Affichage des articles triés par pertinence pour la requête vị thánh gương mẫu. Trier par date Afficher tous les articles
Affichage des articles triés par pertinence pour la requête vị thánh gương mẫu. Trier par date Afficher tous les articles

dimanche 13 novembre 2016

TRUYỀN ĐẠO

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam - Năm C
TRUYỀN ĐẠO
SƯU TẦM
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực.
Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?

jeudi 21 décembre 2017

ĐỐI NGOẠI HỮU KỲ TÂM, ĐỐI NỘI VÔ TÂM GIẢ

ĐỐI NGOẠI HỮU KỲ TÂM, ĐỐI NỘI VÔ TÂM GIẢ

Bài viết rất hay và đầy ý nghĩa về "Thánh Tâm của Chúa Giêsu". Tôi tìm hoài mà không thấy tên tác già nhưng đặc biệt bài được đăng trong trang nhà của Hội Thánh Phục Quyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thuộc Tòa Thánh Tây Ninh.

"ĐỐI NGOẠI HỮU KỲ TÂM, ĐỐI NỘI VÔ TÂM GIẢ"

Có nghĩa là:
"Ngưới có trái tim ở bên ngoài,
bên trong lại không có tim."

 Năm 1597, lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở Công Giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.

Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được 2 linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh: người gì mà để trái tim ra ngoài !

Quan đại thần Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác; nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ : "đối ngoại hữu kỳ tâm - đối nội vô tâm giả". Từ đó quan đại thần Tsukamoto đặt bức ảnh Trái Tim trên bàn làm việc một cách kính cẩn.

Một hôm, người bạn tên Osaki đến chơi, hỏi :

- Bạn lại thích ảnh tượng của bọn tà đạo rồi sao?

Quan đại thần Tsukamoto trả lời :

- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo. Để ông bạn coi: Đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì "Hữu Tâm", còn với bản thân mình thì "Vô Tâm". Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời ; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ. Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh nầy tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy. Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, còn bản thân mình thì không màng tới, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là chính đạo. 



Ông Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép Rửa Tội, đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục... (Trích "Phúc")
Thánh Tâm (聖 心) còn gọi là “Rất Thánh Trái Tim” nghĩa là trái tim thuộc về Đức Chúa (hoặc Đấng thiêng liêng). Khi nói về Thánh Tâm Chúa Giêsu là chúng ta phải luôn luôn hiểu bao gồm cả con người Chúa Kitô. Việc tôn thờ Thánh Tâm là nòng cốt của Đạo Công Giáo, như các Đức Piô XI và Piô XII đã nói: “Tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu là điểm cốt yếu của đạo chúng ta (summa religionis nostrae)”. Trong việc tôn thờ này, đức tin Kitô giáo vẫn nguyên tuyền vì đưa con người tới Chúa Ba Ngôi nhờ sự hợp nhất với Chúa Kitô, Đấng Trung Gian.

Việc tôn thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, mời gọi chúng ta theo gương Người. Hiến dâng cho Thánh Tâm Chúa, vì trong Thánh Tâm Chúa, chúng ta tìm được tình yêu thúc đẩy chúng ta yêu mến Chúa và tận hiến hoàn toàn cho tha nhân. Đúng như câu nói của vị quan người Nhật: “Đối ngoại hữu kỳ tâm, đối nội vô tâm giả”! 

(Sưu tầm trên mạng)
Anh Kiệt chuyển 

A

samedi 11 septembre 2021

MẸ MARIA LÀ EVÀ MỚI

 


MẸ MARIA LÀ EVÀ MỚI

Sự sống là điều quý giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người.  Việc tổ chức mừng sinh nhật cho chính mình cũng như cho người khác là dịp nhắc nhở ta về sự quý giá đó để tạ ơn Thiên Chúa qua sự hiện hữu của mình hay của người khác.


Hôm nay, cùng với toàn thể nhân loại, chúng ta mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria (08-09).  Ngài là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và qua thiên chức cao cả đó, Mẹ cũng là mẹ các chi thể của Đức Kitô là chính chúng ta.  Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: “Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu.”  Và cùng với chính Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!  Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).


