Affichage des articles triés par date pour la requête sắn dây. Trier par pertinence Afficher tous les articles
Affichage des articles triés par date pour la requête sắn dây. Trier par pertinence Afficher tous les articles

mardi 24 janvier 2023

Hương vị ngày xuân

 Hương vị ngày xuân

- Khánh Lan -

"Cứ mỗi lần hoa mai vàng trước ngõ
Là thôi em mong nhớ xuân này chàng trở về..."

P
hải,cứ mỗi độ hoa mai vàng nở rộ ngoài đầu ngõ như nhắc nhở chúng ta chúa xuân đang hiện diện quanh đây và trong lòng tôi đang rộn lên một niềm vui: Mùa xuân đang đến trên quê hương tôi.  Tôi không nhớ năm ấy mình bao nhiêu tuổi và bản nhạc Ðan Áo Mùa Ðông của nhạc si Phạm Thế Mỹra đời từ bao giờ, nhưng chắc hẳn là tôi phải đang ở cái độ tuổi "Hoa Hồng hay Hoa Tím" nên nhiều mơ mộng.  Tôi biết có nhiều nhạc sĩ viết về mùa xuân và nhiều ca sĩ hát bài này nhưng tôi lại thích nghe cô Hoàng Oanh ca hơn vì với tôi giọng hát của cô rất hợp với thể điệu Bolero đặcbiệt làtrong nhạc phẩm Ðan Áo Mùa Ðông.  Chắc cácbạn cũng phải phải công nhận với tôi rằng nhạc phẩm Ðan Áo Mùa Ðông lại rất thích hợp với thể điệu ấy, hợp bởi cái chất giọng nũng nịu như vừa trách móc vừa an phận của một cô nữ sinh trót là người yêu của lính...
"Người yêu lính nếu em biết cho rằng
Đời quân nhân sống đây đó không ngừng"

Mỗi độ xuân về, gia đình tôi có tục lệ gói bánh chưng và làm giò thủ mỗi năm.   Vì vậy cả tháng trước Tết mẹ tôi đã chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết như hành tỏi, nếp, đậu xanh, v.v...Và nhiệm vụ của tôi là ghé thăm mấy đứa bạn trong làng, đặt cọc xin lá chuối và ống tre để làm lạt buộc bánh.  Gia đình tôi là người Bắc nên mẹ tôi thích làm cà ghém, muối hành thay vì củ kiệu, làm giò thủ thay vì chả chiên, gói bánh chưng thay vì bánh téc, muối dưa chua hơn là làm dưa món.  Thế nên tôi rất ghét phải ngồi phụ mẹ và các dì tôi lột vỏ hành hương, nhất là cái mùi hăng hăng của hành khiến tôi phải "chảy nước mắt bất đắc dĩ".  Chính vì thế mà tôi hay "nhường" việc này lại cho Vy Hương, cô em song sanh của tôi hoặc tôi viện cớ trốn luôn cho xong việc. 

Năm nào cũng vậy, mẹ tôi bắt đầu chuẩn bị gói bánh chưng và làm giò trước Tết khoảng một tuần để kịp đi biếu họ hàng.  Những ngày ấy anh em chúng tôi dù có ở nơi phương trời nào đi nữa cũng trở về nhà mẹ tôi để cùng quây quần bên nhau:  Nấu bánh chưng.  Nói là nấu bánh chưng cho oai chứ thực sự là: Canh bánh chưng. 

Một ngày trước khi gói bánh chưng, từ tờ mờ sáng, mẹ tôi đã đi chợ với chị Thư để mua thịt ướp cho thấm gia vị làm nhân bánh chưng, làm giò thủ và lỗ tai heo ngâm giấm. Còn những aiởnhàthì mỗingười một việc. Sau bữa ăn sáng, tôi và Vy Hương có nhiệm vụ rửa và lau khô lá chuối trong lúc dì Vân và dì Hồng đãi gạo nếp, hấp đậu xanh rồi say cho nhuyễn.  Chú Tấn và chú Thọ, chồng của hai dì thì ngồi vót nan tre để làm dây lạt buộc bánh chưng.  Chỉ có hai ông anh quý tử của mẹ tôi là chẳng phải làm gì cả.  Anh Tuấn thì lo "đấu khẩu" và nấu nước pha café đãi mấy người bạn ngoài sân, còn anh Phương thì bận coi chừng hai đứa con nhỏ để chị dâu tôi phụ bếp...Tóm lại, làm con trai ở gia đình tôi được cưng hơn con gái những khi bố tôi vắng nhà. 

Khoảng 10 giờ thì mẹ tôi và chị Thư đi chợ về, vừa bước vào nhà, mẹ tôinhư có một thói quen trước khi ngồi xuống bắt đầu gói bánh chưng, mẹ tôi "dụ" anh em chúng tôi. 

-  Ðứa nào thức khuya canh bánh chưng tối nay Mẹ sẽ đãi ăn xôi chè.

Xôi là xôi vò và chè là chè táo xọn nước cốt dừa.  Mẹ tôi nấu món này ngon lắm và mấy anh em tôi đều thích, không những thế, chị dâu tôi là người Huế nên chị làm bánh bèo, bánh bột lọc,  bánh khoái, mì quảng ngon bá cháy.  Chính vì vậy mà chẳng cần mẹ tôi phải "dụ" cho lâu, anh em tôi đều tình nguyện thức trắng đêm canh bánh chưng.


Mẹ tôi cẩn thận lắm, bà không cho anh em tôi gói bánh chưng vì mẹ tôi cho là nếu gói không chật tay bánh sẽ bị hấy.  Chỉ có chị Thư là được mẹ tôi cho phép gói bánh chưng vì chị khéo tay và kiên nhẫn học nghề gói bánh chưng của mẹ tôi.  Còn tôi thì vô cùng hư đốn, tôi thích đứng xào thịt cho mẹ tôi gói giò thủ vì thỉnh thoảng còn ăn vụng được.  Chính vì thế mà mẹ tôi mắng tôi là "Hư đốn", nhưng điều ấy chẳng làm tôi buồn hay quan tâm cho lắm và cũng không đủ mạnh để tôi bỏ cái tật "hư đốn" ấy. 
Mẹ tôi thường nói, đây là dịp cho anh em chúng tôi quâyquần bên nhau và giữ gìn tục lệ ngày Tết và văn hóa nước Việt. Trong lúc mẹ tôi và chị Thư gói bánh, tôi và Vy Hương làm thợ vịn để mẹ tôi sai vặt, nhưng đó khôngphải là lý do chính, vì những lúc này là lúc bố tôi kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện chiến trường. Bố tôi sau những năm xông pha ngoàimặt trận, ông được biệt phái vềlàm việc tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Chính vì vậy mà ông thấu hiểu về đời sống của một người lính và những trận đụng độ ác liệt ngoài chiến trường.


Thức khuya nấu bánh chưng là một cái thú, năm nào anh Tuấn cũng rủ mấy người bạn của anh đến chơi và ngồi canh nồi bánh chưng với anh. Tôi rất thích đi theo anh Tuấn để nghe mấy anh ấy nói chuyện lông bông, chuyện trên trời dưới đất và nhất là chuyện "cấm con nít không được nghe" mà lại con được thử cái bánh chưng vừa mới chín thơm mùi lá chuối.

Chợ hoa ngày Tết: Hai tuần trước Tết, tôi và Vy Hương thường theo bố tôi đi chợ hoa chợ hoa Sài Gòn, chợ hoa ngày Tết chạy dài trên đường Nguyễn Huệ từ khúc đường Lê Lợi thẳng về gần bờ sông Sài Gòn. Chợ hoa thì gồm đủ loại hoa từ các nơi mang về. Xắp Tết nên chợ hoa có nhiều hoa đẹp, nào là những chậu hoa cúc vàng rộ đang khoe sắc trong nắng mai. Những cánh hoa lan muôn màu bay bay trong gió kiêu kỳ nhưng thanh nhã. Dừng lại ở một cửa hàng bán hoa mai, hoa đào. Bố tôi cẩn thận chọn mua những cành mai vàng và những nhánh đào tươi thắm. Tôi thấy bố tôi chỉ chọn nhành mai có nhiều búp vì bố tôi nói như vậy mới chưng được cả tuần lễ Tết để đón lộc may và thưởng ngoạn mai. Bố tôi giải thích thêm, nếu muốn nụ mai sớm nở, chúng ta chỉ cần hơ lửa gốc mai, thế là hôm sau hoa mai nở rộ bởi khi hơ lửa nóng, nhựa trong thân cây sẽ tăng độ chuyển về ngọn để các búp mai buộc nở hoa. Những lộc lá non trên cành hoa mai màu xanh lục, màu lam như quyện lấy những búp mai chớm nở tỏa ra vẻ đẹp e ấp nhưng thanh tao như cô thiếu nữ vừa chớm tuổi xuân thì.

Cô bán hoa duyên dáng, mời khách, vui vẻ giải thích từng loại mai có nhiều màu khác nhau như Hoàng mai, hồng mai, và bạch mai. Mai có các loại như mai tứ quý (Ochnaceae serrulata, quế diệp hoàng mai (Ochnaceae kirkii Oliv. Heima), mai chiếu thủy (Wrightia religiosa). Hoa đào cũng lắm loại khác nhau, hầu hết hoa đào đều có hoa kép. Ðào có 4 giống: Ðào bích có màu hồng thẫm, sai hoa là một loại đào dùng để cắm chơi trong các ngày Tết. Ðào phai hoa màu hồng nhạt cũng sai hoa và thường được trồng để lấy quả. Ðào bạch ít hoa hơn, khó trồng. Ðào thất thốn cây thấp nhỏ, hoa nhỏ và nhiều màu, màu đỏ thẫm. Hồng mai là hoa đào hay mơ, nở hoa dịp đầu xuân. Cuối cùng bố tôi chọn một cành đào bích có màu hồng thẫm để cắm chơi trong các ngày Tết.

Ý nghĩa hoa mai hoa đào ngày Tết: Hoa đào và hoa mai đã trở thành loài hoa quen thuộc trong ngày Tết cổ truyền Việt Nam nên hu như giađìnhncũng chưng hai loi hoa ny trong ngy Tết bên cnh nhng bông cc đi th vng rc rMai và đào chính ra cùng dòng họ, nhưng về sau các nhà thực vật học nghiệm thấy đào (peach) hay mơ (apricot), mận (plum hay prune) và anh đào (cherry) là loại ra quả, nên tách riêng dòng họ mai ra. Trên đường v nh bố tôi k cho chúng tôi nghe v ý nghĩa v s tích ca hai loi hoa ny.
 


Hoa đào

Hoa mai
Hoa đào: Ngày xưa, ở phía đông núi Sóc Sơn có một cây hoa đào cổ thụ, cành lá xum xuê. Trên cây hoa đào khổng lồ ấy có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ, uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. Quỷ dữ hay ma quái nào đến phá sẽ không tránh khỏi sự trừng phạt của hai vị thần linh. Ðến ngày cuối năm hai thần Trà và Uất Lũy phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Trong mấy ngày Tết, hai thần vắng mặt ở trần gian nên để tránh ma quỷ hoành hành dân chúng đã đi hái những cành hoa đào về cắm trong lọ, ai không hái được thì lấy giấy hồng điều vẽ hình hai vị thần linh dán ở trước nhà. Việc làm này từ đó trở thành thông lệ, hàng năm cứ mỗi dịp Tết đến, mọi người đều cố gắng cắm một cành hoa đào trong nhà mình. Ngày nay, người Việt vẫn giữ tập tục trang hoàng cho nhà mình bằng cành đào tươi thắm, sắc giấy đỏ hồng điều với câu đối hoà hợp cầu mong năm mới được vui vẻ bình an.

Hoa mai: Ngày xưa có một cô gái tên Mai có tính tình nhân hậu, khảng khái và rất tinh thông võ thuật. Ngay từ khi còn nhỏ, cô đã theo phụ giúp cha mình diệt trừ yêu quái, cứu xóm làng, danh tiếng truyền đi khắp nơi. Khi cô gái bước sang tuổi mười tám, sức khỏe càng tăng lên gấp bội, võ thuật càng ngày càng tinh thông thì yêu tinh xuất hiện. Trước sự khẩn khoản của dân làng, hai cha con ra tay nghĩa hiệp. Trước khi lên đường, cô gái được mẹ may cho một bộ quần áo màu vàng rất đẹp hứa hẹn ngày trở về cô sẽ mặc bộ đồ vàng ấy cho mẹ nhìn thấy cô từ xa.

