samedi 12 janvier 2013

Áo dài lụa Thái Tuấn




Dáng Lụa - Thái Tuấn
Với Bộ sưu tập mới cao cấp, đột phá, lần đầu tiên được thiết kế trên công nghệ in hiện đại – Digital, đặc biệt được giới thiệu trong chương trình Paris By Night 106.
Trúc và Sen là hai hoa văn được thiết kế, sắp xếp theo bố cục mới trên từng chiếc áo dài. Lấy cảm hứng theo từng dòng thời gian trong ngày: Sáng – Trưa – Chiều – Tối, mỗi bộ trang phục là một cách thể hiện với những cảm xúc khác nhau, mang lại nét độc đáo cho cả Bộ sưu tập.
Bộ sưu tập “Dáng Lụa” còn khắc họa nên bức tranh hòa quyện giữa hiện đại và truyền thống. Cho dù ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, giá trị văn hóa truyền thống dân tộc vẫn luôn tồn tại trong lòng người Việt Nam.
 

Mỹ Trang chuyển
********************************************** 

Lụa Thái Tuấn 2015





















Chỉ có thể đi cùng nhau một đoạn đường


Chỉ có thể đi cùng nhau một đoạn đường



Du Vũ Minh (soạn văn)

Sau cơn mưa vào ngày xuân hôm ấy, người
bạn tốt của tôi ngỏ lời từ giã.
Tôi kiên trì đòi đưa bạn ấy ra đến trạm xe.



Bạn ấy ngăn cản tôi:
"Tống quân thiên lý, chung hữu nhất biệt"
Đưa người ngàn dặm, cuối cùng rồi cũng cách biệt, dù thế nào đi nữa thì bạn cũng chỉ có thể đưa tôi đi chỉ một đoạn đường, thôi thì chỉ đưa tôi đến cửa thì ngừng bước nhé."
Tôi đành tôn trọng theo ý kiến của bạn ấy.

Mỗi con người đều chỉ đan xen vào một đoạn trong cuộc sống của người khác.
Điều chắc chắn vĩnh viễn là chỉ có thể đưa người đi cùng một đoạn đường.


Bạn thương yêu cha mẹ mình, hy vọng họ sống lâu trăm tuổi, nhưng trong
lúc bạn đang rất hiếu thuận với cha mẹ mình, thì họ cũng sẽ rời xa trước mặt bạn, bạn cũng chỉ có thể đi cùng cha mẹ mình chỉ một đoạn đường mà thôi.



Bạn yêu thương con cái của mình ư, từng giờ khắc bạn mong rằng mình có
thể vì chúng mà ngăn gió chắn mưa, vậy mà bạn đang lớn tuổi từng ngày, rồi cũng có một ngày, trước mặt các con bạn cũng phải bỏ chúng mà đi, bạn chỉ có thể cùng đi với con cái chỉ một đoạn đường.

 

Bạn có người vợ tâm đầu ý hợp, nhưng hai mươi mấy năm trước cô ấy thuộc về cha mẹ, vài mươi năm sau cô ấy cũng bị con cái, vận mệnh mà chia cách, bạn cũng chỉ có thể đi cùng với nàng chỉ một đoạn đường.

 

Bạn xem trọng trong tình nghĩa bạn bè, nhưng mà nếu không phải là bạn bè lìa xa bạn, thì cũng chính là bạn sẽ lìa xa bạn bè, bạn chỉ có thể cùng đi với bằng hữu một đoạn đường.

Cũng vì chỉ có thể cùng đi với nhau một đoạn đường,
Nên bạn càng thêm quí trọng tiếc thương.



Lúc mà người ta cơ nhỡ đói rách, sự quan tâm của bạn nên trở thành một quả táo

Lúc mà người ta giá rét, thì sự giúp đỡ của bạn nên biến thành một cái áo bông.


Lúc mà người ta vui vẻ hạnh phúc, thì sự tươi cười của bạn đáng lẽ nên sáng lạn nhất;


Lúc mà người ta gặp chuyện thương tâm, thì sự vỗ về an ủi của bạn đáng lẽ nên thật là chân thành thiết tha mới phải...

Cuộc đời vốn dĩ lập đi lập lại những ấn chứng:
Ban đêm thì có thể vì việc thêm vào cái lồng lửa mà có được ánh sáng.
Việc đẩy lùi tuyết lạnh không vì sự tham dự của gió lạnh mà hóa thành ấm áp.



Bởi vì chỉ có thể cùng người ta đi chỉ một đoạn đường,
Bạn đáng lẽ cũng nên học cách từ bỏ.



Cha mẹ chỉ có thể vỗ về nuôi nấng bạn trưởng thành, không nên kỳ vọng cha mẹ là cái quải trượng (cây gậy) vĩnh viễn của bạn, để có thể chống đỡ toàn bộ cuộc đời của bạn.


Con cái cũng chỉ là cùng liên quan huyết nhục với bạn, chứ không phải là vật phẩm phụ thuộc của bạn, Bạn cần phải biết tôn trọng sự lựa chọn cuộc đời của chúng.


Vợ con vì bạn mà cung phụng dâng hiến hết tình ái, nhưng sinh mệnh của nàng không phải là vật phẩm thế chấp của ái tình, nên dành cho nàng những khoảng không gian riêng tư cần thiết.


Bằng hữu có thể cho bạn sự ấm áp, nhưng loại ấm nồng này là loại tình cảm mở, bạn không thể cưỡng hành độc chiếm tình hữu nghị của người khác...