Thật vậy, ngày Mẹ sinh ra, cả Triều Thần Thiên Quốc và mọi loài mọi vật dưới đất hân hoan, vui mừng, hy vọng.  Bởi vì Mẹ sinh ra báo hiệu thời cứu rỗi đã đến, là Rạng Đông đi trước Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô.  Mẹ chính là Sao Mai soi sáng và dẫn đưa nhân loại đến với Đức Kitô.  Mẹ đến để phục hồi vai trò làm Mẹ Chúng Sinh mà Evà đã đánh mất do tội bất tuân.  Mẹ chính là Evà mới, nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống.  Bởi vì như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, để trở nên một con người sống động thế nào, thì cũng vậy, Đức Maria, với tất cả rạng ngời của sự sống và vô nhiễm nguyên tội, Mẹ bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu là chính Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch sự sống.


Mẹ Maria chính là ưu phẩm; là bảo vật mà Thiên Chúa đã giấu kín từ lâu; là hình ảnh đã được tiên báo trong Tiền Tin Mừng.  Mẹ cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại.  Nơi Mẹ, Mẹ vừa là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, vừa là Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, và Mẹ của toàn thể chúng sinh.  Việc tuyển chọn Mẹ để trở thành Mẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô.  Chính trong vai trò này, mà Mẹ đã góp phần của mình nhằm hoàn tất vai trò cứu độ loài người của chính Thiên Chúa.


Như vậy, chúng ta tôn kính Mẹ bởi vì Mẹ đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua lời “xin vâng.  Khi Mẹ đón nhận thánh ý Chúa như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ.  Đây chính là một vai trò trọng yếu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi nhiệm cục cứu độ của Người.


Nhưng khi tôn kính những ơn huệ của Mẹ không thôi thì chưa đủ, mà còn noi gương những nhân đức của Mẹ mới là những người con thảo hiếu của Mẹ trên trời.


Quả thật, Công đồng Vaticanô II đã nói: “Lòng sùng kính chân chính... phát sinh từ một đức tin chân thật.  Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).


Noi theo mẫu gương của Mẹ, chính là bắt chước những gương sáng của Mẹ để lại.  Những mẫu gương nổi trội nơi Mẹ chính là: đức tin, đức ái, lòng khiêm nhường, tinh thần ngoan ngùy với Thiên Chúa trong vai trò là Nữ Tỳ của Người.


Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu Người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc, và cho chúng con hưởng bình an.  Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.  Amen!
 

Jos. Vinc. Ngọc Biển

mardi 15 octobre 2013

Người Đàn Bà "Rất Đàn Bà"

Teresa of Avila by Peter Paul Rubens
 
15 Tháng Mười
Người Đàn Bà "Rất Đàn Bà"
 
Hôm nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.
Vị nữ tiến sĩ hội thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công Đông Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gái góc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Đẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình... Têrêxa lại là một người đàn bà "rất đàn bà". Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh nhưng lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với kinh nghiệm sống; thần bí nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.
Têrêxa là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Đã thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.
Là một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.
Suốt cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: "Ôi lạy Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đpá trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó".
Hiện nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.
Có lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!
Người nữ có phúc nhất trong những người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Đức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng "Xin vâng". Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Đức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Đức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Đức Kitô.
Trước mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Chúa.
 
Chén cơm trong ngày
 Phạm Anh sưu tầm
 
Teresa of Avila by Peter Paul Rubens
Nguồn Wikipedia
 
Virgin and Doctor of the Church
Born March 28, 1515
Gotarrendura, Avila, Crown of Castile (today Spain)
Died October 4, 1582 (aged 67)[1]
Alba de Tormes, Salamanca, Spain
Honored in Roman Catholic Church
Lutheran Church[2][3]
Anglican Communion[4][5]
Beatified April 24, 1614, Rome by Pope Paul V
Canonized March 12, 1622, Rome by Pope Gregory XV
Major shrine Convent of the Annunciation, Alba de Tormes, Spain
Feast October 15
Attributes habit of the Discalced Carmelites, Book and Quill, arrow-pierced heart
Patronage bodily ills; headaches; chess; lacemakers; laceworkers; loss of parents; people in need of grace; people in religious orders; people ridiculed for their piety; Pozega, Croatia; sick people; sickness; Spain
 