Hai cha con trèo non lội suối tìm yêu tinh để tiêu diệt, người cha khi này sức đã yếu nên Mai đã thay cha, đảm đương trách nhiệm chống chọi với yêu tinh. Cuối cùng cô gái cũng giết được yêu tinh nhưng trước khi chết con yêu tinh đã vùng dậy dùng đuôi quấn và siết chết cô gái. Cảm thương trước tấm lòng hiệp nghĩa của cô gái, Táo quân đã khẩn khoản xin Ngọc Hoàng cho cô được sống lại và trở về với gia đình trong chín ngày. Thế là từ đó, cô gái được trở về nhà trong hình hài nguyên vẹn với gia đình trong chín ngày (từ 28 Tháng Chạp cho đến mồng 6 Tết).

Về sau khi cha mẹ qua đời, cô gái không về nhà nữa mà hóa thành một cây hoa mọc bên ngôi miếu mà người dân đã lập nên để cúng bái cô. Thấy cây hoa lạ mọc lên bên miếu và trổ hoa vàng suốt chín ngày Tết, dân làng lấy tên cô gái đặt cho cây hoa và chiết nhánh mang về trồng để trừ tà đuổi quỷ, mang lại may mắn cho gia đình mỗi độ xuân về Tết đến.

Từ câu chuyện đẹp về hoa đào hoa mai nên vào đêm Giao thừa, không nhà nào thiếu một cành đào, nhánh mai. Có người cho rằng xem hoa đào hoa mai nở hoa để đoán mệnh tài lộc trong năm mới. Đêm Giao Thừa cho tới mùng một Tết, nếu hoa đào trổ bông, hoa có ba lớp trên đài, màu đỏ thắm thì việc làm ăn của gia đình trong năm mới sẽ được thuận lợi hoặc bất ngờ nhận được nhiều tài lộc. Về hoa mai, sau Giao thừa đến sáng mùng một Tết, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may, vì người xưa có câu "Hoa khai phú quý". Đặc biệt, nếu xuất hiện bông hoa 6 cánh thì chắc chắn sang năm mới sẽ có nhiều điều tốt lành đến với gia đình.

Phong Tục ngày Tết: Tết Nguyên Đán còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ gọi đơn giản là Tết. Đây là dịp lễ đầu năm âm lịch, quan trọng ở Việt Nam và với văn hóa của các nước Đông Á. Trước ngày Tết, người Việt có các phong tục như "cúng Táo Quân" ngày 23 tháng chạp âm lịch và "cúng Tất Niên" ngày 29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch.


Thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ

Tết Nguyên Đán tính theo Âm lịch nên muộn hơn Tết Dương lịch hay Tết Tây. Do quy luật ba năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 01 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 02 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Tết Nguyên Đán thường kéo dài từ 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới, 23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng. Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng một tháng Giêng âm lịch, trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, thăm hỏi người thân, dành những lời chúc mừng tốt đẹp, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên.

23 Tết là ngày đón và cúng ông Táo hay thần Thổ Công, mẹ tôi đi chợ mua gà, hoa quả, hương đèn và hoa.  Tôi còn nhỏ nên chưahiểu về nguồn gốccủa phong tụcnày, theo mẹ tôi kể thìTáo Quân là từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được người Việt chuyển hóa sự tích hai ông một bà là thần Đất, thần Nhà và thần Bếp núc. Người Việt ngưỡng mộ lòng chung thủy của Ông Táo và thờ cúng Ông Táo với hy vọng ba vị Táo Quân sẽ giúp họ giữ "bếp lửa" trong gia đình luôn nồng ấm và hạnh phúc. Táo quân hay Thổ Công là vị thần cai quản mọi hoạt động, quyết định sự may, rủi, phúc họa, ngăn cản sự xâm phạm của ma quỷ, giữ bình yên cho gia đình gia chủ. Vì vậy tục cúng ông Táo mang ý nghĩa cầu mong cho sự ấm no, đầy đủ, sau đó làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng.

Ông Táo về trời sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Cá chép là phương tiện để ông Táo cưỡi về trời. Vào ngày này, sau khi cúng lễ xong, các gia đình đều cúng con cá chép rồi đem ra sông hay ra ao thả ngụ ý "cá vượt Vũ môn" hay "cá chép hóa rồng", cá chép mang ý nghĩa biểu tượng cho sự thăng hoa, tinh thần vượt khó, sự kiên trì và bền bỉ để đi tới thành công.

Tối 30 tết, bố tôi cùng ông nội tôi lên chùa lễ phật, xin xâm, hái lộc, rồi trở về xông nhà sau 12 giờ theo tục lệ xông nhà.  Vừa bước vào nhà, bố tôi cùng ông nội đi thẳng vào bàn thờ ông bà, khấn nguyện và mời ông bà về ăn Tết. 

Ðêm 30 TẾT, Cúng Giao Thừa: Bố tôi là con trưởng và anh Phương là cháu đích tôn của dòng họ Nguyễn Tường nên ngày Tết vô cùng quan trọng đối với gia đình tôi, nhất là ông bà nội tôi lại sống chung với gia đình tôi, nên năm nào mẹ tôicũng bận rộn cả tháng để chuẩn bị cho ngày Tết, dọndẹp nhà cửa, bàn thờ,sửa soạn mâm cúng, v.v...Mẹ tôi chuẩn bị đón xuân rất kỹ, một tuần trước Tết mẹ tôi đã lau chùi bộ lư hương đồng bóng loáng, những chậu hoa cúc và hoa lanđã đượcmẹ tôi bầy trước cửa ngoài phòng khách. Cả ngày 30 Tết chúng tôi phụ mẹ tôi làm cơm cúng giao thừa, xếp mâm quả và thức ăn lên bàn thờ mời tổ tiên về ăn Tết.  Trên bàn thờ gia tiên có mâm ngũ quả, có bánh chưng, bánh tét, mứt, trà sen, cặp dưa và bình hoa lay-ơn màu đỏ thẫm đặt giữa hai hàng đènvà bát hương nghi ngút khói. Những lúc ấy, mẹ tôi thường kể cho chúng tôi nghe về những phong tục tập quán của ngày Tết, theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ như kiêng quét nhà ngày mồng một Tết vì nếu quét nhà ngày mồng một, thì tiền sẽ ra hết. Nếu ngày mồng một mà phải làm việc cực nhọc, thì cả năm không được nhàn hạ.  Nếu vợ chồng cãi nhau thì cả nằm không có hạnh phúc.  Tóm lại, mình phải làm điều hay thì cả năm sẽ được nhiều điều tốt đẹp. 

Trong lúc chờ bố tôi và ông nội vềxông nhà, mọi ngườingồi nghỉmệt vàcoi trực tiếp truyền hình chương trình lễ Phật tại Chùa. Mẹ tôi nói việc xông nhà rấtquan trọng, bà tin rằng người nào bước vào nhà mình sau 12 giờ đêm, tức là sau giao thừa thì họ sẽ đem cái tốt hay xấu đến cho gia đình trong suốt cả năm. Năm nào mẹ tôi cũng chọn bố tôi và ôngnội tôi xông nhà vì mẹ tôi bảo tính ông nội hiền lành, thương con cháu, tính bố tôi vui vẻ, có việc làm chắc chắn, có hiếu, tử tế, thương gia đình, v.v...Vả lại, mẹ tôi nói để tỏ lòng kính trọng ôngnội và nhường cho bố xông nhà, bố sẽ cảm thấy vui sướng.  Mẹ tôi giải thích thêm,chúng ta có thể chọn bất cứ ai xông nhà cho mình, miễnlà nhữngngườiđócó tính tình vui vẻ, nhân hậu,tử tế, có nghề nghiệp là được.  Khi xắp đến giao thừa mẹ tôi dục chúng tôi vào thay quần áo mới và không quên nhắc nhở mọi người mặc mầu đỏ hoặc mầu tươi sáng để sửa soạn đón giao thừa và mời tổ tiên về ăn cỗ. 


Từ buổi chiều hôm ấy, bố tôi đưa ông nội đi Chùa cầu nguyện, hái lộc và về xông nhà. Mẹ tôi và bà nội tôi ít khi đi theo vì trời khá lạnh về đêm và bà nội bị dị ứng với mùi khói của pháo giao thừa.  Qua giao thừa khoảng 15 phút, tiếng chuông cửa reo lên, chúng tôi chạy ùara cửađónbố tôi và ông nội tôi. Năm nào cũngthế, tôi thấytrên tay mỗi người nào là nhánh lộc đầu năm, nào là trái cây trên chùa phát lộc. Bước vào nhà, cả ông nội lẫn bố tôi cười vui, chúc tụng, chúc gia đình êm ấm, hạnh phúc, mạnh khỏe, an vui. Những đứa cháu tôi reo lên mừng tuổiông cố nội,ông nội. Bố tôi đến bên cạnh mẹ tôi, ôm và hôn nhẹ lên tóc vợ, nói rất nhỏ, "Chúc hai ta mãi mãi hạnh phúc" rổi ông ôm các con cháu vào lòng "Chúc giađìnhhạnh phúc,các con thành côngvà cáccháu ngoan ngoãn". 

Ông bà nội, bố mẹ tôi bước hẳn vào phòng khách, tiến đến trước bàn thờ Phật, đốt nhang đưa cho mỗi ngườimột cây, xong bốn người cùng khấn nguyện rồi lậy Phật, kế đến là vợ chồnganh Phương và 2 đứa nhỏ,cuối cùng là anh emchúngtôi.  Cúng tổ tiên xong, mọi người ngồi xuống mâm cỗ giao thừa đã xếp sẵn cùng ăn mừng đón năm mới và trò chuyện vui vẻ. Bữa tiệc đón giao thừa kéodài 3 giờ sáng. 

Mồng Một, TẾT NGUYÊN ĐÁN. 

Sáng mồng một Tết, bố mẹ tôi gọi anh em chúng tôi dậy sớm và chuẩn bị chúc thọông bà nội, hôm ấy cũng chẳng khác hơn mọi ngày cho lắm, từ sáng sớm, ông bà nội và bố mẹ tôi đã dậy sớm.  Cái khác là mọi người đều mặc quần áo mới, ông nội và bố thì mặc bộ đồ tây với áo jacket, thắt cà-vạt mầu đỏ. Bà nội và mẹ tôi mặc áo dài nhung màu đỏ đậm và đeo chuỗi hạt trai mầu trắng ngà ở cổ.  Mẹ tôi trang điểm giản dị nhưng trông bà trẻ, đẹp và sang.   Sáng nào Ông bà nội và bố mẹ tôi cũng muốn uống trà nóng vớibánh đậu xanh, hôm nay có thên bánh, mứt, hạt dưa, v.v...Bình trà sen bốc lênmùi thơm dìu dịu, pha lẫn cái vị ngọt của bánh mứt, khiến không khí của ngày Tết tràn ngập cả căn nhà.

Khi mọi người đã sẵn sàngvà aicũngmặc quần áo mới, mầu sắc tươi sáng thật đẹp.  Tết năm nay anh em chúng tôi bàn nhau mặc theo y phục cổ truyền Việt Nam để làm ngạc nhiên cả nhàkhiến bố mẹ tôi vừa nhìn thấy các con, cháu trong y phục áo dài khăn đống thì vui lắm.  Ông nội và bố tôi đang cầm tách trà trên tay vội đặt xuống bàn, đầu gật gù, cười lớn ra vẻ vừa lòng.  Bà nội và tôi mẹ tôi đang nói chuyện cũng ngưng lại,reo lên trong vui sướng. 

- Chao ôi, các con tôi xinh đẹp quá. 

Anh em chúng tôi lần lượt tiến lên chúc thọ ông bà nội và bố mẹ sống lâu trăm tuổi, khỏe mạnh và được ông bà lì xì để lấy may.  Chúc tuổi ông bà cha mẹ xong, gia đình chúng tôi chuẩn bị đi qua nhà chú Luân tôi để mừng tuổi ông bà nội ngoại, tiện thể mời ông bà nội ngoại và gia đình chú qua ăn Tết ở nhà tôi.