Bạn chỉ là người khách qua đường trong cuộc đời của người khác, chỉ có thể cùng người đi cũng chỉ một đoạn đường đời, Điều đó chính là tính hữu hạn mà bạn cho người khác, vậy thì làm sao có thể mong cầu người khác cho đi sự vô hạn được?


--
Let all beings be free from harm.
Let all beings be free from sorrow.
Let all beings be free from suffering.

Tất cả đều là : VÔ THƯỜNG , cuộc đời là thế mà thôi!

Minh Quang Sưu Tầm.

vendredi 11 janvier 2013

Jeux du commerce January 3-6/2013 ỏ Montréal

Anh Tân 
Anh Tân Édouard cùng phái đoàn đại học Sherbrooke tham dự Jeux du commerce 2013 
ở Montréal ( january 3-6 /2013)

Anh Tân 


ráng lên Anh Tân Édouard



 Anh Tân Edouard đang chạy theo Frisbee

mardi 8 janvier 2013

Lời cha nhắn nhủ con

Bài viết hay nhưng phần 9 nên xét lại
----------------------------------------------------------------------------------
Đây là một lá thư riêng của Ông Tôn Vận Tuyền, viện trưởng viên Quốc Gia Hành Chánh, một chánh khách nổi tiếng, Trung Hoa Dân Quốc, Đài Loan gởi cho các con của ông lúc ông còn sống, bây giờ mới thấy lưu hành trên mạng internet, được nhiều phụ huynh đọc và cảm xúc sâu đậm.  
" KIẾP SAU, DÙ CÓ THƯƠNG HAY KHÔNG THƯƠNG, CŨNG KHÔNG CÒN DỊP GẶP LẠI NHAU ĐÂU ".... 
Tôn Vận Tuyền để lại những lời căn dặn như sau:

Các con thân mến,
Viết những điêu căn dặn nầy, tôi dựa trên 3 nguyên tắc như sau :
     
1. Đời sống là vô thường, không ai biết trước mình sống được bao lâu, có những việc cần  nếu được nói ra sớm để hiểu thì hay hơn.
2. Tôi làm Cha , nếu tôi không nói ra thì chắc không ai nói rõ với các con những việc nầy đâu!
3. Đây là kết quả bao kinh nghiệm xương máu, thất bại đắng cay trong cuộc đời, của bản thân mà tôi ghi nhận được, nó sẽ giúp các con tránh được những nhầm lẫn, oan phí trên con đường trưởng thành của các con.


Dưới đây là những điều nên ghi nhớ trong cuộc đời :
    
  1. Nếu có người đối xử với con không tốt, đừng thèm để tâm cho mất thời giờ, trong cuộc đời nầy, không ai có bổn phận phải đối xử tốt  với con cả, ngoại trừ cha và mẹ của các con. Nếu có người đối xử tốt với con, ngoài việc các con phải biết ơn, trân quý, các con cũng nên thận trọng một chút, vì người đời thường làm việc gì cũng có mục đích của nó, chớ có vội vàng cho là bạn tốt của mình ngay.
    
 2. Không có người nào mà không thể thay thế được cả; không có vật gì mà nhất thiết phải sở hữu, bám chặt lấy nó. Nếu hiểu rõ được nguyên lý nầy, thì sau nầy trong cuộc đời, lỡ người bạn đời không còn muốn cùng đi trọn cuộc đời, hay vì lý do gì con bị mất đi những gì trân quý nhất trong đời con, thì cũng nên hiểu đó cũng không phải là chuyện trời sập.
    
 3. Đời người ngắn ngủi, nếu hôm nay ta để lãng phí thời gian, mai đây hiểu được thì thấy rằng quãng đời đó đã vĩnh viễn mất rồi!.  Cho nên, nếu ta càng biết trân quý sinh mạng của mình càng sớm, thì ta được tận hưởng cuộc đời mình càng nhiều hơn. Trông mong được sống trường thọ, chi bằng mình cứ tận hưởng cuộc đời mìmh ngay từ bây giờ.
    
 4. Trên đời nầy chẳng hề có chuyện yêu thương bất diệt. Ái tình chỉ là một cảm xúc nhất thời, cảm giác nầy tuyệt đối sẽ theo thời gian, hoàn cảnh mà biến thiên, thay đổi. Nếu người yêu bất diệt rời b con rồi, hãy chịu khó nhẫn nại một chút, để thời gian dần dần trôi qua, để tâm tư mình từ từ lắng đng, cái đau khổ cũng sẽ từ từ nhạt nhòa đi. Không nên cứ ôm ấp cái ảo ảnh yêu thương mãi, cũng không nên quá bi lụy vì thất tình.
    
 5. Tuy có nhiều người trên thế giới nầy thành công, nổi tiếng mà không học hành nhiều, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là không cần học hành nhiều sẽ thành công, và cũng có một số có bằng cấp cao. Kiến thức đạt được do việc học hành, giáo dục là vũ khí trong tay của mình. Ta có thể lập nên sự nghiệp với  bàn tay trắng, nhưng không thể trong tay không có tất sắt.   Nên nhớ kỹ điều nầy !
    
 6. Cha không yêu cầu các con phải phụng dưỡng cha trong quãng đời còn lại của cha sau nầy. Ngược lại, cha cũng không thể bảo bọc nữa, quãng đời sau nầy của các con, lúc các con đã trưởng thành, độc lập, đó cũng là lúc cha đã làm tròn thiên chức của cha. Sau nầy các con có đi xe Bus công cộng hay đi Auto nhà, các con ăn soup vi cá hay ăn mì gói, đều là trách nhiệm của các con.
      