 

samedi 17 janvier 2015

Bài chia sẻ của Đức Thánh Cha (ĐTC) tại buổi gặp mặt các gia đình ở Philippine

Ngày đăng: 16/01/2015 | Số lần xem: 667 |RV2739_Articolo“Các gia đình rất thân mến,
Những người bạn trong Đức Kitô thân mến của tôi,
Tôi rất biết ơn về sự hiện diện của các bạn tại đây tối nay và vì chứng tá tình yêu các bạn dành cho Đức Giêsu và cho Giáo Hội. Tôi cảm ơn Đức Cha Reyes, Chủ Tịch Ủy Ban về Gia Đình và Sự Sống của Hội Đồng Giám Mục, vì những lời chào mừng ngài thay mặt các bạn dành cho tôi. Và, một cách đặc biệt, tôi cảm ơn tất cả những ai đã trình bày chứng tá và đã chia sẻ đời sống đức tin của mình cho chúng tôi. Giáo Hội tại Philippines thật có phúc với nhiều phong trào tông đồ dành cho gia đình.
Kinh Thánh ít khi nói về thánh Giuse, nhưng cứ mỗi khi nhắc đến, chúng ta thường thấy Ngài luôn trong lúc nghỉ ngơi, như khi thiên thần mặc khải ý Chúa cho Ngài trong những giấc mơ. Trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy thánh Giuse không phải chỉ nằm nghỉ một lần, nhưng là hai lần. Tối nay, tôi muốn được nghỉ ngơi trong Chúa với tất cả các bạn, ý tôi là nghỉ ngơi trong Chúa cùng với các gia đình và tôi nhớ gia đình của tôi, bố mẹ, ông và cố của tôi. Hôm nay, tôi muốn nghỉ ngơi với các ban và tôi muốn cùng suy tư với các bạn món quà gia đình.
Nhưng trước hết, tôi muốn nói một chút về giấc mơ… Mỗi người cha và người mẹ đều mơ về con của mình khi chúng còn trong dạ suốt chín tháng. Mơ về cuộc sống sau này của bé. Không thể có một gia đình không có những giấc mơ như thế. Khi bạn đánh mất khả năng mơ, bạn cũng đánh mất khả năng yêu và năng lực yêu này cũng mất. Tôi mời gọi các bạn, tối nay, khi xét mình, hãy tự vấn xem: “Tôi có mơ về con cái của tôi không? Tôi có mơ về tình yêu của người bạn đời không? Tôi có mơ về bố mẹ và gia đình không? Mơ và mơ trong một gia đình là điều rất quan trọng. Xin đừng đánh mất khả năng mơ theo cách này. Và bạn sẽ tìm ra được những giải pháp cho các vấn đề gia đình bạn dành thời gian để suy tư, suy nghĩ về chồng/vợ và chúng ta cùng mơ về những đặc tính tốt đẹp chúng ta có. Thậm chí đừng bao giờ đánh mất những điều mơ mộng khi còn hẹn hò.
Sự nghỉ ngơi của Giuse đã mặc phải ý Chúa cho ngài. Trong khoảnh khắc nghỉ ngơi với Chúa này, khi chúng ta tạm dừng những bổn phận và hoạt động hàng ngày, Chúa cũng nói với chúng ta. Chúa nói với chúng ta nơi bài đọc mà chúng ta vừa mới nghe, nơi lời cầu nguyện và chứng tá của chúng ta, và trong sự thinh lặng của con tim chúng ta. Chúng ta hãy phản tỉnh về điều Chúa đang nói với chúng ta, đặc biệt là trong đoạn Tin Mừng tối nay. Có ba khía cạnh của đoạn này mà tôi muốn mời gọi các bạn cùng suy xét: nghỉ ngơi trong Chúa, thức dậy cùng với Giêsu và Maria, và trở thành một tiếng nói ngôn sứ.
Nghỉ ngơi trong Chúa. Nghỉ ngơi là điều rất cần thiết cho sức khỏe tâm trí và thể xác chúng ta, và thường rất khó có được vì rất nhiều nhu cầu đè nặng trên chúng ta. Nhưng nghỉ ngơi cũng là điều rất thiết yếu cho sức khỏe thiêng liêng để chúng ta có thể nghe tiếng Chúa và hiểu được điều Người muốn nói với chúng ta. Thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn để trở thành vị dưỡng phụ của Đức Giêsu và hiền phu của Maria. Là những người Kitô hữu, các bạn cũng được mời gọi, giống như thánh Giuse, để dành cho Giêsu một mái nhà. Các bạn xây dựng một mái ấm cho Ngài trong con tim, gia đình, giáo xứ và cộng đoàn của các bạn.
