giám đốc Trung tâm Polymer và Chất rắn hữu cơ tại Đại học California, Santa Barbara, Hoa Kỳ, (UCSB) bà còn là đồng chủ tịch Hội đồng sơ khảo giải thưởng VinFuture từ năm 2020, được bình chọn là trí tuệ khoa học mang tầm ảnh hưởng nhất thế giới nhiều năm liên tiếp.

Nhân tháng Lịch sử Phụ nữ Hoa Kỳ, tháng 3, VOA Việt ngữ có cuộc trò chuyện với GS. TS. Nguyễn Thục Quyên.

VOA: Xin GS cho biết cảm tưởng khi trở thành người phụ nữ gốc Việt đầu tiên trong NEA?

GS. Nguyễn Thục Quyên (NTQ): Trước hết xin cho Thục Quyên kính chào quý thính giả của đài VOA. Thú thật là tôi cũng chưa từng mơ ước hay tưởng tượng được rằng một ngày nào đó mình sẽ trở thành viện sỹ của Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ.

Mình thấy vô cùng vinh hạnh bởi vì đó là một trong những sự công nhận cao nhất từ đồng nghiệp và đây cũng là sự ghi nhận cho nhiều năm lao động sáng tạo và cống hiến của mình và nhóm nghiên cứu của mình trong lĩnh vực khoa học. Rất là vui vì được NAE công nhận. Tôi được đào tạo để trở thành một nhà lý hóa chứ không phải bên khoa học kỹ thuật.

Vinh dự này đánh dấu một cột mốc sự nghiệp rất quan trọng đối với tôi. Nói chung là tôi không thể làm việc này một mình được mà có cả một nhóm nghiên cứu của tôi, những sinh viên, tiến sĩ và cộng tác viên đã làm việc chung với tôi. Ở cấp độ cá nhân thì không có từ ngữ nào có diễn tả được cảm giác của tôi trước sự công nhận này bởi vì tôi đã vượt qua nhiều thử thách và khó khăn trong cuộc sống và việc làm để có thể có ngày hôm nay.

Tôi không chỉ hoàn thành ước mơ của riêng bản thân mình mà còn là cho cả mẹ tôi nữa, cho cả những người phụ Việt Nam và phụ nữ trên thế giới vì những giấc mơ của họ bị tan vỡ vì những thử thách trong cuộc sống và lo toan cho gia đình họ. Như mẹ tôi từng ước mơ được học cao hơn nữa và được trở thành nữ bác sĩ phẫu thuật đầu tiên của thành phố Buôn Ma Thuột, nhưng rồi mẹ tôi kết hôn năm 18 tuổi rồi sau đó có năm đứa con nên thành thử ước mơ của mẹ tan thành mây khói.

VOA: Thưa GS, với vai trò mới trong Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ, GS có kế hoạch gì để thực hiện vai trò đó?

NTQ: Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ có trách nhiệm cung cấp tư vấn, khả năng lãnh đạo kỹ thuật để phục vụ quốc gia, và không chỉ phục vụ cho quốc gia Mỹ mà còn có thể là của thế giới nếu cần. Là một thành viên của Viện mình có trách nhiệm và bổn phận nhiều hơn trong khoa học. Ngoài việc đóng góp cho nền khoa học công nghiệp và giáo dục, mỗi người đều cần cố gắng tạo ảnh hưởng, dùng uy tín của mình để mang đến những thay đổi tích cực cho nền giáo dục, cộng đồng khoa học ở Mỹ và trên thế giới, và cả cuộc sống của người dân.

Trách nhiệm của tôi là không chỉ làm công việc làm hàng ngày trong trường học ở California như là nghiên cứu, giảng dạy, mà còn có trách nhiệm với cộng đồng khoa học, với thế hệ trẻ trong và ngoài nước, và của cả xã hội. Tôi tiếp tục hỗ trợ thúc đẩy việc đào tạo và nghiên cứu nhất là về STEM [STEM là một mô hình giáo dục dạy trẻ em kiến thức, kỹ năng về các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học một cách tích hợp liên môn], tôi cũng muốn tăng sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật nhiều hơn để nâng cao sự đa dạng và có một cơ hội bình đẳng. Nói chung bây giờ trong lĩnh vực khoa học, số nam giới vẫn nhiều hơn so với phụ nữ nên tôi cố gắng là trong tương lai sẽ thay đổi để có nhiều phụ nữ tham gia nghiên cứu khoa học hơn.