7. Các con có thể tự mình phải giữ chữ TÍN, nhưng không thể bắt người khác phải giữ chữ TÍN với mình. Các con có thể suy nghĩ mình phải đối  xử TỐT với người khác, nhưng không thể kỳ vọng người khác phải đối xử tốt với mình. Mình đối xử  với mọi người thế nào, không có nghiã là người ta sẽ đối xử lại với mình như thế ấy, nếu không hiểu rõ được điều nầy, sẽ tự chuốc lấy buồn phiền cho mình.
    
 8. Trong mười mấy, hai mươi năm nay, tôi tuần nào cũng mua vé số, nhưng vẫn  nghèo trắng tay, điều nầy chứng minh muốn giàu  có, phải siêng năng làm ăn mới  khá được. Trên thế gian nầy không có cái gì miễn phí cả.
   
  9. Sum họp Gia đình, thân thích đều là duyên phận, bất luận trong kiếp nầy chúng ta sống chung với nhau được bao lâu ,như thế nào, nên trân qúy khoảng thời gian chúng ta được chung sống với nhau,  kiếp sau, dù ta có thuơng hay không thương, cũng không có dịp gặp lại nhau đâu. (cần xét lại vì có đời sống vĩnh cửu sau này).

Nguồn internet

dimanche 6 janvier 2013

Vị Vua Thứ Tư

06 tháng Giêng
  Vị Vua Thứ Tư
Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Đan Mạch thì lại tưởng tượng ra một vị vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều bái Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng Ngài.

Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông, thế những dọc đường gặp bất cứ ai xin, ông cũng mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành mang viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.

Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình.

Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.
Mùa Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ của một Thiên Chúa hóa thân làm người. Bất ngờ của một thiên Chúa giáng hạ trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các vua. 

Nhưng điều khiến con người sẽ không bao giờ ngờ đến: đó là Đấng Thiên Chúa hóa thân làm người ấy lại tự đồng hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi đời này, nhất là những con người bé mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: 
-tất cả những gì các người làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho chính Ta. 

Từ đây, người ta chỉ có thể gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả những gì người ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng Ngài nhất chính là những gì người ta trao tặng cho tha nhân, nhất là những người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự giúp đỡ.

Lẽ Sống

samedi 5 janvier 2013

GIA ĐÌNH TỔ QUỐC, GIA ĐÌNH DÂN TỘC

Đức Cố Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận

Bài giảng của LM Nguyễn Ngọc Tỉnh (30.12.2012)
Hùng Châu sưu tầm
 

GIA ĐÌNH TỔ QUỐC, GIA ĐÌNH DÂN TỘC
(Suy niệm nhân lễ Thánh Gia 30-12-2012)

Từ lễ Thánh Gia
Hôm nay, Chúa nhật sau lễ Giáng Sinh, Hội Thánh mừng lễ Thánh Gia, mừng Con Thiên Chúa làm người, sinh ra và lớn lên trong một gia đình, gia đình Đức Mẹ Ma-ri-a và Thánh Giu-se.

Bài Tin Mừng ngày 1 tháng Giêng ghi lại biến cố xảy ra 8 ngày sau lễ Giáng Sinh, đó là việc Hài Nhi chịu phép cắt bì theo đúng luật Mô-sê để đích thực trở thành một con dân Ít-ra-en, mang tên Giê-su.

Còn bài Tin Mừng hôm nay thì ghi lại một biến cố xảy ra khi Đức Giê-su lên 12 tuổi, cùng với cha mẹ trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Sau đó gia đình trở về Na-da-rét là nơi Đức Giê-su sinh sống cho đến lúc ra hành đạo. Sau này khi nói về Đức Giê-su người ta thường thêm “người Na-da-rét”, hẳn là để phân biệt với những người khác cùng tên.

Mừng lễ Thánh Gia, chúng ta suy gẫm về mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến chia sẻ phận người với chúng ta khi chấp nhận sinh ra và lớn lên trong một gia đình, từ đó ta mới tìm hiểu xem hôm nay đến lượt chúng ta, chúng ta phải sống thế nào cho xứng danh Ki-tô hữu.

Gia đình nhỏ bé của mỗi chúng ta không thể tồn tại nếu không có những đơn vị lớn hơn chở che bao bọc, đó là khu phố hay thôn làng, là quận huyện, cuối cùng là quốc gia gồm những con người, cùng nòi giống, cùng ngôn ngữ, cùng truyền thống, sống với nhau trên một lãnh thổ. Quốc gia là một gia đình, dân tộc là một gia đình.

Vì đây là thánh lễ cầu nguyện cho Công Lý và Hoà Bình nên tôi xin phép làm một chuyện ngoại lệ, đó là vượt ra khỏi cái gia đình nhỏ bé của mỗi chúng ta để nói đến một gia đình rộng lớn hơn, đó là quê hương, là đất nước, là tổ quốc, là dân tộc.