Để có thể nghe và đón nhận lời mời gọi của Chúa, xây dựng một mái nhà cho Giêsu, các bạn phải có khả năng nghỉ ngơi trong Chúa. Các bạn phải dành thời gian mỗi ngày để nghỉ ngơi trong Chúa để cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi trong Chúa. Nhưng các bạn có thể nói với tôi: Thưa Đức Thánh Cha, con muốn cầu nguyện, nhưng có nhiều việc phải làm quá! Con phải chăm sóc cho con cái; con phải làm việc nhà; con mệt mỏi đến độ thậm chí chẳng thể ngủ ngon được.” Điều này có thể đúng, nhưng nếu chúng ta không cầu nguyện, chúng ta sẽ không biết được điều quan trọng nhất trên tất cả mọi sự là: thánh ý của Chúa dành cho chúng ta. Và chúng ta sẽ đạt được nhiều hiệu quả trong các hoạt động, trong những bận rộn với lời cầu nguyện của chúng ta.
Nghỉ ngơi trong lời cầu nguyện có tầm quan trọng rất đặc biệt đối với các gia đình. Chính nơi gia đình mà lần đầu tiên chúng ta học được cách cầu nguyện. Đừng quên điều đó, khi gia đình cầu nguyện cùng nhau, ở cùng nhau. Nơi đó, chúng ta đến để biết Chúa, để trở thành những người nam người nữ của đức tin, để thấy chính mình như là những thành viên của đại gia đình của Chúa, là Giáo Hội. Nơi gia đình, chúng ta học cách yêu, tha thứ, quảng đại và rộng mở, chứ không đóng kín và ích kỷ. Chúng ta học cách vượt lên trên những nhu cầu của riêng mình, để gặp gỡ những người khác và chia sẻ cuộc sống của chúng ta với họ. Đó là lý do vì sao việc gia đình cùng cầu nguyện với nhau là điều rất quan trọng! Đó là lý do vì sao các gia đình rất quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội! Nghỉ ngơi trong Chúa chính là cầu nguyện, cả gia đình cùng với nhau.
Tôi xin mạn phép chia sẻ với các bạn một điều rất riêng tư vào tối nay. Tôi rất yêu mến thánh Giuse, vì ngài là một người có tinh thần thinh lặng rất mạnh mẽ, và trên bàn làm việc của tôi, tôi có hình của ngài đang ngủ. Dù là ngủ nhưng ngài vẫn luôn chăm lo cho Giáo Hội và ngài có thể làm thế, tại sao không? Khi tôi gặp phải một vấn đề hay khó khăn gì, tôi viết lên một mẫu giấy nhỏ và đặt nó dưới bức tượng để ngài có thể mơ về nó.
Phương diện thứ hai là thức dậy với Giêsu và Maria. Những khoảnh khắc quý giá để nghỉ ngơi, tịnh dưỡng với Chúa trong cầu nguyện là những khoảnh khắc mà có lẽ chúng ta muốn kéo dài mãi. Nhưng như thánh Giuse, một khi chúng ta đã nghe được tiếng Chúa, chúng ta phải trỗi dậy, chúng ta phải thức dậy và hành động trong gia đình, chúng ta phải thức dậy và hành động (x Rm 13,11). Đức tin không tách chúng ta ra khỏi thế giới, nhưng đưa chúng ta đi vào nó sâu hơn, điều này rất quan trọng. Chúng ta phải đi vào thế giới cách sâu xa nhưng với sức mạnh của lời cầu nguyện. Thực ra, mỗi người chúng ta có một vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị cho Nước Chúa ngự trị trên thế giới này.
Cũng như món quà Thánh Gia được trao phó cho Thánh Giuse, thì món quà gia đình và vị trí của nó trong kế hoạch của Thiên Chúa cũng được trao phó cho chúng ta. Thiên Thần Chúa đã mặc khải cho Giuse những mối nguy đang đe dọa Giêsu và Maria, buộc họ phải trốn sang Ai Cập và rồi sau đó định cư ở Nazaret. Cũng thế, trong thời đại của chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta hãy nhận ra những mối nguy đang đe dọa gia đình và mời gọi chúng ta hãy bảo vệ các gia đình khỏi những hiểm họa.