Bữa tiệc của ngày mồng một Tết rất vui và đông người ở nhà tôi vì tất cả các cô chú hai bên nội ngoại đều tụ họp và về Tết ông bà nội và bố mẹ vì ông nội tôi là trưởng họ.Ngườithì mang bánh chưng, giò chả, hoa trái, bánh ngọt, v. v... Mấy đứa nhỏ dànhnhau mời khách, thay phiên chúc Tết để lấy tiền lì xì.  Năm nào cũng vậy, khi mọi người đã đến đông đủ, bố tôi thường chụp một tấm hình lưu niệm, chụp hình xong, mọi ngườivào bếp phụ anh em chúng tôi bóc bánh chưng và xếp mâm cỗ Tết. 

Mồng Hai TẾT: 

Là ngày lên Chùa Lễ Phật, Xin Sâm. thăm mộ Ông Bà và họp nhau ở nhà họ ngoại tục nhà của chú Luân. Anh em chúng tôi thích ngày mồng hai Tết nhất vì tiền lì xì đã có sẫn và chú Luân tổ chức chơi "Bầu cua cá cọp" rất vui. Sau khi ăn tiệc xong, ông bà nội ngoại và các chú, cậu ra phòng khách dùng trà và nói chuyện, còn các cô thì ngồi nói chuyện về quần áo, nữ trang, son phấn, v.v.... Chú Luân năm nào cũng hô hào, rủ rê mọi người và xung phong làm chủ xòng...

- Mấy nhỏ, tiền lì xì đâu, mang ra đây...Vừa nói, Khải vừa trải tấm giấy chơi bầu cua cá cọp ra, trải xuống đất. 

- Quỳnh Lan, lấy cho chú một cái tô và một cái đĩa coi.

- Huy đã có sẵn mọi thứ rồi đây chú. 

Thế là mọi người lớn, nhỏ đều ngồi quây quanh bàn bầu Cua Cá Cọp, kể cả các chú, tiếng la hò, cười lớn reo lên từng đợt... Mấy đứa nhỏ sợ thua hết tiền nên đòi ngồi chung với người lớn, không khí ngày Tết thật vui và căn nhà tràn ngập tiếng cười... 

Mồng Ba TẾT:

Là ngày cúng Tiễn Ông Táo, Ông Bà về Trời và đi thăm bạn bè. Từ xưa đến nay, bữa cơn gia đình vô cùng quan trọng đối với bố mẹ tôi, nên từ khi các con còn nhỏ, bố mẹ tôi bó buộc các con dù có bận rộn thể nào đi nữa, bữa cơm gia đình nhất là bữa cơn chiều cũng phải về nhà để ngồi chung với nhau.  Vì bố mẹ tôi cho rằng đây là sợi dây buộc chật sự liên hệ giữa cha mẹ, vợ chồng và con cái và cũng là nền tảng của hạnh phúc. 

Sau khi cúng tiễn Ông Táo, Ông Bà về Trời và bữa điểm tâm cũng gia đình anh em chúng tôi mới được phép đi chơi với bạn bè. Hồng, Phượng, Ðào là ba người bạn thân với hai chị em tôi từ thời học tiểu học. Ngày mồng ba Tết, 5 đứa chúng tôi rủ nhau tụ họp tại nhà Phượng. Sau hai ngày Tết với bánh chưng, giò thủ và kẹo mứt, chúng tôi thèm một bữa cơm thịt kho trứng ăn với dưa giá, canh chua cá lóc. Phượng là người miền Nam nên nấu mấy món này rất ngon, ba Phượng mất sớm và mẹ Phượng bán hàng vải ngoài cho nên chúng tôi tha hồ quậy ở nhà Phượng mà không sợ làm phiền người lớn. Thấm thoát đã 45 năm trôi qua từ ngày xa quê hương, ngày ấy tôi ra đi trong vội vã bỏ lại sau lưng nhiều kỷ niệm.  5 chúng tôi mỗi đứa một phương trời, dư hương của ngày xưa êm ấm chỉ còn là trong ký ức của những ngày hạnh phúc bên gia đình, bạn bè.  Xuân tha hương ở đây cô quạnh quá, lòng tôi cứ mãi cô đơn mỗi độ xuân về, thời gian hỡi, hãy trả lại cho tôi những ngày xưa thân ái...

Câu Đối Hán tự

Tân niên, an bình phú lộc đáo
Hỉ xuân, thắng lợi phát tài lai.

(Năm mới, bình yên giàu may đến
Vui xuân, hạnh phúc phát tài về)

Chữ nghĩa Hán/Việt

Hồng đào thịnh vượng vạn nhật hỉ
Hoàng mai như ý bách niên an

(Ðào hồng thịnh vượng ngàn ngày vui
Mai vàng như ý trăm năm yên.)*

Khánh Lan
California, Thanksgiving 2020


*: yên: an bình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO VỀ TẾT NGUYÊN ĐÁN:

Tết Nguyên Đán (còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ gọi đơn giản là Tết) là dịp lễ đầu năm âm lịch quan trọng và có ý nghĩa bậc nhất ở Việt Nam, cùng với văn hóa Tết Âm lịch của các nước Đông Á. Trước ngày Tết, người Việt có các phong tục như "cúng Táo Quân" (23 tháng chạp âm lịch) và "cúng Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch)

Vì Tết tính theo Âm lịch nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (hay Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà rơi vào giữa những ngày này. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).[2]

Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 (hay mùng 1[3]) tháng Giêng âm lịch trên đất nước Việt Nam và ở một vài nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Sắm đào và quất ở miền Bắc, miền Trung hay mai ở Miền Nam được coi là sự chuẩn bị không thể thiếu trong những ngày giáp Tết. Sau đó, trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng thăm hỏi người thân, dành những lời chúc mừng tốt đẹp, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên... Theo phong tục tập quán, Tết thường có những điều kiêng kỵ.

Từ nguyên: Hán-Nôm: 節元旦. Tết trong tiếng Việt là âm Hán Việt cổ của chữ 節, mà âm Hán-Việt hiện đại đọc là tiết. Tết và tiết đều bắt nguồn từ âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ "節". "Tết" xuất hiện trước "tiết", vào giai đoạn chữ "tiết" 節 có âm đọc trong tiếng Hán trung cổ là /tset/. "Tiết" xuất hiện sau "Tết", vào giai đoạn âm đọc trong tiếng Hán trung cổ của chữ "tiết" 節 đã biến đổi thành /tsiet/. Ban đầu cả "Tết" và "tiết" đều được phát âm giống như âm đọc của chữ "tiết" 節 trong tiếng Hán ở thời điểm chúng được tiếng Việt vay mượn, về sau do sự biến đổi của ngữ âm tiếng Việt cách phát âm của chúng đã thay đổi thành "Tết" và "tiết" như hiện nay. "Tết Nguyên Đán" vốn không phải là "Tiết Nguyên Đán" trong 24 bốn "Tiết khí" (chữ Hán: 節氣, pinyin: jiéqì) của Thời tiết phân chia theo lịch Mặt trăng (Nông lịch). Từ "nguyên" 元 trong "Nguyên Đán" 元旦 có nghĩa là đầu, đầu tiên, còn "đán" 旦 có nghĩa là ngày. "Nguyên Đán" 元旦 là chỉ "Ngày đầu tiên, tức ngày mồng một của một năm Nông lịch".

Lịch sử Tết Nguyên Đán: Theo văn hóa Đông Á do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán. Sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.

Tại Việt Nan, Lê Tắc ghi chép chi tiết về việc đón Tết của người Việt trong sách An Nam chí lược vào thế k XIII như sau:
Thường năm, trước lễ Tết hai ngày, vua đi xe ngự-dụng, các quan tuỳ tùng đều mặc triều-phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích. Ngày 30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-Củng, các bề tôi đều làm lễ, rồi xem các con hát múa trăm lối. Tối qua cung Động-Nhân bái yết Tiên-Vương. Đêm ấy đoàn thầy tu vào nội làm lễ "Khu-Na" (nghĩa là đuổi tà ma quỷ mị). Dân-gian thì mở cửa đốt pháo tre, cổ bàn trà rượu cúng tổ. Ngày Nguyên-Đán, vào khoảng canh năm, vua ngồi trên điện Vĩnh-Thọ, các tôn-tử (con cháu nhà vua), các quan cận-thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường-Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, vua ngồi trên điện Thiên-An, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộn xộn trước điện đánh thổi các bài ca-nhạc trước đại-đình. Con cháu nhà vua và bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong, các tôn-tử lên điện chầu và dự yến. Các quan nội-thần ngồi tiểu điện phía tây, các quan ngoại thần ngồi hai bên tả hữu vua. Vua ngồi ăn trên đài"Chúng-tiên" hai tầng vàng ngọc sáng chói ở trước điện, các quan làm lễ, trước sau chín lạy, và chín tuần rượu rồi giải-tán. Ngày mồng hai Tết, các quan đều làm lễ riêng ở nhà. Ngày mồng ba Tết, vua ngồi trên gác Đại-Hưng, xem các tôn-tử và các quan nội-cung đánh quả bóng (quả cầu thêu. Mùng năm Tết, lễ khai-hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ các chùa miếu và du-ngoạn các vườn hoa. Cũng trong sách An Nam chí lược của Lê Tắc, người Việt có phong tục vẽ mình, ưa uống rượu, dùng trầu cau đãi khách, ăn dưa mắm, những vật dưới biển và đã tổ chức lễ Tết. Người Việt đón lễ Tết từ tháng giêng cho đến tháng ba âm lịch, chơi nhiều trò chơi như đá bóng, đá cầu, đánh cờ, đấu vật và tổ chức tế lễ. Học giả Lê Quý Đôn chép trong sách Kiến văn tiểu lục rằng nước Việt thời nhà Lý, đã thực hiện các lễ nghi quan trọng như lập Đàn phong vân để cầu mưa, lập đàn xã tắc để cầu cho quanh năm được mùa, dùng ngày lập xuân để làm lễ nghinh xuân. Lê Quý Đôn viết rằng thời Hồng Đức (1442-1497) lễ Nguyên đán là ngày lễ quan trọng bậc nhất, trăm quan phải vào chầu vua.

Một số quốc gia Đông Á khác:

1. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2879 TCN thay đổi theo từng thời kỳ. Một vài nhà nghiên cứu Việt Nam và phương Tây cho rằng trên lãnh thổ Trung Quốc thời cổ đại có hai chủng tộc sinh sống là người Hán (Mongloid phương Bắc) ở lưu vực Hoàng Hà, người Bách Việt (Mongloid phương Nam) ở nam Dương Tử. Nền kinh tế sơ khai của người Hán là chăn nuôi du mục còn người Bách Việt trồng lúa nước. Tết là lễ hội nông nghiệp nên xuất xứ từ các dân tộc Bách Việt phương Nam còn người Hán chỉ tiếp nhận sau này.
Lịch sử Trung Quốc cũng cho rằng Tết được thay đổi qua các thời kỳ. Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau. Đời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ III TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa. Theo các nghiên cứu gần đây, thực tế cư dân Bách Việt ngày xưa ăn Tết vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch ngày nay) đến thời Hán mới chính thức đổi thành tháng Dần (tháng Giêng). Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng một trong khi miền Nam thì ngày 30 tháng 1).[19] Từ năm 1976, cả hai miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7.

2. Người Đài Loan, Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất, là những ngày mà mọi người ở Đài Loan quây quần bên nhau, cùng nhau đoàn viên sau một năm làm việc vất vả. Họ có lễ hội thả đèn lồng được tổ chức tại làng cổ Thập Phần vào dịp này.