Tôi cũng mong muốn cố gắng hỗ trợ các nhà khoa trẻ vì thế hệ trẻ rất là quan trọng, đặc biệt là những những thế hệ trẻ thuộc những nước đang phát triển. Tôi mong muốn đẩy mạnh hỗ trợ, kết nối với các nhà khoa học nước ngoài trên toàn cầu với nhau, và cả với cộng đồng khoa học Việt Nam.

Đồng thời tôi sẽ phối hợp sâu hơn với giới kinh doanh, công ty và các nhà hoạch định về chính sách của chính quyền để đề ra và thực hiện những chính sách có thể tạo ra sự thay đổi tích cực trong xã hội như giảm chất thải ra môi trường, tái chế chất nhựa, dùng nhựa phân hủy sinh học thay vì dùng nhựa plastic, thúc đẩy việc sử dụng năng lượng tái tạo… Đó là những điều trước mắt tôi muốn thực hiện.

CAF1BADAAB124127B1A78B66F3746593.png

GS.TS Nguyễn Thục Quyên tại một hội thảo khoa học. 

VOA: GS có nói về sự chệnh lệch số lượng nam và nữ làm khoa học. Theo GS, người phụ nữ làm khoa học có những trở ngại, khó khăn gì so với nam giới?

NTQ: Nữ giới làm khoa học thì khó hơn nam giới rất nhiều. Điều này không chỉ thấy qua phụ nữ làm khoa học ở Mỹ mà bất cứ nước nào khi tôi đi công tác thì cũng đều thấy điểm chung này trên toàn thế giới. Nữ giới làm khoa học rất vất vả vì về nhà họ còn phải chăm lo cho gia đình, làm nội trợ, lo cho chồng…ngoài việc làm nghiên cứu, giảng dạy. Họ thường bị thiếu ngủ, thường xuyên vội vã, không có thời gian cho bạn bè, không có thời giờ lo cho bản, không được gặp bố, mẹ, anh, chị, em…

Phụ nữ làm khoa học phải làm việc chăm chỉ và tốt hơn rất là nhiều để mà có được sự công nhận giống như là các đồng nghiệp nam; ở nhiều nước, tiền lương của nữ khoa học lại thấp hơn so với nam giới làm chung trong các cấp bậc, trong các nghề nghiệp giống nhau…

6F0FCA7979304D2EA4FDBF8BA26BC443.png

GS.TS Nguyễn Thục Quyên tại lễ trao giải VinFuture 2022. 

VOA: Lúc nảy GS có nói là trong vai trò ở Viện Hàn Lâm Khoa học Kỹ thuật Quốc Gia Hoa Kỳ, GS khi không chỉ dừng lại ở trong đất nước Hoa Kỳ mà còn giúp những nước đang phát triển khác. Không rõ liệu GS có kế hoạch trợ giúp Việt Nam trong công tác khoa học?

NTQ: Tôi rất mong muốn được giúp đỡ Việt Nam. Từ hồi ra đi từ năm 1991 đến giờ thì lần đầu tiên tôi về nước - về thăm gia đình thôi – là vào năm 1999. Sau khi trở thành giáo sư đại học thì tôi bắt đầu về nhiều hơn. Lần gần nhất là vào năm 2023 để tham dự lễ trao giải thưởng của Quỹ VinFuture. Năm 2022, tôi về nước, Tôi cùng với Tiến sĩ Phùng Việt Bắc, là nhân viên của quỹ VinFuture, có tới thăm rất nhiều trường đại học ở Việt Nam. Tôi gặp gỡ các sinh viên, những nhà khoa học, những người làm nghiên cứu tại vì tôi muốn tìm hiểu thêm về những cái khó khăn, thử thách nào mà họ phải đối mặt khi mà làm nghiên cứu tại Việt Nam.