Hãy cẩn trọng với sự thực dân hóa của ý thức hệ mới. Có một ý thức hệ mà chúng ta phải cẩn trọng vì nó đang cố hủy hoại gia đình. Nó không được sinh ra từ giấc mơ mà chúng ta có từ Thiên Chúa, từ lời cầu nguyện và từ sứ mạng mạng mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Nó đến từ bên ngoài. Đó là lý do vì sao tôi gọi là sự thực dân hóa. Chúng ta đừng đánh mất tự do để nhận lấy sứ mạng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Và cũng như người dân của chúng ta đã có thể nói “không” với thời kỳ thực dân hóa, thì các gia đình chúng ta phải phải khôn ngoan, và mạnh mẽ nói “không” với những kiểu ý tưởng thực dân hóa có thể hủy hoại gia đình này và xin thánh Giuse chuyển cầu để biết khi nào nói “vâng”, khi nào nói “không”.
Có rất nhiều áp lực trên đời sống gia đình ngày nay. Tại Philippines này, có vô số các gia đình vẫn còn chịu nhiều đau khổ từ thảm họa thiên tai. Hoàn cảnh kinh tế cũng khiến cho các gia đình phải xa cách nhau do phải di cư và tìm kiếm công việc, và những vấn đề tài chính đã khiến cho các chủ gia đình phải nỗ lực rất nhiều. Trong khi nhiều gia đình sống trong tình trạng quá nghèo, những người khác lại sống theo chủ nghĩa vật chất và có lối sống hủy hoại đời sống gia đình và những đòi hỏi cơ bản nhất của luân lý Kitô giáo. Đó là kiểu thực dân hóa ý thức hệ. Gia đình cũng bị đe dọa bởi những nỗ lực không ngừng của một số người muốn tái định nghĩa lại chính thể chế hôn nhân, bởi chủ nghĩa tương đối, bởi nền văn hóa phù du, bởi việc thiếu đi tinh thần mở ra với sự sống.
Tôi nghĩ đến Chân Phước Giáo Hoàng Phaolo VI trong những lúc có những thách đố về việc dân số gia tăng. Ngài biết những khó khăn, kinh nghiệm gia đình và đó là lý do vì sao trong Tông Huấn của mình, ngài đã bày tỏ lòng thương cảm cho những trường hợp cụ thể và ngài dạy các giáo sư cũng phải tỏ lòng thương cảm các đặc biệt. Ngài thấy được những thiếu sốt và khó khăn có thể gây ra cho gia đình trong tương lai. Giáo Hoàng Phaolo VI là người rất can đảm, ngài là một vị mục tử tốt lành, ngài đã cảnh báo chiên của mình về đàn sói đang đến và trên Thiên Đàng, ngài đang chúc lành cho chúng ta hôm nay.
Thế giới cần những gia đình tốt và mạnh mẽ để vượt qua những đe dọa này! Nước Philippines cần những gia đình thánh thiện và yêu thương để bảo vệ nét đẹp và chân lý về gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa và trở thành một sự nâng đỡ và mẫu gương cho các gia đình khác. Mỗi một đe dọa cho gia đình là một đe dọa cho chính xã hội. Tương lai của nhân loại, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II thường nói, hệ ở các gia đình (x Familiaris Consortio, 85). Vì thế, hãy bảo vệ gia đình của các bạn! Hãy nhìn thấy nơi các gia đình là gia sản to lớn nhất của đất nước và hãy luôn nuôi dưỡng các gia đình bằng lời cầu nguyện và ơn sủng của các bí tích. Các gia đình sẽ luôn có những thử thách của mình, các bạn đừng thêm vào thử thách cho các gia đình nữa! Thay vào đó, hãy trở thành những mẫu gương sống động của tình yêu, sự tha thứ và quan tâm. Hãy trở thành những đền thờ tôn trọng sự sống, loan báo sự thánh thiêng của mỗi sự sống con người từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Thật là một ơn lớn lao cho xã hội nếu mỗi gia đình Kitô hữu sống tròn đầy ơn gọi cao quý của mình! Vì thế, hãy thức dậy cùng với Đức Giêsu và Mẹ maria, và bước đi trên con đường Chúa đã vạch ra cho mỗi người các bạn.