3. Tết Nguyên Đán ở Hồng Kông cũng mang nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc nhưng cách đón Tết của người Hồng Kông vô cùng đặc sắc khi pha trộn giữa nền văn hóa truyền thống Phương Đông với nét văn hóa phóng khoáng, mới mẻ của phương Tây. Lúc chuẩn bị đón Tết, người dân Hồng Kông cũng lau dọn nhà cửa sạch sẽ, trang trí giấy đỏ. Trẻ em thì được lì xì, người lớn chúc tụng nhau một năm mới hạnh phúc

4. Trong văn hóa Hàn Quốc, ngày lễ lớn nhất trong năm cũng chính là Tết Nguyên Đán, hay còn gọi là Seollal, ngày xua đuổi linh hồn xấu xa, điều xui xẻo và chào đón điều tốt lành. Tương tự như ở Việt Nam, Tết bắt đầu từ ngày 1/1 Âm lịch và thường kéo dài trong ba ngày.

5. Ở Triều Tiên, hiện tại người dân nước này đón Tết Nguyên Đán vào mùng một tháng Giêng như nhiều quốc gia châu Á, khác với trước đây họ thường đón Tết vào tháng 10 hoặc 11. Tết của người dân Triều Tiên kéo dài hàng tuần với nhiều phong tục truyền thống như dán hình động vật lên cửa để cầu may, xem tướng số, đón mặt trăng. Tết Âm Lịch hay còn gọi là Tết Tháng Trắng, Tết Nguyên Đán là một trong những dịp lễ lớn nhất trong năm ở Mông Cổ. Đây là thời khắc báo hiệu mùa đông giá lạnh đã kết thúc, là dịp để gia đình sum vầy và thắt chặt mối quan hệ. Những ngày đầu năm, người Mông Cổ sẽ chỉ mặc trang phục dân tộc. Họ quay quần cùng nhau, trò truyện, vui đùa, trao đổi các món ăn và thưởng thức chúng.

Đông Nam Á:

1. Ở Singapore, người dân đón Tết truyền thống cùng thời điểm với Tết Nguyên đán của người Việt Nam. Những ngày Tết ở Singapore thường diễn ra với Lễ hội mùa xuân với ba sự kiện nổi bật: Lễ hội Hoa đăng, Lễ hội Singapore River Hongbao và Lễ hội đường phố Chingay, kéo dài từ mùng 1 Tết cho đến 15 tháng Giêng âm lịch. Mỗi lễ hội đều mang đậm chất xuân, vui tươi và có rất đông người dân tham gia.

2. Ở Malaysia, một phần tư dân số Malaysia là người Hoa kiều, vì vậy Tết Nguyên đán cũng là một dịp rất quan trọng với họ. Nó cũng được coi là kỳ nghỉ chính thức tại quốc gia này.

Tất niên: 

Ngày Tất niên có thể là ngày 30 tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu). Đây là ngày gia đình sum họp lại làm cỗ cúng tất niên va ăn cơm với nhau. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày mồng 1 tháng Giêng, giờ Tý (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó thời điểm bắt đầu giờ Chính Tý (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết. Nó đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, nó được gọi là Giao thừa. Để ghi nhận thời khắc này, người ta thường làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng Ông Ba Mươi. Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang không nơi nương tựa.

Sắp dọn bàn thờ: 

Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau tùy theo từng nhà. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho Mặt Trời, Mặt Trăng và hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng. Phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Có nhà cũng cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với sự cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc và buôn bán lãi gấp nhiều lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu và vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen hai cái đĩa giữa đèn và hương để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó). Trước bát hương để một bát nước trong để coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu và dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới.

Giao thừa: 

Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Dịp này, người ta thường bắn pháo hoa ở những địa điểm rộng rãi, thoáng mát. Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (chữ Hán: 天兵, tức 12 vị Hành khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển (行遣) cũ đã cai quản Hạ giới trong năm cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. Mười hai vị Hành khiển và Phán quan (判官) gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Cúng Giao thừa trong nhà: là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao thừa vừa tới nhằm để cầu xin Tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình gặp những điều tốt lành trong năm mới sắp đến. Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày Tết được chế biến tinh khiết với phong cách trang nghiêm. Cỗ mặn gồm có bánh chưng, giò, chả, xôi gấc, thịt gà, xôi các loại, rượu, bia và các loại thức uống khác. Các món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. Cỗ ngọt và chay bao gồm Hương, hoa, đèn nến, bánhkẹo, mứt Tết.
Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ thường khấn thần Thổ Công để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ông là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái).

Ba ngày Tân niên:

"Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc Tết các ông bố theo tục: Mồng Một Tết cha. "Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm, sau đó, người ta chúc Tết các bà mẹ theo tục: Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ vợ tương lai để chúc Tết theo tục Đi sêu. "Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy, đi thăm viếng nhau.

Xông đất:

Xông đất là tục lệ quan niệm ngày Mồng Một "khai trương" một năm mới, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.
Cách chọn tuổi xông đất: Tuổi Giáp hạp với Kỷ mà kỵ với Canh - Mậu. Tuổi Ất hạp với Canh mà kỵ với Tân - Kỷ. Tuổi Bính hạp với Tân mà kỵ với Nhâm - Canh. Tuổi Đinh hạp với Nhâm mà kỵ với Quý - Tân. Tuổi Mậu hạp với Quý mà kỵ với Giáp - Nhâm. Tuổi Kỷ hạp với Giáp mà kỵ với Ất - Quý. Tuổi Canh hạp với Ất mà kỵ với Bính - Giáp. Tuổi Tân hạp với Bính mà kỵ với Đinh - Ất. Tuổi Nhâm hạp với Đinh mà kỵ với Mậu - Bính. Tuổi Quý hạp với Mậu mà kỵ với Kỷ - Đinh.

Xuất hành và hái lộc: 

Xuất hành là đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần. Tại miền Bắc, nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một cành lộc để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục hái lộc. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
Tuy nhiên việc hái lộc ngày nay đã có những quan niệm trái chiều so với trước đó là: Không nên hái lộc vì có thể có những cành lộc có "vong" hồn bám theo. Khi chúng ta hái lộc về vô tình sẽ mang "vong" về nhà, nếu "vong" tốt thì không sao nhưng nếu "vong" xấu thì có thể làm cho nhà cửa chúng ta không may mắn. Việc hái lộc đôi khi làm ảnh hưởng đến cây xanh làm hỏng hết cây cối gây ảnh hưởng đến môi trường. Việc hái lộc đôi khi dẫn đến xô xát do việc tranh dành chẳng hạn. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi và có thể đoán được năm mới hên hay xui chẳng hạn: Gió Nam: chỉ đại hạn; Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc; Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả; Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải; Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu; Gió Đông: chỉ có lụt lớn.

Chúc Tết: 

Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên, chúc Tết ông bà, "chúc thọ" các bậc cao niên, các bậc huynh trưởng.

Tục thăm viếng: 

Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng. Lời chúc Tết thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công. Đến thăm những người hàng xóm, những gia đình sống gần với gia đình mình, chúc họ những câu tốt lành, giúp gắn kết mọi người với nhau, xóa hết những khúc mắc của năm cũ, vui vẻ đón chào năm mới. Đến thăm những bạn bè, đồng nghiệp và những người thân thiết với mình, chúc họ những câu tốt lành giúp tình cảm bạn bè gần gũi hơn.

Mừng tuổi: 

Lì xì: người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay "hồng bao", gọi là "lì xì" với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong "hồng bao" có 8 đồng tiền, là Bát Tiên hóa than, được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu, vì ma sẽ sợ giấy màu đỏ. Theo truyền thuyết: Ngày xưa có một con yêu quái thường xuất hiện vào đêm Giao thừa khiến trẻ con giật mình khóc thét lên. Hôm sau đứa trẻ nhức đầu, sốt cao, làm cho bố mẹ không dám ngủ, phải thức canh phòng yêu quái. Có một cặp vợ chồng nọ mới sinh được một mụn con trai kháu khỉnh. Tết năm đó, có 8 vị tiên dạo qua, biết trước cậu bé sẽ gặp nạn liền hóa thành 8 đồng tiền ngày đêm túc trực bên cậu bé. Sau khi cậu bé ngủ say, hai vợ chồng lấy giấy đỏ gói những đồng tiền này lại và đặt lên gối con rồi ngủ. Nửa đêm, con yêu quái xuất hiện định làm hại đứa trẻ thì từ chiếc gối loé lên những tia vàng sáng rực, khiến nó khiếp vía bỏ chạy. Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ không phải là tiền chẵn, ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.

Hóa vàng: 

Ngày mồng 4 tháng Giêng theo lịch cổ là ngày con nước. theo truyền thống cũ người Việt làm cơm, làm lễ cúng tổ tiên đã về ăn Tết với con cháu, đốt vàng mã gửi người thân khuất bóng lời cầu nguyện một năm mới nhiều may mắn, phù hộ độ trì cho con cháu hậu thế làm ăn phát đạt. Tại nhiều vùng ở Đồng bằng Bắc Bộ, người Việt có tục hát chèo đò đưa tổ tiên trở lại thế giới bên kia. Tục hóa vàng theo nhà sử học Dương Trung Quốc, tục hoá vàng dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới vô hình bên kia sống gần với dương gian. Vào ngày mồng 4 và mồng 5 tháng Giêng, người ta kiêng xuất hành vì đây là ngày không tốt.

Khai hạ: 

Ngày mồng 7 tháng Giêng là ngày cuối cùng của chuỗi lễ hội Tết, trong ngày này, người Việt làm lễ hạ Cây nêu, gọi là lễ Khai hạ, kết thúc dịp Tết Nguyên đán và bắt đầu bước vào việc làm ăn trong năm mới từ ngày mồng 8 hoặc mồng 9 tháng Giêng.

Sắm Tết/Chợ Tết: 

Chợ Tết là những phiên chợ họp vào trước Tết từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hang nhất là các mặt hàng dùng cho Tết Nguyên đán như lá dong, gạo nếp, gà trống, hoa Tết các loại trái cây như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, dưa hấu. Những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến khi họp chợ trở lại. Người Việt có câu "mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ người" nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba Tết (ngày 3 tháng 1 âm lịch). Chợ Tết chấm dứt vào trước giờ Ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm.

Mâm ngũ quả:

Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: Chuối, bưởi, đào, hồng, quýt hay là chuối, ớt, bưởi, quất, lê. Có thể thay thế bằng cam, lê, táo, mãng cầu. Người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả, các loại quả đều có thể bày được miễn là nhiều màu sắc.Mâm ngũ quả của người miền Nam thường gồm mãng cầu Xiêm, sung, dừa, đu đủ, xoài với ngụ ý cầu sung vừa đủ xài. Người miền Nam thường kiêng kỵ chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu như chuối (chúi nhủi), cam (cam chịu), lê (lê lết), sầu riêng (ưu buồn), bom (táo), lựu (lựu đạn) và trái cây có vị đắng, cay.

Cây nêu ngày Tết: 

Là một cây tre cao khoảng 5, 6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng địa phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung. Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: "bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ".

Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu...Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp cho tới đêm Giao thừa. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi".

Tranh Tết: 

Tranh Đông Hồ trang trí ngày Tết Nguyên Đán, tranh "Đàn gà" hoặc "Sân gà" cầu chúc cho sự sung túc, đông con, Tranh dân gian Việt Nam, Tranh Đông Hồ, Tranh Hàng Trống, và Tranh Kim Hoàng. Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Nho (chữ Tâm, Phúc, Đức...). Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.

Câu đối Tết: 

Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau:

"Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh."

Câu đối
thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối (

) ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam. Ngày nay vẫn còn tồn tại tục "xin chữ" lấy hên đầu năm, với việc mua những tấm thư pháp viết chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt, với mục đích ấy, nhiều phố ông đồ với những ông đồ viết những tấm thư pháp bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Việt đã được tái lập tại Sài Gòn và Hà Nội. Những năm gần đây, để chấn chỉnh tình trạng lộn xộn và kinh doanh cẩu thả, tại Văn Miếu, Hà Nội đã có những kỳ thi sát hạch các ông đồ trước Tết.