Người Việt mình thì rất khó chịu khó, siêng năng, rất cần cù, thông minh mà nếu có cơ hội thì người ta vươn lên rất thành công. Tôi trò chuyện với mọi giới từ Bắc tới trong Nam. Đó là chuyến đi rất là “mở mắt” cho tôi và tôi đã học hỏi từ mọi người…Tôi thấy rằng điều thứ nhất, Việt Nam cần xây dựng một sở hạ tầng hiện đại nhất để phục vụ nghiên cứu khoa học khoa học kỹ thuật. Điểm thứ hai, tôi thấy các nghiên cứu sinh ở Việt Nam không nhận được tiền lương, chỉ một số rất ít mới có và cũng rất thấp; họ không được tiền lương như bên Mỹ hay châu Âu, do đó họ phải đi làm việc để kiếm sống, và làm nghiên cứu chỉ là phụ thôi…do vậy họ không tập trung làm nghiên cứu toàn thời gian được. Một điểm nữa, Việt Nam là nước đang phát triển…và các nhà khoa học Việt Nam cần hợp tác nhiều và chặt chẽ với nhau. Ông Bà ta có câu “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao.”

Việt Nam nên vừa thực hiện nghiên cứu ứng dụng vừa kết hợp nghiên cứu căn bản.

Việt Nam gửi những người trẻ thông minh giỏi nhất đi du học ở nước ngoài, nhưng người ta học xong và ở lại nước ngoài, vì tại Việt Nam không có cơ sở hạ tầng và nhiều cơ hội để người ta làm việc nghiên cứu.

Việt Nam cần xây dựng những cơ sở hạ tầng, nếu như không có tiền để xây tại mỗi trường đại học một cái thì nên xây những cơ sở làm nghiên cứu chung như bên Mỹ gọi là phòng nghiên cứu quốc gia (national laboratory). Việt Nam có thể bắt đầu với ba cái trung tâm ở ba miền: Bắc, Trung, Nam. Những cơ sở này không thuộc về ai cả [mà dùng chung] để cho tất cả những người làm nghiên cứu muốn sử dụng những cái máy móc nào đó thì họ có thể viết một cái dự án xin một số giờ, sau đó họ có thể đi vô trong đó làm nghiên cứu. Tôi hy vọng trong tương lai tôi có thể giúp đỡ được những việc đó nếu Việt Nam chịu đầu tư vốn. Mô hình cơ sở hạ tầng này rất thông dụng ở Mỹ và những nước phát triển trên thế giới.

0594747218984F1583CA306E92AB543C.png

GS. TS Nguyễn Thục Quyên (thứ hai, từ trái) được sinh ra trong gia đình có bố là cảnh sát đặc biệt, mẹ là giáo viên, nhà có tất cả năm anh em. 

VOA: GS có thể cho biết cơ duyên nào khiến GS dấn thân vào con đường ngành hóa học, đặc biệt là ngành hóa hữu cơ nghiên cứu về quang điện hữu cơ, cũng như là về những vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng?

NTQ: Con đường đến với khoa học của tôi rất là dài dòng, nó không như những nhà khoa học khác. Khi còn ở Việt Nam tôi yêu thích lịch sử thế giới và văn học. Tôi rất thích thơ, văn chương Việt Nam, thích địa lý nữa nhưng mà khi sang Mỹ lúc đó tôi 21 tuổi, không biết tiếng Anh, chỉ biết vài chữ tiếng Anh thôi, mà theo học văn chương thì phải đọc sách rất nhiều, tra tự điển mệt lắm. Tôi cũng có lấy một số lớp…nhưng sau đó từ từ tôi chuyển sang lớp toán, hóa học, rồi học sinh học, vật lý. Và tôi học những lớp này rất tốt nên thành thử chỉ đi theo con đường hóa học thôi.

Nói chung, tôi không phải là nhà hóa học truyền thống. Khi nghĩ về nhà hóa học, người ta thường nghĩ đến những người làm ra những vật chất gì đó…Tôi thì được đào tạo trở thành nhà lý hóa, tức là nghiên cứu về tính vật lý, tính hóa học.