Cuối cùng, Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nhắc nhở chúng ta về bổn phận Kitô hữu của chúng ta trong việc trở thành tiếng nói ngôn sứ giữa cộng đoàn chúng ta. Thánh Giuse đã lắng nghe lời Thiên Sứ và đáp lại lời mời gọi của Chúa chăm lo cho Giêsu và Maria. Như thế, ngài đã đặt phần mình vào kế hoạch của Chúa, và trở nên một phúc lành không chỉ cho Thánh Gia, nhưng còn cho tất cả nhân loại. Cùng với Maria, thánh Giuse trở thành một kiểu mẫu cho trẻ Giêsu khi Người lớn lên trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng (x. Lc 2,52). Khi các gia đình đưa các em nhỏ vào trong thế giới, giáo dục chúng trong đức tin và những giá trị vững chắc, và dạy bảo chúng đóng góp cho xã hội, chúng trở nên một phúc lành cho thế giới chúng ta. Gia đình có thể trở thành một phúc lành cho thế giới. Tình yêu của Thiên Chúa trở nên hiện diện và thiết thực qua cách chúng ta yêu và qua những việc tốt chúng ta làm. Chúng ta mở rộng nước của Đức Kitô trên thế giới này. Và khi làm như thế, chúng ta cho thấy mình đang sống trung tín với sứ mạng ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận nơi bí tích Rửa Tội.
Trong suốt năm này, năm mà các giám mục của các bạn thiết lập là năm của người nghèo, tôi mời gọi các bạn, những gia đình, hãy đặc biệt lưu tâm đến lời mời gọi trở thành những môn đệ thừa sai của Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là luôn sẵn sàng để vượt qua phạm vi gia đình mình và chăm lo cho những anh chị em đang thiếu thốn. Tôi xin các bạn hãy đặc biệt tỏ bày mối bận tâm dành cho những ai không có một gia đình của riêng mình, cách riêng là những người già cả và những trẻ em không cha mẹ. Đừng bao giờ để họ cảm thấy bị tách biệt, cô đơn và bỏ rơi, nhưng hãy giúp họ nhận biết rằng Chúa không bao giờ quên họ. Tôi rất cảm động sau thánh lễ sáng nay khi đi thăm một tổ ấm dành cho trẻ không có bố mẹ. Có bao nhiêu người trong Giáo Hội đã hoạt động để ngôi nhà này trở thành một tổ ấm, một gia đình? Đây là điều tôi có ý nói đến khi nói về ý nghĩa mang tính ngôn sứ của gia đình. Các bạn có thể nghèo về vật chất, nhưng các bạn có rất nhiều ơn để trao ban khi các bạn trao ban Đức Kitô và cộng đoàn Giáo Hội của Người. Đừng che giấu đức tin của các bạn, đừng che giấu Đức Giêsu, nhưng hãy mang Người vào trong thế giới và trao ban chứng từ đời sống gia đình của các bạn!
Những người bạn trong Đức Kitô thân mến của tôi, hãy biết rằng tôi luôn cầu nguyện cho các bạn! Hôm nay, tôi cầu nguyện cho các gia đình, tôi cầu xin Chúa tiếp tục giúp các bạn đào sâu tình yêu các bạn dành cho Ngài, và xin cho tình yêu này có thể được biểu lộ trong tình yêu các bạn dành cho nhau và cho Giáo Hội. Đừng quên là Đức Giêsu đang ngủ, đừng quên là thánh Giuse đang ngủ. Đừng quên sự bảo trợ của Thánh Giuse. Hãy luôn cầu nguyện và đem hoa trái lời cầu nguyện của các bạn vào trong thế giới để tất cả mọi người đều có thể biết Đức Giêsu Kitô và tình yêu nhân lành của Người. Xin các bạn cũng hãy cầu nguyện cho tôi, vì tôi thực sự cần những lời cầu nguyện của các bạn và luôn luôn tin vào những lời cầu nguyện ấy. Cảm ơn rất nhiều!”
Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