Bắt đầu từ những chuyện xa

Trước khi trực tiếp đề cập đến “chuyện nhà”, chuyện đất nước, chuyện dân tộc chúng ta, ta hãy bắt đầu từ mấy câu “chuyện người ta”.
Chẳng hạn nếu theo dõi tin tức thế giới trong thời gian qua, ta thấy nước Anh là một nước dân chủ, tự do, thế nhưng khi mừng nữ hoàng Ê-li-sa-bét được 60 năm trị vì, mọi người đều tích cực tham gia, ta thấy người dân Anh không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, chính kiến, ở bất cứ vị trí nào trong xã hội, tất cả đều một lòng quý mến nữ hoàng, vì nữ hoàng là biểu tượng của quốc gia, của dân tộc. Một ví dụ khác : Trong suốt thời gian tranh cử tổng thống tại Pháp, rồi tại Mỹ vừa qua, các đảng phái không tiếc lời chỉ trích nhau, có khi thậm tệ, nhưng khi kết quả ngã ngũ rồi thì mọi người chấp nhận. Một đảng viên cộng hoà tại Mỹ khi được hỏi thì nói : “Tôi đâu có bàu cho ông Obama, nhưng nay thì ông ấy là tổng thống của chúng tôi”. Là vì cuối cùng thì quyền lợi đảng phái phải nhường chỗ cho quyền lợi thiêng liêng, quyền lợi tối thượng của quốc gia, của dân tộc.

Xin thêm một ví dụ nữa không xa chúng ta, đó là Miến Điện (cũng gọi là Myanmar). Từ nửa thế kỷ nay, chế độ cai trị tại Miến Điện là chế độ độc tài quân phiệt. Nhưng cái phúc lớn của Miến Điện là đã không theo chế độ cộng sản. Khi những người cai trị Miến Điện thức tỉnh và khám phá ra cho dù mình nắm quyền sinh sát trong tay, nhưng giữa thời toàn cầu hoá mà đất nước bị cô lập, ngày càng tụt hậu, càng nghèo đói, dân tình bất mãn, khổ sở vì một chế độ hà khắc, nghiệt ngã, thì họ đã mạnh dạn thay đổi. Và động thái đầu tiên của họ là không tiếp tục xây con đập Myitsone khổng lồ trước đó đã ký hợp đồng với Trung Quốc. Động thái này vừa giúp họ bảo vệ môi trường thiên nhiên, tôn trọng nhiều ngàn dân sống trong vùng ảnh hưởng, vừa giúp họ dần dần thoát ra khỏi nanh vuốt của anh hàng xóm khổng lồ Trung Quốc. Tiếp theo sau là việc chấp nhận đối thoại với các đảng phái đối lập mà nhân vật hàng đầu là một người đã được giải Nobel hoà bình, bà Aung San Suu Kyi. Dĩ nhiên là sau nhiều thập niên trì trệ, nay để nhân dân được hạnh phúc, đất nước có điều kiện phát triển, Miến Điện còn nhiều việc phải làm. Nhưng những cánh cửa đang từ tử mở ra. Và các nước dân chủ như Mỹ, Nhật, và nhiều nước trong cộng đồng Châu Âu đã chụp ngay lấy cơ hội để giúp Miến Điện hoà nhập vào cộng đồng thế giới tự do. Được vậy là nhờ lãnh đạo Miến Điện đã biết đặt quyền lợi quốc gia, quyền lợi dân tộc trên tất cả.

Nay đến chuyện nhà
Sau khi nói mấy “chuyện người ta”, bây giờ ta hãy nói “chuyện nhà”, chuyện Việt Nam.
Là người Việt Nam, chúng ta cùng chung một quê hương, một tiếng nói, một lịch sử, một nền văn hoá. Tất cả những giá trị đó liên kết chúng ta lại với nhau bằng một sợi dây thiêng liêng vô hình mang nhiều tên khác nhau như tình đồng bào, lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu tổ quốc. Tình cảm này là điều hết sức tự nhiên, chúng ta mang trong tim từ khi lọt lòng mẹ như ta có thể thấy trong một bài hát của Phạm Duy :
Việt Nam ! Việt Nam nghe tự vào đời,
Việt Nam hai câu nói bên vành nôi…
Việt Nam ! Việt Nam tên gọi là người,
Việt Nam hai tiếng nói sau cùng khi lìa đời…

Một khi đã trưởng thành, ta hiểu ra rằng yêu nước, giữ nước, là một bổn phận. Thế kỷ 11 tướng Lý Thường Kiệt đã để lại áng văn bất hủ là bài hịch chúng ta học thuộc lòng hồi còn nhỏ, bài đó mở đầu với câu “Nam Quốc sơn hà Nam đế cư”… để khẳng định chủ quyền trên lãnh thổ : đất nước Nam thì vua Nam ở. Đến thế kỷ 13 thì vua Trần Nhân Tông ra lệnh cho thần dân : “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn : ‘Một tấc đất của Tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác’. Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.”

Giá hôm nay, trong vụ tranh chấp ở Biển Đông chẳng hạn, lãnh đạo chúng ta thay vì cứ ngâm nga bài ca “bốn tốt” và mân mê mười sáu cái chữ vàng mà khỏi cần biết đó là vàng thật hay vàng giả, giá mà lãnh đạo chúng ta có được lòng yêu nước, có được khí phách của Trần Nhân Tông hay Lý Thường Kiệt, biết đặt quyền lợi dân tộc trên tất cả, liên kết với các quốc gia lân bang đồng cảnh ngộ, và trên hết mọi sự, dựa vào sức mạnh của nhân dân, thì ta không có gì phải sợ.