Khi tôi đang làm nghiên cứu để bảo vệ luận án tiến sĩ thì tôi làm nhiều bên căn bản, nhưng tôi lại rất thích bên ứng dụng vì tôi muốn công trình nghiên cứu của mình có tác động nào đó trong cuộc sống hằng ngày. Trong các nghiên cứu của tôi, chất quang học và nhựa liên hợp, tôi muốn ứng dụng những chất này dùng làm pin năng lượng mặt trời, bóng bán dẫn, bộ tách song quang, điện tử sinh học…Tôi muốn có những ứng dụng từ những chất hữu cơ.

Tôi lớn lên từ ngôi làng nhỏ ở Việt Nam, ở Phước Lâm, Phước Tỉnh, Long Điền cho đến năm lớp 11 thì gia đình tôi chuyển qua Vũng Tàu [tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu]. Khi lớn lên thì ở làng chưa có điện, tôi ước mơ có cách nào đó để giữ được ánh sáng ban ngày để dùng cho ban đêm để học bài. Sở thích năng lượng mặt trời của tôi xuất phát từ đó, nhưng mình không để ý tới. Lớn lên trong sự nghèo khó dẫn đến sự tìm tòi, óc sáng tạo…Ông bà mình nói “Trong cái khó ló cái khôn”. Bản tính tò mò, sáng tạo thúc đẩy tôi đi theo con đường nghiên cứu khoa học, còn động lực theo nghề giáo của tôi xuất phát từ gia đình tôi có bốn thế hệ làm nhà giáo. Ông cố tôi dạy chữ Nho ở trong làng ngoài Bắc, ông ngoại tôi dạy toán, mẹ tôi dạy toán [trường] cấp hai.

318A668C85C749F59152495B205544C9.png

GS. Thục Quyên và các đồng nghiệp nữ. 

VOA: Thưa GS, GS có một cái thông điệp nào đó cho các bạn trẻ mà đang ấp ủ giấc mơ làm khoa học giống như GS không ạ?

NTQ: Với các bạn trẻ, tôi khuyên các bạn phải nỗ lực theo đuổi những đam mê và ước mơ của mình và hãy cố gắng biến giấc mơ thành sự thật, đừng để cho ai ngăn cản việc theo đuổi ước mơ của mình. Các bạn nên tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người xung quanh mình và hãy học hỏi từ những người đã thành công. Những người thành công thường cho mình những lời khuyên rất hữu ích. Những phụ nữ đam mê khoa học nên nói chuyện nhiều với những nhà khoa học khác để có cơ được học hỏi người ta, được trao đổi ý kiến, làm việc chung.

Về phần tôi thì tôi sẵn sàng giúp đỡ những sinh viên trẻ, những nhà khoa học trẻ. Tôi có những sinh viên liên lạc với tôi từ Ấn Độ, Mexico, và từ các nước Trung Đông. Họ liên lạc với tôi qua email. Tôi hi vọng trong tương lai tôi có giúp đỡ được nhiều sinh viên trẻ hơn, nhất là các em sinh viên trẻ Việt Nam.

VOA: Được biết GS cũng có vai trò trong hội đồng sơ khảo giải VinFuture, xin GS chia sẻ một vài thông tin về vai trò này?

NTQ: Tôi giúp đỡ sáng lập quỹ VinFuture này vì nó có ý nghĩa rất lớn trên thế giới. Đây là cơ hội để góp phần đem lại những tác động tích cực cho Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Quỹ VinFuture giúp thế giới biết tới Việt Nam. Câu hỏi mà mọi người luôn đặt ra là: hiện nay có quá nhiều giải thưởng, làm sao chúng ta có thể phân biệt được giải thưởng của mình với những giải thưởng khác trên thế giới? Điều quan trọng nhất là chúng ta không cạnh tranh với họ, chúng ta chân thành tạo ra một điều gì đó độc đáo, một điều gì đó khác biệt, một điều gì đó của Việt Nam và là đại diện cho Việt Nam.

Tôi từng sống trong sự thiếu thốn và nghèo khó, tôi hiểu những người nghèo hoặc người dân lao động quan tâm những điều gì, họ chỉ lo là có đủ cơm ăn trong ngày, có được nước sạch để uống, có quần áo, có điện,…còn những việc như khoa học tối tân như phi thuyền lên sao Hoả, ít ai để ý tới…Vì có nguồn gốc từ Việt Nam, giải thưởng VinFuture vinh danh những trí tuệ xuất chúng, những thành tựu khoa học công nghệ và phát minh tạo ra sự thay đổi có ý nghĩa trên quy mô toàn cầu, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho hàng triệu người ở mọi tầng lớp và ngành nghề.