Ẩm thực ngày Tết: 

Thành ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, no ba ngày Tết. Tết đến, dù nghèo khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày Tết sao cho "già được bát canh, trẻ có manh áo mới". Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ chất và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng thường gọi là "ăn Tết". Ngoài cơm, ngày Tết còn có: Bánh chưng, bánh dầy, bánh tét, mứt Tết, trái cây, kẹo bánh, hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ. Thức uống ngày Tết: Các loại rượu, rượu nếp thơm, nếp cái hoa vàng (người Kinh), nếp nương (người Thái), nếp cẩm (người Mường), rượu San lùng, rượu ngô (người H'Mông, người Dao), rượu Mẫu sơn (người Tày, người Nùng), rượu Bàu đá (Trung bộ), rượu đế (Nam Bộ). Cỗ Tết: Gà luộc, bóng bì, canh măng, chân giò có nấm hương, miến nấu lòng gà, nem rán, xôi gấc, xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò lụa, giò mỡ, nộm, dưa hành muối.
Bữa ăn tất niên của người Huế thường có xôi, thịt heo quay, cá rô chiên, canh rau (hoặc canh khổ qua), me ngâm đường. Mâm cỗ cúng tổ tiên, thường có khoai, sắn, lạc và chè. Ở làng Vũ Đại, Hà Nam phải có món cá kho, ở làng Sơn Vi, Phú Thọ thường có thêm chè lam, người dân Quảng Nam phải có bánh tổ Hội An. Miền Nam thường có thịt kho nước dừa, canh khổ qua, nem bì, dưa giá, củ kiệu, bánh tráng. Miền Bắc có cơm rượu, thịt đông, giò thủ, dưa hành, chè kho, mọc vân ám. Miền Trung có dưa món và món tré, thịt chua, tai heo.

Trong văn hóa-nghệ thuật: 

Tết, và các tục lệ, được nhắc đến rất nhiều trong ca dao Việt Nam:

Mùng Một thì ở nhà cha,
Mùng Hai nhà vợ, Mùng Ba nhà thầy

Mùng Một Tết cha,
Mùng Hai Tết mẹ, Mùng Ba Tết thầy

Cu kêu ba tiếng cu kêu
Mong cho Tết đến dựng nêu ăn chè

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

Tết cũng là đề tài cho nhiều văn, thi sĩ:

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già... (Vũ Đình Liên - Ông đồ)

...Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột
Om thòm trên vách bức tranh gà (Tú Xương)

Hay câu đối Tết như:

Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ)

Khánh Lan tham khảo.

lundi 20 juillet 2020

Tía tô trị cảm cúm-Bs Hoàng Xuân Đại



Thời tiết “mưa xuống, nắng lên” như hiện nay dễ khiến cho nhiều người bị cảm. lúc này, mọi người có thể nhớ đến tía tô, vị thuốc thích hợp trị chứng cảm mạo thường xảy trong những ngày oi bức bởi nó rất giàu dược tính, trị được nhiều bệnh.

Tía tô, còn gọi là tử tô, tô tử, tử tô ngạnh, é tía. Sách“Bản thảo cương mục”gọi tử tô là xích tô, cần phân (Dao), phằn cưa (Tày), hom tô (Thái), tên khoa học là Perilla frutescens (L.) Briton, thuộc họ Hoa môi (Lamaiaceae).
Đây là loại cây cỏ cao từ 0,5 - 1,0m, được trồng khắp nơi làm rau thơm gia vị ăn sống cùng các thức ăn khác như đậu phụ, rau trong món bún đậu mắm tôm chanh.
Bộ phận chế biến và sử dụng làm thuốc được thu hoạch về phơi khô trong râm mát (âm can), tử tô là cành non có mang lá của cây tía tô.
Đông y cho rằng tía tô có vị cay, mùi thơm, tính ấm. Lá có tác dụng làm ra mồ hôi, lợi tiêu hóa, trừ cảm lạnh. Thân cành lợi tiêu hóa. Hạt trừ hen, trị ho, làm long đàm.
Dưới đây là một số cách sử dụng tía tô trong trị một số bệnh chứng.

Chữa cảm các loại:

- Cảm lạnh: lá tía tô tươi một nắm, xắt nhỏ ăn với cháo nóng.

- Cảm cúm không có mồ hôi và ho tức ngực; nôn đầy: dùng 20g lá tươi giã nhỏ, chế
thêm nước sôi, quấy đều gạn lấy nước nóng; hoặc dùng 10 lá xắt nhỏ trộn với cháo
nóng, ăn rồi nằm nghỉ cho ra mồ hôi.

- Cảm mưa ướt gió lạnh, nóng rét, thân thể đau mỏi, nhức đầu sổ mũi, nôn đầy:
dùng lá tía tô 15g, vỏ quít cũ, củ gấu (hương phụ), gừng sống, hành trắng cả cây
đều 10g xắt uống lúc thuốc còn nóng.

- Cháo giải cảm: lá tía tô xắt nhỏ 10g, hành sống giã nhỏ 5g, gừng tươi giã nhỏ ba
lát, gạo tẻ 30g, muối vừa đủ. Nấu cháo nhừ, cho tía tô, hành, gừng, muối khuấy đều,
ăn khi còn nóng. Ra mồ hôi sẽ nhẹ người.

- Cảm cúm gai rét không ra mồ hôi: tía tô, lá chanh, bạc hà, lá sả, mỗi thứ một nắm
nấu nước xông.
- Cảm cúm có ho và nhức đầu: tía tô, kinh giới, lá lốt: một nắm, củ ném 50 củ, nghệ
tươi, gừng tươi: 3 lát. Đổ 3 chén nước đun sôi kỹ, xông cho ra mồ hôi rồi uống thêm
một chén nước nóng..
- Cảm cúm bốn mùa: tía tô, kinh giới: 20g, sắn dây, bạc hà: 10g, nghệ, gừng: 8g và
sài hồ 15g. Trừ gừng là dùng tươi, còn lại đều khô. Đổ 3 chén nước sắc còn 1 chén
uống khi nóng, uống xong đắp chăn nằm cho ra mồ hôi.

- Cảm sốt khi mang thai: đang có mang thai mà cảm sốt, không nền dùng kháng
sinh, tốt nhất là dùng tía tô, kinh giới, mỗi thứ 1 nắm, đổ 2 chén sắc còn 1 chén để
nguội uống, tiếp đó ăn 1 chén cháo nóng có đập 1 quả trứng gà lấy lòng đỏ quậy
đều.
Tía tô vắt nước uống chữa dị ứng, mề đay

Trị ngộ độc cua, cá, dị ứng, nổi mẩn ngứa:

- Giã lá tía tô vắt lấy nước cho uống, bã thì xát vào chỗ ngứa.
- Lá tía tô 10g, gừng tươi 10g, cam thảo 4g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày khi thuốc đang nóng; hoặc lá tía tô khô 10g, sắc uống nóng.

Tức ngực muốn mửa: nhai sống một nắm lá tía tô với vài lát gừng.

Trị sưng vú: lá tía tô giã nát đắp lên vú, lại lấy một nắm nửa sắc uống.

Trị đau bụng động thai: cành và lá tía tô sắc đặc uống dần.

Có thai gần sinh bị phù thũng toàn thân: vỏ gừng tươi 40g, lá và cành tía tô 80g. Đổ 3 chén nước đun sôi kỹ (khi đun nhớ đậy nắp kín), xông cho ra mồ hôi và và uống thêm 1 chén nước nóng, bài thuốc này vừa có tác dụng an thai.

An thai: cành tía tô sắc uống thường xuyên có tác dụng an thai chữa hen suyễn và người già ho đàm mạn tính: dùng hạt tía tô và hạt cải bẹ, mỗi thứ 10g, tán bột, uống hàng ngày với nước sắc lá táo chua và dây tơ hồng sao, làm thang.

Chữa mụn cóc: dùng lá tía tô tươi vò xát vào, ngày 4 - 5 lần, xát liên tục mụn sẽ khô hết ngứa rồi bị rụng.

Trị chứng dương vật bị lở: nếu trẻ nhỏ bị chứng lở dương vật nước mủ chảy ra thì phải lập tức lấy 1 nắm lá tía tô rửa bằng nước muối rồi giã nát đắp rịt vào chỗ đau, rất hiệu nghiệm.

Trị chứng đầy bụng bí tiểu: nếu như bị chứng tiểu tiện không thông, bụng dưới đầy trướng thì lấy khoảng 2kg cả cây (cành, lá, hoa, hạt) cho vào nấu sôi, xông vào phần bụng dưới thấy nguội thì đổ thêm nước sôi, sau đó dùng vải bọc muối rang nóng chườm vào những chỗ trướng cứng và rốn thì sẽ thông tiểu ngay, đầy trướng cũng xẹp dần xuống.

Trị chứng táo bón: người cao tuổi và người suy yếu mà bị chứng táo bón thì lấy hạt tía tô và hạt hẹ, mỗi thứ khoảng 15g, cho cả hai thứ vào giã nhỏ, chế thêm vào 1 bát nước, khuấy đều lên rồi chắt lọc lấy nước cốt nấu cháo ăn rất công hiệu.
Người bị hen suyễn do bị yếu phổi (chủ yếu thấy ở người cao tuổi) thì lấy khoảng 50g hạt tía tô, sao qua, tán thành bột mịn rồi đổ nước vào gạn lấy nước cốt (1 bát nước) đem nấu cháo với gạo tẻ, ăn vào lúc đói rất công hiệu.

Lưu ý: không ăn cá chép chung với tía tô, dễ bị sinh độc thành mụn nhọt.
Xông: lấy lá tía tô cùng các lá khác như chanh, cúc tần, lá tre, lá bưởi… tạo thành nồi xông. Có thể sau xông lấy một bát nước uống. Khi mồ hôi ra cần dùng khăn khô lau sạch và đắp chăn mỏng nằm nghỉ một chốc bệnh cảm sẽ khỏi. Lưu ý: khi nấu nước sôi mới bắt đầu cho các lá xông vào và đậy vung kín; đối với trẻ hay người già yếu cần có người lớn ngồi bên giúp đỡ và hướng dẫn trong suốt quá trình xông để phòng tai nạn.


Trị bịnh Gout rất hiệu nghiệm nữa - Mỗi ngày ăn cơm 2 lần sáng và chiều đều phải có lá Tía Tô ăn như rau sống. Lúc nào cũng có Tía Tô sẵn trong nhà. - Khi cảm thấy sắp bị sưng chân là nhai nuốt nhiều lá Tía Tô liền. - Nếu đang bị lên cơn đau thì nấu 1 bó lá Tía Tô để uống thì sẽ giảm đau ngay trong vòng 1/2 tiếng

BS. HOÀNG XUÂN ĐẠI

lundi 7 août 2017

Bánh Mì Sài Gòn Theo Giòng Thời Gian

Xuân Phương


"Bánh mì đã xuất hiện ở xứ ta trước cái mốc 1859, nhưng được biết đến nhiều là sau khi đội quân viễn chinh chiếm thành Gia Định .

– Huỳnh Ngọc Trảng

Trong bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của cụ Nguyễn Đình Chiểu năm 1861, ta thấy có hai câu như sau:

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.






Bánh mì theo chân người Pháp đến Saigon đầu tiên, xuống Nam Kỳ lục tỉnh, ra miền Bắc, sau đó mới phổ biến trên toàn quốc, cho nên khi đề cập đến bánh mì, người ta đề cập đến Saigon: bánh mì Saigon. Ta thấy những thực phẩm, những vật dụng hàng ngày mà người Pháp mang đến Việt Nam, đều được gọi kèm theo chữ tây như: khoai tây, hành tây, dâu tây, rượu tây, thuốc tây, giày tây…

Trong khi ngoài Bắc gọi bánh mì là bánh tây, thì miền Nam lúc đó đã gọi nó là bánh mì ổ (ổ như chữ ổ của bánh bông lan). Có lẽ một trong các loại bánh mì mà người Pháp du nhập sang đầu tiên là pain de champagne (bánh mì đồng quê) ổ bự, to bè, nhiều ruột, để được vài ngày hay các loại bánh mì hình tròn, hình bầu dục gọi tên là le pain rond, le complet, le bâtard…



Ai bảo bánh mì Paris ngon
Chắc gì hơn bánh mì Sài Gòn!
Bánh mì Sài Gòn Năm bờ Uon
Nóng, thơm, bùi, béo, lại vàng ròn
Công Tử Hà Đông

Những ổ bánh mì Saigon mới ra lò còn nóng, dậy mùi thơm của bột mì nướng, vỏ giòn rụm, vàng ươm, láng lẩy bơ, nở tròn bụng, ruột trắng mịn và xốp này từ những năm 30 cho mãi đến bây giờ, vẫn là một thứ quà Saigon, mà những người dân ở miền Tây đi Saigon về lại nhà mua làm quà cho con cháu. Dù bánh mì khắp nơi đều có, ở các tỉnh đều có lò làm bánh mì, nhưng danh tiếng bánh mì Saigon đã đi vào ký ức người ta từ lâu lắm rồi. Ở cửa ngõ thành phố đi các tỉnh đầy những chỗ bán bánh mì. Bến xe xa cảng miền Đông, miền Tây, lúc nào cũng có những người đội các cần xé đựng bánh mì đến tận cửa xe bán cho khách mua.