Nỗi lòng những người yêu nước
Và vì chẳng có chính quyền nào thay thế được nhân dân, nên trách nhiệm của mỗi người dân là phải bảo toàn và phát huy cái di sản chúng ta thừa hưởng được của tổ tiên. Di sản đó là gì ?
Trước hết về mặt địa lý, đó là một lãnh thổ, một dải đất, dải đất hình chữ S như người ta thường nói, chỉ trong thế kỷ trước đã trải qua 30 năm chiến tranh khiến linh mục thi sĩ Xuân Ly Băng đã phải thốt lên :
Đất nước tôi là một cỗ quan tài vĩ đại
Dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau
(trong “Kinh sầu trên Quê Hương”)
Còn Trịnh Công Sơn nhìn lại lịch sử thì ngậm ngùi :
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu,
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn.
Một thi sĩ khác là Trần Trung Đạo từ một chân trời tự do, nhìn về thì thấy :
Dải đất Việt Nam
Nằm co ro như một kẻ ăn mày
Đang thoi thóp cuộc đời trên góc phố,
Như giọt lệ chảy dài nhưng chưa nhỏ,
Như chiếc lưng khòm Mẹ gánh cả trời thương.
(trích “Thưa Mẹ, chúng con đi”)
Người ta có những ý kiến, những tâm trạng khác nhau, từ những góc nhìn, những hoàn cảnh, những thời điểm khác nhau, nhưng lòng yêu nước đòi người dân phải chấp nhận hy sinh để bảo toàn lãnh thổ, hy sinh cả tính mạng vì tổ quốc nếu cần. Hồi còn học trung học, có một bài thơ đã gây cho tôi nhiều cảm xúc, đó là bài “Đêm liên hoan” của Hoàng Cầm, viết tháng 10 năm 1947, thời chiến tranh chống Pháp để giành lại độc lập. Tôi xin trích mấy câu sau đây, ghi lại mẩu đối thoại giữa hai người lính trẻ :
“- Anh từ đâu tới đó ?
- Tôi đi giết giặc Tây
Hôm nay gặp bạn ta cùng hẹn
Lấy máu thù kia rửa nhục này.
- Gia đình anh ở đâu ?
- Mẹ hiền tôi đã khuất
Nhưng trước khi nhắm mắt
Mẹ mừng cho đàn sau
Máu tôi mai sẽ chảy
Trôi phăng kiếp ngựa trâu.
Xương tôi tôi bắc nhịp cầu
Cho đàn em bước lên lầu Tự Do.
- Trong tiểu đội của anh,
Những ai còn ai mất ?
- Không, không ai còn, ai mất
Ai cũng chết mà thôi !
Người sau kẻ trước lao vào giặc
Giữ vững nghìn thu một giống nòi.
Dù ta thịt nát xương phơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam…”
Qua mấy câu thơ này ta thấy được tình yêu quê hương mãnh liệt, thấy được chí can trường của người chiến sĩ sẵn sàng bỏ mình vì tổ quốc. Đó là thời “một trăm năm đô hộ giặc Tây.”
Khóc cho tổ quốc hôm nay
Còn hôm nay trước những hành động xâm lăng, trước thái độ ngang ngược, hung hãn của giặc Tàu thì Việt Khang nghẹn ngào :
“Giờ đây, Việt Nam còn hay đã mất
Mà giặc Tàu ngang tàng trên quê hương ta
Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội
Chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu…”
Cùng một hoàn cảnh, một tâm trạng như Việt Khang, từ Hải Phòng nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa đã không kềm giữ nổi lòng uất hận :
Tổ quốc tôi như miếng da lừa
Một lần ước, mất đi một góc.
Ước phồn vinh: rừng mất cây, biển mất cá
Ước vẹn toàn: mất hải đảo, mất Cao Nguyên.
Tôi đứng ôn hòa, biểu ngữ chống Bắc Kinh
Người đến đầu tiên là cảnh sát
Họ nhìn tôi như nhìn loài chó ghẻ
Tôi ngã rồi họ dựng chúng tôi lên
Những nắm đấm thôi miên vào mặt.
Họ là người Việt Nam như tôi
Ở chung với tôi trên mảnh đất cỗi cằn sỏi đá
Ở chung với tôi trên mảnh đất ngàn năm vật vã
Lo sinh nhai, lo giữ chốn sinh tồn.
Tôi nằm lăn ra đất
Nước mắt nuốt vào lòng
Lịch sử 4 ngàn năm triều đại nào như thế ?
Còn Trần Mạnh Hảo thì phẫn uất đến độ dám gọi vong hồn các anh hùng dân tộc lên để đặt câu hỏi :
Có nơi đâu trên thế giới này
Như Việt Nam hôm nay
Yêu nước là tội ác
Biểu tình chống ngoại xâm bị Nhà Nước bắt ?
Các anh hùng dân tộc ơi !
Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo ơi !
Nếu sống lại, các ngài sẽ bị bắt !
Ai cho phép các ngài đánh giặc phương Bắc ?
Sau những cuộc xuống đường chống Trung Quốc xâm lược, mới đây nhất nhà thơ Đỗ Trung Quân như muốn dùng lưỡi dao của bác sĩ để mổ xẻ một khối u khi phân tích nỗi đau của những người công dân yêu nước đi biểu tình bị lực lượng cảnh sát đối xử vô cùng thô bạo. Ông đã diễn giải như sau :
Các anh bẻ quặt tay tôi
Dẫu gì cũng không đau lắm.
Các anh thúc cùi chỏ vào hàm tôi
Thú thật, cũng không đau lắm.
Các anh đạp vào mặt tôi, dẫu gì
Cũng không ê ẩm lắm.
Các anh dúi chúng tôi vào xe,
Thú thật cũng chỉ ngồi chật một tí.
Các anh kẹp cổ, lên gối tôi
Dẫu gì cũng chỉ bầm dập chút.
Cái chúng tôi đau, rất đau…
Cái chúng tôi bầm dập,
Cái chúng tôi ê ẩm chính là
Các anh thay mặt kẻ cướp nước
Bọn cướp biển
Bẻ tay, đánh đập, bắt bớ, đàn áp
CHÍNH-ĐỒNG-BÀO-MÌNH.
Quê hương như một huyền nhiệm
Quê hương như là một huyền nhiệm khiến nhà thơ Đỗ Trung Quân đặt vào miệng em bé câu hỏi thơ ngây :
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Còn Trần Trung Đạo thì từ xa hướng về quê mẹ mà khắc khoải :
Chúng con đã bao lần suy niệm
Bốn ngàn năm lịch sử của ông cha :
Thuở Hùng Vương đi chân đất dựng sơn hà
Bao nhiêu máu đã âm thầm đổ xuống !
Khi Trưng Trắc trầm mình trên sông Hát
Chỉ mong giữ tròn trinh tiết với giang san.
Trần Bình Trọng chịu bêu đầu để làm quỉ nước Nam
Cũng chỉ vì tấm lòng tha thiết.
Mẹ ơi, trăng còn có khi tròn, khi khuyết
Nhưng tình yêu quê hương chẳng khuyết bao giờ.
(trích : “Thưa Mẹ, chúng con đi.”)
Sở dĩ tôi trích khá nhiều các nhạc sĩ, thi sĩ vì nếu nói đến lòng yêu nước, yêu quê hương, có thể người dân thường như chúng ta không thua kém gì họ. Nhưng họ khác ta, hơn ta ở độ nhạy bén của cảm xúc cũng như ở khả năng dùng giai điệu hay hình ảnh, màu sắc để diễn tả tâm tình và ý tưởng của mình theo phong cách nghệ thuật, và nhờ đó dễ gây xúc động nơi người đọc, người nghe. Hy vọng những tâm tình của các văn nhân nghệ sĩ tôi vừa nêu tạm đủ để khơi gợi nơi mỗi chúng ta tình yêu quê hương, yêu tổ quốc, nhất là trong hoàn cảnh dầu soi lửa bỏng hôm nay.