VOA: GS có thể cho biết một số thông tin về gia đình, sở thích của GS không ạ?

NTQ: Tôi sinh ra trong một đình có 5 anh chị em ở Buôn Ma Thuột. Ba tôi là cảnh sát đặc biệt, mẹ tôi là giáo viên dạy toán cấp 2. Khi tôi lớn lên thì chỉ biết ba chơi nhạc trong phòng trà. Tôi không biết ba là cảnh sát đặc biệt cho tới khi tôi học cấp hai.

Trong chiến tranh nhà tôi bị bỏ bom nên mất tất cả mọi thứ, và sau 1975 khi gia đình đi về Sài Gòn thì ba tôi đi học cải tạo hơn 5 năm [Chương trình giam giữ tập trung tù binh của chính quyền Việt Nam sau 1975 đối với binh lính chế độ Việt Nam Cộng hòa hay những người tham gia phục vụ cho chính quyền này]. Gia đình tôi đi kinh tế mới [chính sách cưỡng bức giãn dân có nguồn gốc Việt Nam Cộng Hòa nhằm được cho là dễ kiểm soát “phần tử chống đối” sau 1975], mua rơm cối xây nhà nhỏ ven sông ở Phước Lâm. Mẹ tôi không được đi dạy học nên cuộc sống rất khó khăn, một thời gian sau nhà nước mới cho đi dạy học.

Năm tôi 21 tuổi thì gia đình tôi định cư sang Mỹ theo diện HO. Lúc ban đầu gia đình sống ở bang Michigan, sau đó chuyển về Nam California. Tôi đã trải qua nhiều sự nhọc nhằn, bố mẹ làm đủ nghề như là đi may, rửa chén cho nhà hàng, phụ bếp, rồi lại may, rồi mở tiệm nail.

Tôi đi học adult schools [trường dành cho người trưởng thành] ở Los Angeles, học ba trường/ngày vì quyết tâm học tiếng Anh cho thật lẹ. Vào 1993, tôi học trường đại học cộng đồng Santa Monica. Tôi vừa học vừa làm thêm ở thư viện và giúp mẹ ở tiệm nail nhưng cũng không đủ tiền sinh sống nên tôi mượn thêm tiền của chính phủ (loan).

Năm 1995 vừa đi làm vừa đi học Đại học California ở Los Angeles. Tôi rửa dụng cụ thí nghiệm cho một phòng nghiên cứu. Thấy họ làm thật thích nên tôi cũng xin làm nghiên cứu nhưng người ta nói tiếng Anh của tôi không giỏi nên họ không cho làm. Tôi xin cả chục phòng thí nghiệm nhưng người ta từ chối hết. Nhưng tôi xem đó là động lực để tôi cố gắng hơn mà thôi. Tôi không bỏ cuộc dễ dàng.

Sau khi tốt nghiệp năm 1997, tôi nộp đơn học cao học. Xong cao học thì tôi học luôn tiến sỹ và ra trường năm 2001, sau 10 năm đặt chân tới Mỹ với vài chữ tiếng Anh. Sau đó, tôi làm tu nghiệp ở Trường Đại học Columbia ở New York và hợp tác với đồng nghiệp ở IBM.

Năm 2004, tôi xin về làm việc ở Đại học California ở Santa Barbara (UCSB) và ở đây tôi gặp khó khăn trong sự nghiệp rất nhiều, nhiều lần khóc và muốn bỏ cuộc. Tôi phải đối mặt với sự kỳ thị chủng tộc, bị bắt nạt bởi những đồng nghiệp nam lớn tuổi hơn, và người Mỹ trắng.

Đằng sau sự thành công này có rất nhiều nước mắt nhưng “có công mài sắc có ngày nên kim”.

VOA: Xin chân thành cảm ơn GS.TS. Thục Quyên.

https://www.voatiengviet.com

K.H chuyển