“Hồi còn nhỏ học Tiểu học, mỗi lần bãi trường, nghỉ hè là ba anh em tôi được ba tôi dẫn đi Sài Gòn chơi, thăm bà dì ở ngã Bảy gần rạp Long Vân… và nhứt là khi về lại Mỹ Tho, trên tay luôn luôn xách tòn ten một xâu chừng chục ổ bánh mì cột dây lác có quai. Quà Sài gòn à nhen. Má tôi đem chia cho bà con chòm xóm ăn lấy thảo. Còn mấy đứa bạn hàng ngày chơi tạc lon, vít hình, bắn đạn, đá cá, đá gà, đá banh, tắm sông… cho ngoạm (cắn) một miếng thôi là đủ rồi!
Bánh mì Sài gòn mà! Bánh mì ở đâu cũng có nhưng phải nói “Bánh mì Sài gòn” có đẳng cấp và phong độ ghê gớm lắm!. Một thứ quà bình dân đem về xa lắm ở tận trên… Sài gòn! Sài gòn cho dù có đủ món ngon vật lạ, đủ thứ trên đời do người ở tứ xứ mang về, nhưng theo đầu óc suy nghĩ non nớt của một học sinh tỉnh lẻ (đêm buồn), chỉ có “Bánh mì Sài gòn” mới tượng trưng cho “thủ đô” Sài gòn.
Theo thời gian có lúc ngon lúc dở, tùy chỗ pha thêm bột gạo nhiều ít khác nhau: chợ Cũ, xa cảng miền Tây, xa cảng miền Đông, ngã ba Hàng Xanh ….”

– Đáp tàu khói, về quê ăn Tết
Gió bấc đầu mùa gợn sóng đêm
Ôm ổ bánh mì làm gối nhỏ
Đem về cho mẹ với cho em
Kiên Giang





Sau khi mấy ông Tây thuộc địa về nước, bánh mì ở lại, vẫn tồn tại, và lần hồi mọc rễ vững vàng, được tiếp nhận rất nồng nhiệt, ở mọi nơi, trong mọi giới. Ổ bánh mì thông dụng và tiện lợi cho việc vừa đi vừa gặm (như thơ cụ Đồ Chiểu nêu trên) ngày nay là ổ bánh mì theo hình dáng như baguette của Pháp, nhưng ngắn hơn, chỉ khoảng 30-40 cm.

Baguette là loại bánh mì đặc biệt của thủ đô Paris, hình trụ thon, dài cỡ một mét, bề ngang nhỏ, đường kính khoảng 5- 6 cm, nặng chừng 250 gam, vỏ giòn, ít ruột, phía trên mặt có cắt rãnh, thường để ăn liền trong ngày, không giữ được lâu.

Ở Saigon, nhiều đợt bánh mì được ra lò trong ngày. Bánh mì nóng được phân phối khắp đường phố, khắp ngõ hẻm Saigon sáng sáng, chiều chiều nhờ đội ngũ bán bánh mì dạo. Hoặc là những em nhỏ quảy trên lưng các túi vải bồng bột, màu mỡ gà, bên trong lồng thêm vài lớp bao bằng giấy dầu để giữ cho bánh mì nóng lâu, vừa chạy lúp xúp vừa rao: ”Bánh mì nóng đê ê ê ê …”. Hoặc những ông bán bánh mì bằng xe đạp, sau yên xe chở một giỏ cần xé, phủ kín bằng bao bố.

“Nhiều lúc đứng chờ bánh mì ra lò, tôi đã có dịp chứng kiến quy trình làm bánh: Bánh mì trước khi nướng là bột lấy trong những bao bột mì, được thợ nhồi cho dẻo, để cho nở rồi kéo thành từng thỏi bột nhỏ, dài. Họ khéo léo ngắt từng đoạn cho vừa với cân lượng rồi dùng dao nhỏ rạch những đường dài dọc theo ổ bánh, để khi nướng bánh mau nở.

Xong, họ sắp những ổ bánh còn là bột đó thành hàng lên những chiếc “băng” giống như “băng-ca”, kê vào miệng lò nướng rồi kéo một cái tức thì bánh trên cái “băng-ca” đó đều nằm gọn trong lò nướng. Thợ đóng cửa lò nướng lại, tăng, chỉnh độ nóng của điện sao cho bánh nướng chín vàng mà không bị khét.

Khi đủ thời gian, ổ bánh đang nướng trong lò sẽ được những người thợ dùng những cái dầm nhỏ như cái mái chèo, xúc ra một ổ để xem độ chín. Khi bánh đã chín đều người ta dùng những dụng cụ giống như cái xẻng to mà xúc bánh ra, đổ thành đống trên bàn, mỗi lần xúc chừng chục ổ bánh nóng hôi hổi, sờ vào phỏng tay như chơi!” - Hoàng Đức

Bánh mì ăn không cũng ngon
Ta đi trăm núi, ngàn sông biển
Không đâu bánh mì ngon
Bằng bánh mì Saigon
Công Tử Hà Đông




Những lò bánh mì ở Saigon lúc nào cũng có đông người chờ lấy bánh mới: hoặc là những người bán lẻ cần một số lượng lớn, hoặc là những người chỉ cần mua một vài ổ, nhưng muốn mua thẳng từ lò. Cầm ổ bánh mì nóng hổi mới ra lò, người ta hay bẻ cái đầu giòn giòn ăn liền tại chỗ. Bánh mì nóng giòn ăn không cũng ngon, nhưng bánh mì không cũng có nhiều cách để ăn lắm.





Ăn bánh mì theo ông Tây, bà đầm từ thời thuộc địa là ăn bánh mì với fromage, trứng (omelette, oeufs au plat), thịt nguội (paté, jambon, saucisse à), beurre, mứt trái cây (confiture) như dâu, cam, nho hay chấm sữa nóng cho bữa ăn sáng. Dùng bánh mì ăn kèm với súp (soupe), bí tết (bifteck), ra gu (ragout)à trong bữa ăn tối.

Tuy cũng ăn giống như vậy, nhưng người Saigon đã dần dà cải tiến cho hợp với khẩu vị của mình như: Ăn bánh mì với những miếng phô mai “Đầu con bò cười (La vache qui rit)”, phối hợp thêm chuối già. Ăn sáng bằng bánh mì trét bơ mặn Bretel, rắc chút đường cát trắng; Bánh mì chấm sữa nóng, pha thêm một chút cà phê cho có mùi thơm hay ăn bánh mì trét bơ chấm cà phê sữa nóng; Bánh mì chấm sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ hay Con chim (hiệu Ông Thọ- Hiệu sữa Longevity, trước đây thuộc hãng Foremost, Mỹ, hình “Ông Thọ chống gậy”, nói lên tuổi thọ của người dùng. Hiệu Con chim của hãng Nestlé, Thụy Sỹ, đúng ra là hình một tổ chim, gồm một chim mẹ và hai chim con)…








Bánh mì gốc Tây, đến Saigon được cho kết duyên với các món ăn, gốc gác từ các nước khác, đã được Việt Nam hóa như: Cà ri gà nấu bằng nước cốt dừa và sả, trong khi các loại cà ri Ấn Độ nấu bằng sữa chua (yaourt); Bò kho cách hầm giống như bò nấu xốt vang của Tây (boeuf bourguignon), nhưng có thêm mùi ngũ vị hương; Hay ăn bánh mì với các món Tàu là phá lấu, lạp xưởng, xá xíu, thịt quay, xíu mại…

Vân Tiên ngồi dựa gốc dừa
Tay cầm chai rượu miệng nhai bánh mì
Nguyệt Nga mới hỏi ăn gì?
Vân Tiên mới nói bánh mì thịt quay!

NQB

Cách ăn bánh mì còn được Saigon hóa, phong phú thêm một bậc ở cách chế biến là kẹp vào trong bánh mì phần“nhân“ kiểu cách rất Saigon, gọi là bánh mì kẹp thịt Saigon hay bánh mì thịt Saigon.

Bánh mì thịt Saigon xác định được nét đặc biệt và hương vị riêng của mình, phản ảnh thị hiếu ăn uống và sự sáng tạo của dân chúng: “Bánh mì với đặc tính xốp, thẩm thấu nước nên ngon khi kẹp bánh mì thịt, pa tê hay thậm chí kẹp miếng ốpla ở giữa vẫn ngon hơn khi ăn kiểu Tây, bánh ra bánh và thịt ra thịt“ – Phạm Công Luận




Phần nhân của bánh mì thịt Saigon gồm ba nhóm:

1- Loại thịt kẹp (bỏ, nhét) vào bên trong quyết định tên gọi của bánh mì. Gọi chung là thịt nhưng có thể là thịt heo, thịt gà, thịt bò, cá hay trứng. Trứng thường làm kiểu ốp la chiên sẵn.
Cá là cá hộp xốt cà chua (ở VN ngày xưa có hiệu cá mòi Sumaco của Maroc, ngày nay có hiệu cá nục Ba cô Gái của Thái Lan). Thịt bò xay trộn sả ớt bằm nhuyễn xiên que nướng. Thịt gà thường làm kiểu chà bông hay quay. Thịt heo được sử dụng nhiều nhất, với nhiều cách chế biến khác nhau: Từ thịt heo nướng, thịt xá xíu, thịt quay, thịt ba chỉ buộc dây bó khoanh, da nhuộm màu đỏ cam, thịt thăn heo chà bông…qua xíu mại (thịt heo bằm xốt cà chua), nem nướng, chả lụa, giò thủ… qua ba tê gan, phá lấu (lòng heo khìa), bì (da heo trộn thịt heo chiên xắt sợi)…
2- Các loại rau: Dưa leo thái mỏng, ngò (rau mùi), đồ chua, hành tây, cọng hành lá, ớt… Bà Nguyễn Thị Tịnh, chủ nhân bánh mì Hòa Mã nói: “Người miền Nam thường thích cái gì cũng có tí rau. Vì vậy ổ bánh mì được cho thêm vài lát dưa leo, củ cải trắng, cà rốt cắt sợi ngâm chua, thêm vài cọng hành, ngò để có hương thơm, vài khoanh ớt cay vừa ăn vừa hít hà mới khoái“
3- Gia vị như: Sốt mayonnaise, xì dầu, nước mắm pha, tương đen, tương ớt, muối tiêu…
Ở các chỗ bán bánh mì, các nguyên liệu kể trên được bày biện sẵn sàng phục vụ thực khách.





Bánh mì thường được nướng giòn từ trước. Khi có khách hỏi mua một ổ bánh mì đặc biệt chẳng hạn, người bán hàng lẹ tay lấy ổ bánh mì, xẻ đôi, một bên quệt qua quệt lại chút sốt mayonnaise hay bơ, một bên trét ba tê gan, rồi nhét chả lụa, thịt nguội cho đều, rồi cho thêm miếng dưa leo xắt mỏng, chút đồ chua, vài cọng ngò, vài khúc hành lá chẻ nhỏ, vài miếng ớt, chan chút xì dầu, rắc miếng muối tiêu lên trên, kẹp lại, đặt trên tờ giấy cắt vuông, gói lại, giao cho khách đang đợi.
Các động tác của họ rất nhịp nhàng, thành thạo. Nhìn thấy dễ như vậy, nhưng cách xắt thịt, chả dày hay mỏng vừa đủ, sự gia giảm số lượng bơ, sốt, ba tê, ớt… Rắc bao nhiêu muối tiêu, xì dầu thì vừa ăn sẽ quyết định “phẩm chất“ của từng hàng bánh mì.