Những người đang trả giá
Chúng ta hẳn biết chuyện bạn trẻ Nguyễn Chí Đức đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lăng thì bị đạp vào mặt, một số người khác kẻ bị đánh tàn nhẫn, người bị nhốt vào tù khiến Trần Mạnh Hảo đã phải thốt lên :
Tôi yêu tổ quốc tôi mà tôi bị bắt !
Tổ quốc ! Yêu Người phải lấy máu mà yêu.

Đúng vậy, bất chấp mọi phiền toái, mọi hiểm nguy đã có 11 cuộc biểu tình diễn ra trong năm 2011, gần đây là vào tháng 07 và tháng 08. Gần hơn nữa là ngày Chúa nhật 9 tháng 12 này. Trong những năm qua, những người đấu tranh cho tự do, dân chủ, cho toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc đã lần lượt vào tù như Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Khắc Toàn… Sau đó thì đến Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Bắc Truyển, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Hồ Thị Bích Khương, Tạ Phong Tần, Phạm Thanh Nghiên, Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức… Điều đáng ngạc nhiên và đáng mừng là sau đó có một thế hệ trẻ hơn đã xuất hiện, đó là những Nguyễn Tiến Trung, Nguyễn Thị Minh Hạnh, Việt Khang, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Hoàng Vy, Trịnh Kim Tiến, 15 bạn sinh viên Công Giáo gốc Vinh… và mới đây nhất là cô bé Phương Uyên, cũng là một sinh viên vừa tròn 20 tuổi. Những người đang tuổi trung niên chấp nhận hy sinh sự nghiệp, hy sinh hạnh phúc gia đình, những bạn trẻ đang tràn trề sức sống, hy sinh tương lai, hy sinh tất cả để tranh đấu cho tự do dân chủ, cho nền độc lập quốc gia, cho toàn vẹn lãnh thổ, đó chính là niềm hy vọng của dân tộc, của tổ quốc trong hoàn cảnh bi đát hôm nay.
Hai khuôn mặt yêu nước trong hàng giám mục
Sau khi đưa ra một số gương mặt yêu nước, đặc biệt trong giới văn nhân nghệ sĩ, tôi thấy trong hàng giám mục Việt Nam có hai khuôn mặt đáng chúng ta nể phục và noi gương về lòng yêu nước trong thời đại chúng ta hoặc chưa xa xôi gì cho lắm. Cả hai không có tên trong số những vị đã ký vào thư chung năm 1980 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mà tiêu chí có thể tóm gọn trong mấy chữ “Đồng hành với dân tộc” để rồi cuối cùng cũng chỉ dừng lại nơi nguyên tắc trừu tượng đó, nhưng cả hai giám mục tôi muốn nói đã có những việc làm rất cụ thể cho thấy các ngài gắn bó với quê hương, tha thiết với vận mệnh đất nước, với tiền đồ dân tộc tới mức nào.
Người đầu tiên là đức cố hồng y Nguyễn Văn Thuận. Bị bắt ít lâu sau biến cố 30-04-1975, ngồi tù 13 năm, rồi bị quản thúc, cuối cùng phải sống lưu vong, ngài ít có cơ hội cho ta thấy lòng yêu nước của ngài. Nhưng có một câu chuyện do chính ngài kể lại và ai nghe cũng phải nể phục óc sáng tạo, tài thuyết phục, và trên hết mọi sự là lòng yêu nước, đó là chuyện xảy ra khi ngài ở trong trại tù Vĩnh Quang trên núi Vĩnh Phú, và công việc của ngài là cưa gỗ. Ngài biết gỗ đó lấy từ núi Vĩnh Phú là nơi có đền thờ các vua Hùng nên được xem như điểm xuất phát của dân tộc Việt Nam. Ngài muốn có dụng cụ cần thiết để làm một tượng thánh giá bằng chính thứ gỗ đó. Thật ra ước muốn có một tượng thánh giá để đeo không phải là chuyện khác thường, nhất là đối với một giám mục. Nhưng trong hoàn cảnh của ngài mà thuyết phục được cán bộ trại giam để cuối cùng đạt được ý nguyện thì quả là chuyện phi thường. Nhưng muốn hiểu được ý nghĩa sâu xa của việc làm đó thì ta phải nghe chính ngài giải thích : Ngài nói : “Gỗ thánh giá ấy lấy từ núi Vĩnh Phú, nơi có đền Hùng thờ các vua Hùng, tổ tiên chúng ta đã có công dựng nước. Đi đâu tôi cũng mang thánh giá ấy, mang trên mình Chúa Giê-su và quê hương Việt Nam”. (“Năm chiếc bánh và hai con cá” trang 40). Qua lời nói đơn sơ mộc mạc đó, ta thấy được niềm vui của một Ki-tô hữu muốn diễn tả đức tin, thấy được lòng tự hào của một người gắn bó với dân tộc, thấy được lòng yêu nước tha thiết đến độ nào.