Cắn một miếng bánh mì giòn rụm, vỏ bánh mì rớt xuống, đủ mùi: mằn mặn của thịt, chả, ba tê, ngọt ngọt, chua chua của đồ chua, mát mát của dưa leo, hành ngò à lan khắp vị giác- Đầy đủ chất bột, chất đạm, rau củ, gia vị: Bánh mì thịt Saigon là món ăn có hết các điều kiện đó!


Ngồi buồn gặm ổ bánh mì
Mùi thơm chả quế thầm thì bên tai
Bánh mì hương vị mặn mà
Bỏ tình anh gặm mì gà ba-tê
Bánh mì xá xíu ai chê
Lại thêm xíu mại cho “phê” cõi người
”Xì dầu” anh xịt đã đời
Thừa thiên “ớt hiểm” cho vừa xót xa
Bánh mì thịt nguội có hành
Mua năm tặng một cả làng anh quơ
Cho dù người có thị phi
Yêu đời anh “xực” bánh mì mà thôi…???


Đủ chất bột, chất đạm, rau củ; gia vị. Đủ năng lượng cho một bữa ăn, dù là sáng, trưa , chiều hay tối. Bánh mì thịt Saigon phục vụ đủ mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội. Nó lại thích hợp với hầu bao hạn chế của người bình dân. Tô phở, dĩa cơm, hộp xôi đều mắc tiền hơn một ổ bánh mì thịt. Nhưng cũng có những người lúc túi tiền quá eo hẹp, họ ăn bánh mì không xịt xì dầu hay rắc muối tiêu cho qua bữa.


Thành ra, cũng có người lâu lâu lại thèm ăn bánh mì nướng giòn chấm xì dầu pha loãng với nước, đường, chanh, xắn chút ớt cay cay. Còn những người lao động nghèo, muốn cho chắc bụng thì mua bánh mì chấm hay bẻ thành miếng nhỏ bỏ vào nước lèo của tô phở, tô mì, tô hủ tíu… để ăn no luôn.








Nhớ lai mấy năm ngay sau biến cố 1975, thời kỳ “bao cấp“, thời kỳ mà khẩu phần lương thực là gạo mốc ăn độn với khoai lang, bo bo và bột mì (bột mì du nhập từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em có mùi mối mọt, mùi cứt chuột…), người ta “xếp hàng cả ngày“ để đổi bột mì này với mì vắt vụn hay bánh mì chai cứng “chọi chó cũng lỗ đầu“ do các lò bánh mì công tư hợp doanh cung cấp. Thời kỳ kinh tế tư nhân bị tiêu diệt, thời kỳ mà Saigon lâm vào tình cảnh “đói“, kiệt quệ, khủng hoảng tinh thần, thiếu thốn đủ thứ, có được chút đường thẻ (đường tán) người ta ăn với thứ bánh mì trên một cách ngon lành cho đỡ thèm chất ngọt, chất bột.







Loại bánh mì hợp tác xã này để chừng nửa ngày là khô queo, không nhá nổi, các bà nội trợ Saigon bèn cắt ổ bánh mì ra nhiều lát đem hấp trong xửng như hấp xôi. Bánh mì mới hấp ra phải ăn liền mới ngon, lúc còn nóng bánh dai nhưng mềm, trét mỡ hành, cuốn xà lách và rau thơm, chấm nước mắm ớt chua ngọt, thả lưa thưa vài cọng đồ chua. Chính ra món bánh mì hấp có từ lâu, là món ăn chơi người ta bán ở mấy chợ. Một dĩa bánh mì hấp gồm vài lát bánh mì, trên mặt có thể là nhân thịt heo bằm trộn củ sắn, hành tây hay nhân bì trộn thính và thịt heo xắt chỉ, trét mỡ hành. Bì có trộn thịt là sang rồi. Bánh mì bì rẻ tiền bán cho nhà nghèo chỉ có da heo trộn thính nên ăn dai dai, cho chút mỡ hành, chan nhiều nước mắm pha cho thấm vào ổ bánh mì.




Sống cho đàng hoàng tôi không cần nhiều lắm
Một lát bánh mì – một hớp nước cũng xong
Một khoảng trời xanh
Và một lời âu yếm yêu thương
Là đủ
Bánh mì và nước
Không hiếm ở mọi nơi
Piper

Trước năm 1975, những học sinh tiểu học của nhiều trường công lập, đến giờ ra chơi, được phát cho một khúc bánh mì không và một ly sữa bột, theo chương trình tài trợ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Ăn bánh mì chấm sữa riết cũng ngán, đám học trò nhỏ vo ruột bánh mì thành cục bột nhỏ chọi nhau chơi!



Giới học sinh, sinh viên thường dùng những chữ: “cơm tay cầm“, ”thổi kèn“ hay gặm để ám chỉ chuyện ăn bánh mì. Cơm tay cầm cho thấy bánh mì rất phổ thông. Động tác nhai bánh mì khá giống động tác của người thổi kèn harmonica. Còn động từ gặm để tả việc ăn một món ăn nào không lấy gì làm khoái khẩu cho lắm (Bánh mì ở đây không phải là bánh mì nóng giòn mới ra lò, có thể đã để lâu, ỉu mềm hay khô khốc, ăn xong phải uống nhiều nước, thành ra no lâu!).
Có những lúc cạn tiền, nhẵn túi, đói meo, thường là cuối tháng, các cô cậu sinh viên chỉ có khả năng mua bánh mì chan nước xíu mại, người bán thương tình cho thêm miếng dưa leo hay cọng ngò hoặc là mua bánh mì trét tương đen, thứ tương ăn phở, thêm chút đồ chua, thế cũng ngon chán!
Còn những lúc trốn học với đám bạn, mỗi đứa thủ sẵn một ổ bánh mì thịt gói trong giấy nhựt trình, một bịch trà đá có ống hút, vô rạp xi nê vừa ăn, vừa xem phim, rồi tán dóc, dzui không gì sánh bằng! Nếu nói bánh mì đi theo ta suốt quãng đời đi học cũng không phải là nói quá!

Còn bây giờ anh khác thằng nhóc lắm
Ngồi xổm lan can và gặm bánh mì
Chờ áo trắng tan trường ơi áo trắng
Anh trải thơ tình để lót bước em đi
Bùi Chí Vinh

Saigon là nơi khai sinh ra bánh mì thịt: một món ăn của đường phố, một món ăn của vỉa hè với nét độc đáo riêng biệt, không phải nơi nào cũng có thể có được! Sáng, trưa, chiều hay tối, ngồi lề đường, nhai ổ bánh mì, uống ly cà phê, ngắm giòng người và xe cộ qua lại là một thói quen của người Saigon. Bởi vậy, một trong những đặc điểm của Saigon là có vô số kể các xe bánh mì lề đường hiện diện ở bất cứ đầu con hẻm nào, ở bất cứ đầu con đường nào, ở bất cứ giờ nào trong ngày, ở bất cứ địa điểm nào trong thành phố: trường học, nhà thương, công sở, bến xe.Ta đọc bốn đoạn văn sau đây nói về những xe bán bánh mì ở Saigon:

“Như bánh cuốn, phở, xôi, bún, bánh mì là thức ăn không thể thiếu của nhân dân Sài Gòn. Bánh mì là thứ người ta có thể ăn mọi lúc, ở mọi chỗ, có thể dễ mang theo. Bánh mì có mặt suốt ngày, từ sáng tinh sương đến đêm khuya, và dễ dàng tìm thấy ở bất cứ đầu đường, góc phố nào của Sài Gòn. Đêm khuya khi những tiệm ăn đã đóng cửa, không còn hủ tíu, phở, chè thì xe bánh mì với ngọn đèn leo lét vẫn một mình thức trên vỉa hè đón đợi những khách cần ăn khuya.
Việt Nam không trồng lúa mì, nhưng dân Việt Nam lại thích ăn bánh mì, nên Việt Nam phải nhập cảng bột mì để làm bánh mì và mì sợi“ – Nguyễn Thị Hàm Anh

“Tôi có anh bạn nhà văn từ Hà Nội vào Sài Gòn chơi. Được dăm ngày, một buổi sáng, khi đang ngồi cà phê vỉa hè, anh chợt đưa ra nhận xét: “Sài Gòn có cái bánh mì là lạ nhất”. Tôi chưa hiểu. Anh giải thích: “Ở Hà Nội, người ta cũng bán bánh mì nhưng là để trong cái thúng, bưng đi dạo khắp nơi, ai kêu thì ghé lại. Còn ở Sài Gòn, một người bán bánh mì, mỗi bữa dẫu chỉ bán chục cái bánh cũng có một cái xe lắp kính hẳn hoi…”. À, thì ra cái lạ là ở chỗ “cái xe có kính” rất ư đàng hoàng tử tế ấy.
Chưa hết, bánh mì Sài Gòn còn rất ngon và có nhiều sự lựa chọn. Ngán thịt, sợ phì thì kêu bánh mì bì. Muốn bụng nhẹ, mau tiêu thì gọi bánh mì cá. Thích bồi dưỡng một chút thì “đủ thứ”. Còn chỉ cần đủ dinh dưỡng thì “trứng ốp-la” – Trần Nhã Thụy

“Xe bánh mì truyền thống thường bao giờ cũng có chiều ngang chừng tám tấc đến một thước, rộng chừng năm – sáu tấc. Nửa trên ba phía là kiếng, trưng nào bánh, nào thịt, nào gia vị để nhận vào ổ bánh. Nửa dưới đóng kín thường có một bếp than. Bánh lúc nào cũng nóng. Bánh nhận đủ sắc màu ẩm thực quốc tế bên trong: Xíu mại, thịt quay, pâté, xá xíu, lòng heo, lòng bò khìa, phô mai, thịt ba rọi,… Nhiều xe bánh mì trông đơn sơ vậy, nhưng nổi tiếng cả vài chục năm, ngay một góc đường, hoặc trước một căn nhà.”

“Còn bánh mì thịt Bưu Điện Sài Gòn thì từ lâu đã là một thương hiêu của Việt Nam. Ổ bánh nhỏ vừa một người ăn hình như làm ra chỉ để bán bánh mì thịt. Mấy xe bánh mì thịt ở đây hình thức trang trí chiếc xe trông như nhau. Nội dung và chất lượng ổ bánh mì đến giá cả không có gì khác, chẳng qua ai quen đâu mua đó mà thôi. Khách đi đường, các bác taxi, các thầy cô làm trong bưu điện, các công chức tòa Đô Chánh… là thực khách trung thành của bánh mì ở đây.



Bánh mì Bưu Điện Sài Gòn một thời tạo ra kiểu ăn bánh mì thịt của người Việt, khiến nhiều ông Tây bà Đầm về nước mà còn nhắc còn thèm. Nên nay còn có nhiều ông Tây du lịch đến Sài Gòn tìm ăn bánh mì thịt, gọi là kiểu Sài Gòn, như là món ăn có “truyền thống Saigòn” vậy. Xe bánh mì thịt với kiểu cách Bưu Điện Sài Gòn sau nầy trở thành mô típ chung cho xe bán bánh mì thịt ở miền Nam. Đi về tỉnh bạn sẽ bắt gặp trước nhà lồng chợ, cửa trường học, bên hông nhà thương, tại bến xe đò… hình ảnh những chiếc xe bánh mì thịt kiểu Bưu Điện Sài Gòn quen thuộc.” – Trần Văn Chi

Thèm ổ bánh mì, ớt cay hít hà
Cháy đỏ phần da thịt trần va chạm
Như lũ song thét gầm khô khốc
Sinh sôi tràn lớp sinh sôi
Caphesuotngay

Hồi đó, trước cửa Bưu Điện Sàigòn có hai quầy bán bánh mì mà người ta quen gọi là bánh mì Bưu điện, quầy nằm bên phải hình như có tên là Hương Lan (Nguyễn Văn Ngãi), bán những ổ bánh mì con cóc nhỏ trét sốt mayonnaise, kẹp jambon, xúc xích, thêm vài lát dưa leo ngâm giấm (cornichon của Tây, pickled cucumber của Mỹ),và đặc biệt là thịt gà quay xé nhỏ.




Nhắc tới ổ bánh mì được làm ngắn, nhỏ lại và tròn như con cóc, kẹp nhân thịt gà quay xé nhỏ của bánh mì Bưu Điện, thì ta cũng không quên nhớ lại tiệm bánh mì con cóc và thịt gà chà bông, có vị ngọt ngọt, mặn mặn rất ngon, nổi tiếng thời đó là Nguyễn Ngọ trên đường Trần Hưng Đạo, quận Nhứt, thời phong trào nuôi gà Mỹ (gà công nghiệp) rộ lên ở các trại chăn nuôi ngoại ô, khoảng sau 1965.

Nói về các tiệm bánh mì lâu năm ở Saigon, phải nói đến tiệm bánh mì Hòa Mã. Năm 1954, vợ chồng thi sỹ Lê Minh Ngọc (tác giả tập thơ Hoa Thề, được Giải Thưởng Văn Chương Việt Nam Cộng Hòa, bộ môn Thơ, trước năm 1963) và bà Nguyễn Thị Tịnh di cư vào Nam. Trước đó, bà Tịnh đã làm cho hãng thịt nguội chuyên cung cấp cho các nhà hàng Pháp ở Hà Nội.
Khi vào Sài Gòn, hai ông bà đã có sẵn ý tưởng mở cửa hàng bán bánh mì, thịt nguội để phục vụ cho người Việt trong khu vực. Năm 1958, cửa hàng bánh mì thịt nguội mang tên Hòa Mã (tên một làng ở ngoại ô Hà Nội) ra đời tại số 511 Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu, Q.3). Sau đó hai năm, tiệm dời về số 53 Cao Thắng, cho đến nay vẫn là tiệm bán bánh mì nhỏ với bảng hiệu cũ kỹ, phai màu theo năm tháng, trông giống như một tiệm nước trong Cholon. Tiệm tồn tại trên nửa thế kỷ kể từ ngày thành lập.




Ban đầu, tiệm cũng bán bánh mì riêng, thịt nguội riêng, ăn tại chỗ hoặc mang về. Nhưng người mua thường là công chức, thợ thuyền, sinh viên, học sinh không có nhiều thời gian vào buổi sáng để nhẩn nha ngồi ăn ở tiệm. Thế là Hòa Mã làm ổ bánh mì vừa đủ cho suất ăn sáng dài hơn gang tay, nhét thịt, chả lụa, pa-tê vào giữa để người mua tiện mang theo vào nơi làm việc, lớp học. Cho nên nhiều người cho Hòa Mã là tiệm đầu tiên bán những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn.





Bánh Mì Hòa Mã ngày nay

Trong khu vực Bàn Cờ, ngoài tiệm bánh mì Hòa Mã, còn phải kể đến tiệm bánh mì Hà Nội cũng thuộc loại nổi tiếng thâm niên, với cơ sở khang trang, sạch sẽ, ngày nay tọa lạc tại 83-85 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 8, quận 3.



Bánh Mì Hà Nội ở SàiGòn

Cũng như chủ nhân bánh mì Hòa Mã, với nghề làm thịt nguội, gia đình ông Lê Văn Đối từ Hà Nội di cư vào Nam, quyết định mở cửa hiệu bánh mì đồ nguội trên đất Sài Gòn, đặt tên là bánh mì Hà Nội để làm kế mưu sinh. Lúc đầu quán nhỏ, vài bàn ghế lụp xụp nhưng bánh mì nóng giòn, dọn bên cạnh dĩa jambon, chả lụa, patê , dưa leo, cà chua, ớt đỏ và sốt mayonnaise tiệm tự làm để riêng. Món đặc biệt của tiệm ngày trước là gà rút xương dồn thịt, jambon và nấm hương. Bánh mì Hà Nội bây giờ trở thành một cửa hàng ăn uống rộng lớn, bán thêm bánh mì kẹp thịt mang đi, bánh ngọt, xôi chè…
Bàn tay bỏ quên túi áo
mân mê cây bút chì
(không có mẫu bánh mì)
tìm nghĩa của từ chẳng thấy
Phan Huyền Thư

Có lẽ không nơi nào có nhiều chỗ bán bánh mì thịt như Saigon! Đại loại cũng chừng đó nguyên liệu, nhưng mỗi tiệm, mỗi xe bánh mì có một tính cách, một gout riêng, không nơi nào giống nơi nào, hầu như dân Saigon ai cũng có một chỗ “ruột“ để mua bánh mì mà mình cho là ngon, người ta ăn chỗ nào thì quen chỗ đó, vì lâu lâu mua đại một chỗ nào đó, xui xui gặp bánh mì dở, nhá không trôi, nhưng cũng có khi hên, bất ngờ khám phá ra một chỗ bán bánh mì ngon mới, không biết trước được. Có những xe bánh mì lúc nào cũng có đông người xếp hàng chờ mua, khi đã “kết“ rồi thì người ta không ngại công chờ (chỗ ruột của tôi hồi còn ở Saigon là xe bánh mì Tám Cầu, ở trước rạp xi nê Việt Long, đổi một lần là Văn Hoa Saigon, hai lần là Capitol, sau 1975 thành Thăng Long, nằm trên đường Cao Thắng, quận 3, ngay ngã ba đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần. Đặc biệt của bánh mì Tám Cầu là quét một chút bơ mặn ở một đầu giòn bên ngoài ổ bánh mì thịt).
Hồi trước, các xe bánh mì đậu ở một chỗ như đầu hẻm, hông chợ, gốc cây, trước cửa trường học… Còn bây giờ, chẳng biết từ lúc nào, các xe bánh mì trở thành hàng rong, đi bán dạo khắp nơi, mà nghe đâu họ lại không rao mới kỳ!!!




Các xe bánh mì đẩy lưu động này là một trong những phương tiện mưu sinh, cho không biết bao nhiêu người nghèo ở Saigon . Chỉ cần chút vốn để sắm chiếc xe bánh mì đẩy có tủ kính, còn bánh mì không, thịt nguội, chả lụa… được chủ lò cho thiếu gối đầu: bán xong rồi mới trả tiền thì phải! Họ tảo tần, chắt chiu, góp nhặt từng đồng để lo cho gia đình mình.

Bánh mì, nước hay- bầu trời
Coi như tôi chưa có trên này
Dù thời gian qua tôi đã sử dụng rất nhiều
Bánh mì và nước
Piper

Bánh mì ở Saigon hiện nay phải nói là phát triển đến chóng mặt: thiên hình, vạn trạng về “hình thức“ cũng như“nội dung“. Ngoài vô số kể những xe bánh mì đẩy rong ruổi khắp nẻo Saigon, những xe bánh mì ngon nổi tiếng, tọa lạc tại một vị trí cố định cũng rất nhiều như: Ba Lẹ (Tân Định), Sáu Minh (Võ Văn Tần), Lan Huệ (Lê Văn Sỹ). Ta còn phải nói đến số lượng các tiệm bánh mì mọc lên như nấm!



Các tiệm bánh mì có tiếng tăm lâu năm, nhiều người biết đến như: Ngọc Sáng (Lý Tự Trọng – Gia Long, Q1), Anh Phán (Cống Quỳnh, Q1), Hà Nội (Nguyễn Thiện Thuật, Q3), Như Lan ( Hàm Nghi, Q1). Như Lan trước đây là một tiệm nhỏ, sau vài chục năm, đã chiếm một miếng đất bề thế ở mặt tiền đường Hàm Nghi, gồm ba cửa hàng ăn uống, ngày đêm tấp nập khách, ngoài bánh mì thịt họ còn bán đủ thứ, như một mini restaurant: heo vịt quay, xôi chè, bánh ngọt… và các món nước gồm cháo, miến, phở…
Các tiệm chuyên môn bánh mì bí tết (bifteck) như: Nam Sơn (Nam Kỳ Khởi Nghĩa- Công Lý, Q1), Hỏa Diệm Sơn (Võ Văn Tần – Trần Quý Cáp, Q3)…




Bánh mì giờ bán trong các tủ kiếng sáng choang, của các tiệm bánh mì trang trí lịch sự, bắt mắt, có máy lạnh, có wifi miễn phí, nhân viên mặc đồng phục, phong cách phục vụ chuyên nghiệp. thích hợp cho các dịch vụ gặp gỡ làm ăn hay hẹn hò. Các tiệm trang bị đầy đủ lò nướng, quầy bếp, tủ trữ lạnh… bảo đảm vệ sinh, sạch sẽ. Mỗi phần bánh mì được đựng trong túi giấy, có khăn giấy và tăm. Bánh mì thịt giờ được bán theo hình thức món ăn nhanh (fastfood) trong các tiệm bánh mì hiện đại như: bánh mì Ta (Lê thánh Tôn), King Baguettera (Trần Hưng Đạo), Bamizon (Nguyễn Văn Chiêm) và các hệ thống nhiều tiệm là bánh mì Góc Phố (Bread Corner), bánh mì Onoré, bánh mì Kinh Đô, bánh mì ABC…






Bánh Mì Như Lan
Ngoài người Pháp, cách làm bánh mì đầu tiên được người Hoa tiếp thu, sản xuất bán ra thị trường và trong số khách hàng mua bánh mì thời kỳ đó có cả người Việt: bồi bàn, thông ngôn, thầy ký có lẽ là những người nếm bánh mì đầu tiên; kế đó là công chức tân trào, rồi đến tầng lớp Tây học, thị dân và lần lần tỏa rộng phổ biến cả thành thị lẫn nông thôn”

Bánh mì “ngoại“ du nhập, được giới trẻ Saigon tiếp đón nồng nhiệt. Đầu tiên là bánh mì baguette thực thụ bán ở siêu thị Cora, với hệ thống Le Bon hương vị Pháp, bánh mì Chop Chop phong cách Tây nguyên bản, bánh mì bát Bistro, bánh mì Tous les Jours (Hàn quốc), bánh mì Love Bread (Singapore), bánh mì Schneider (Đức), Le Tokyo Baum (Nhật). Hàng loạt cửa hàng gọi tên là bakery& café với phong cách trẻ trung, hiện đại được ồ ạt mở ra, cạnh tranh nhau khá khốc liệt, tạo cho khách hàng có nhiều lựa chọn. Phần lớn các cửa hàng bakery&café này nằm trong quận 1 và quận 3, là khu dân cư có thu nhập cao, khách vãng lai nhiều, tập trung nhiều cao ốc văn phòng.



Tổng Thống Obama cũng mê Bánh mì Saigon

Phải nói thêm loại bánh mì thịnh hành của Saigon bây giờ là “bánh mì tươi“. Bánh mì làm tại chỗ, khi khách gọi, thợ mới nướng trong lò điện nhỏ, mỗi mẻ chỉ chừng chục ổ, để bảo đảm sự tươi mới của bánh. Bánh bưng ra còn nóng hổi, đặc ruột, không giòn như bánh mì thường, thơm mùi bơ phưng phức. Để sản xuất loại bánh mì tươi này, tiệm có công thức riêng và nguyên liệu đặc biệt nhập cảng từ Pháp

Nếu mỗi bài thơ tôi đổi được một khúc bánh mì
Hoặc một gói xôi mặn, lơ thơ vài lát chả mỏng, nhúm ruốc gà, tí mỡ hành…
Tôi sẽ chịu khó hì hục đánh vật nhiều hơn trên keyboard
Gieo cho bằng được một vần thơ tuyệt hảo
Đào Công Điền

Em kêu tiếng Mẹ, Cha trên vành môi ngọng nghịu
Ăn bánh mì thay thế phở với cơm
Ấy mà phía sau tà áo dài lễ hội
Chiếc eo thon dịu dàng còn rất đỗi Việt Nam
Lã Thế Phong

Theo anh Kevin Trần, điều hành tiệm Bánh mì Saigon thì:”Khách muốn giữ bánh mì cho lâu hư, thì mua về nên để bánh trong bao nylon cột lại, cho vào ngăn đá tủ lạnh. Mỗi khi muốn dùng để ra ngoài chừng 5 phút, rồi đặt vào lò có sẵn hơi nóng trong vòng 3 phút, đủ để bánh mì tươi giòn lại. Tuyệt đối không nên nướng lại vì độ nóng sẽ làm bánh mì bị cứng, và đưa vào miệng nhai thì bánh bị bể, rơi ra“.

Xuân Phương

Hồng Phúc chuyển