Ví dụ thứ hai là đức cha Vinh-sơn Nguyễn Văn Long, giám mục phụ tá giáo phận Melbourne ở Úc. Ngay từ khi mới được bổ nhiệm làm giám mục, với tấm huy hiệu trên đó nổi lên hình lá cờ vàng ba sọc đỏ dưới dạng những đợt sóng gợi lại chuyện vượt biên, với việc công khai căn cước tỵ nạn cộng sản, ta đã thấy con người đó gắn bó với quê hương, hãnh diện về nguồn gốc của mình như thế nào. Sau đó là các bài giảng tại những nơi có người Việt, bất luận là ở Úc hay Hoa Kỳ, đức cha Nguyễn Văn Long đều bày tỏ ước mơ sớm thấy đất nước có tự do dân chủ, công lý được thực hiện, nhân quyền được tôn trọng.

Và ví dụ gần đây nhất là bài giảng của ngài ngày lễ các thánh 2012 và cũng là ngày giỗ thứ 49 của cố tổng thống Ngô Đình Diệm. Đức cha Long đã nói về cố tổng thống Diệm như sau : “Ở một góc cạnh nào đó, cụ là một con người thật bất hạnh. Cụ chết trong sự phản bội, trong gian ác, trong tủi hờn, trong cô đơn, trong đớn đau ngút ngàn. Đã gần 50 năm từ ngày định mệnh phũ phàng, nhưng cụ và bào huynh còn chưa có một nơi an nghỉ xứng đáng, tên tuổi cụ bị chìm trong quên lãng và danh dự của cụ chưa đựơc phục hồi… Phải chăng tấm gương vị quốc vong thân, phải chăng ước mơ xây dựng một triều đại chính trực trên quê hương của cụ sẽ mãi mãi làm ngọn đuốc soi đường cho thế hệ mai sau?” Sau khi nhắc lại cái chết bi thảm của người đã khai sáng nền Đệ Nhất Công Hoà tại Miền Nam Việt Nam, đức cha Long chia sẻ suy tư của ngài : “Có lẽ đây cũng là một vấn nạn cho những ai đang tìm kiếm và tranh đấu cho tự do, nhân quyền và công lý, nhất là trên quê hương Việt Nam: Khi kẻ chính nhân thì bị hãm hại, ngược đãi hay quên lãng, trong khi kẻ gian tà thì được tôn vinh... Nhưng Lời Chúa nhắc nhở chúng ta là phần thưởng của kẻ chính nhân không phải là ở đời này mà ở đời sau.”
Đến lượt chúng ta
Cuộc sống mỗi ngày của chúng ta xem ra khá êm ả, tưởng chừng như chẳng có gì phải lo lắng, nhất là theo truyền thông nhà nước và các báo lề phải. Nhưng bất cứ ai quan tâm theo dõi thời cuộc qua các diễn đàn mạng thì sự thật không hề đơn giản. Việt Nam đang đối mặt với sự xâm lăng trắng trợn và ngày càng hung hãn của Trung Quốc bất chấp những lời lẽ hoa mỹ không lường gạt được ai. Chỉ trong tháng này thôi, ta có thể ghi nhận một chuỗi những hành động gây hấn : phát hành hộ chiếu in hình bản đồ chủ quyền trên đó có hình lưỡi bò, cắt cáp (lần thứ hai) tàu thăm dò dầu khí Bình Minh 2, cho bộ đội biên phòng Hải Nam quyền ngăn chặn, kiểm soát, trục xuất tàu nước ngoài xâm phạm cái gọi là chủ quyền hình lưỡi bò, thực chất là nhằm vào tàu cá của ngư dân Việt Nam.
Mà chẳng phải trên Biển Đông mới có vấn đề. Không kể những người Hoa từ bao đời lập nghiệp ở nước ta, những năm gần đây, từ nam chí bắc, đi đâu cũng thấy người Hoa, có hàng chục hay hàng trăm ngàn người qua Việt Nam với hộ chiếu du lịch hay lao động đi khai thác bô-xít hay trồng rừng, có khi lập thành những làng mạc hay thị trấn nội bất xuất, ngoại bất nhập, có khi dành công ăn việc làm với người Việt Nam dù họ chỉ là những lao động phổ thông. Đi vào các tiệm buôn hay siêu thị, hàng hoá phần lớn là của Trung Quốc, phim ảnh Việt Nam làm ra không ai muốn xem. Không sao cả. Chỗ trống đó đã có phim ảnh Trung Quốc điền vào. Môn sử lẽ ra phải làm cho con em say mê khi tìm hiểu nguồn gốc tổ tiên thì đã bị biến thành món ăn nuốt không nổi làm cho người học ngán ngẫm đến chán ghét. Trong khi đó thì cách đây không lâu bộ Giáo dục Đào tạo đã đề ra ý kiến dạy tiếng Hoa ngay từ cấp tiểu học. Thế thì thử hỏi cái thế của dân tộc Việt Nam hôm nay có phải là cái thế của một dân tộc đang đối mặt với thù trong giặc ngoài hay không ? Thử hỏi : mất nước mà không đau, mất nước mà không nhục, thì chúng ta có còn xứng đáng là người Việt Nam nữa hay không ?
Chuyện động trời đang xảy ra hôm nay là chúng ta đang mất nước. Nhưng sở dĩ xã hội cứ bình chân như vại, một phần vì thiếu thông tin, phần khác vì sợ hãi. Là vì mọi chế độ độc tài đều làm cho người dân ra hèn nhát và mê muội. Dân tộc muốn tự cứu mình, chỉ còn cách thoát ra khỏi sợ hãi mà thôi. Đâu phải tình cờ mà vào cuối triều đại cộng sản tại Liên Xô và các nước Đông Âu, chính xác là vào năm 1978, ngay sau khi đắc cử Giáo Hoàng, lần đầu tiên xuất hiện trước quảng trường Thánh Phê-rô, lời đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II là “Anh chị em đừng sợ !”. Thật ra thì ngài chẳng làm gì khác hơn là lặp lại lời Chúa Ki-tô nói với môn đệ sau khi Phục Sinh : “Chính Thầy đây, đừng sợ !”.
Tôi biết trong thâm tâm nhiều anh chị em đang tự hỏi : “Nhưng làm gì được bây giờ ?” Dĩ nhiên là không ai trả lời thay cho ai được. Nhưng để gợi ý, tôi đề nghị anh chị em nhớ lại vị giám mục sống ở nước ngoài, cách xa quê hương nhiều ngàn cây số, nhưng chỉ vì nặng lòng với đồng bào, với quê cha đất tổ, vẫn tìm ra cách diễn tả tình yêu của mình. Thậm chí một người tù mất hết tự do có khác gì con chim gãy cánh hay con thú bị nhốt trong chuồng. Nhưng tù nhân Nguyễn Văn Thuận vẫn để lại cho ta tấm gương xán lạn của một người đầy óc sáng tạo, chỉ vì yêu tổ quốc Việt Nam với một tình yêu nồng nàn tha thiết.

Kết luận

Và để kết luận, tôi xin mượn lời của Đức Cố Hồng Y Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận qua bài thơ chính ngài sáng tác như một lời nhắn gửi mỗi anh chị em chúng ta. Bài thơ mang tựa đề “Con có một Tổ Quốc” :
Tiếng chuông ngân trầm, Việt Nam cầu nguyện.
Tiếng chuông não nùng, Việt Nam buồn thảm.
Tiếng chuông vang lừng, Việt Nam khởi hoàn.
Tiếng chuông thanh thoát, Việt Nam hy vọng.
Con có một tổ quốc :
Việt Nam, quê hương yêu quý ngàn đời.
Con hãnh diện, con vui sướng.
Con yêu non sông gấm vóc, con yêu lịch sử vẻ vang.
Con yêu đồng bào cần mẫn, con yêu chiến sĩ hào hùng.
Sông cuồn cuộn, máu chảy cuộn hơn.
Núi cao cao, xương chất cao hơn.
Đất tuy hẹp, nhưng chí lớn.
Nước tuy nhỏ, nhưng danh vang.
Con phục vụ hết tâm hồn,
Con trung thành hết nhiệt huyết.
Con bảo vệ bằng xương máu,
Con xây dựng bằng tim óc.
Vui niềm vui đồng bào,
Buồn nỗi buồn của dân tộc.
Một nước Việt Nam.
Một dân tộc Việt Nam,
Một tâm hồn Việt Nam.
Một văn hoá Việt Nam.
Một truyền thống Việt Nam.
Là người Công Giáo Việt Nam,
Con phải yêu Tổ quốc gấp bội.
Chúa dạy con, Hội Thánh bảo con,
Cha mong giòng máu ái quốc,
Sôi trào trong huyết quản con.

Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn,
Thánh lễ 20 giờ, ngày 30 tháng 12 năm 2012
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
Địa chỉ email mới : pascaltinh2011@gmail.com