lundi 28 septembre 2015

Bài phát biểu của Tổng Thống Obama trước ĐTC Phanxicô

Bài phát biểu của Tổng Thống Obama trước

ĐTC Phanxicô


(Nhà Trắng, 23.9.2015). 

Chào buổi sáng!
Chúa đã làm nên một ngày thật tuyệt vời!
Kính thưa Đức Thánh Cha, Michelle và tôi xin chào mừng Ngài đến với Nhà Trắng. Ở đây thường không đông người như thế này – nhưng tầm mức và tinh thần của cuộc gặp gỡ ngày hôm nay chỉ phản ánh phần nào lòng yêu mến sâu xa của 70 triệu người Công Giáo Mỹ… và con đường sứ điệp tình yêu và hy vọng của Ngài đã truyền cảm hứng cho biết bao người, trên khắp đất nước chúng tôi và trên toàn thế giới. Thay lời cho người dân Mỹ, thật là vinh dự lớn lao và là đặc ân cho tôi được chào đón Ngài đến với nước Mỹ.

Hôm nay, chúng ta đánh dấu nhiều điểm khởi đầu. Thưa Đức Thánh Cha, Ngài được chúc mừng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ châu Mỹ. Đây là chuyến thăm nước Mỹ đầu tiên của Ngài. Và Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên chia sẻ Thông Điệp trên Twitter.

Thưa Đức Thánh Cha, chuyến thăm của Ngài không chỉ cho phép tôi, trong cách thế khiêm tốn, đáp lại lòng hiếu khách đặc biệt mà Ngài rộng mở với tôi tại Vatican năm ngoái. Nó cũng cho thấy biết bao người dân Mỹ, từ mọi nền văn hóa và thuộc mọi niềm tin, quý trọng vai trò của Giáo Hội Công Giáo trong việc phát triển đất nước. Ngay từ thời tôi làm việc tại các khu phố nghèo cùng với Giáo Hội Công Giáo tại Chicago, đến thời tôi làm Tổng Thống, tôi đã tận mắt thấy cung cách mà mỗi ngày, các cộng đồng Công Giáo, các linh mục, các nữ tu, và các giáo dân nuôi những người đói khát, chữa lành người đau ốm, che chở người vô gia cư, giáo dục các trẻ em, và củng cố đức tin nâng đỡ rất nhiều người.
Điều ấy thật đúng trên đất Mỹ, cũng đúng trên toàn thế giới. Từ đường phố nhộn nhịp của Buenos Aires tới ngôi làng xa xôi ở Kenya, các tổ chức Công Giáo phục vụ người nghèo, giúp đỡ các tù nhân, xây dựng các trường học và nhà ở, thành lập các cô nhi viện và các bệnh viện. Và khi Giáo Hội đứng về phía những người đấu tranh để phá vỡ xiềng xích của nghèo đói, thì đó cũng là tiếng nói và niềm hy vọng cho những ai đang tìm cách bẻ gãy xiềng xích của bạo lực và áp bức.

Tuy nhiên, tôi tin rằng, niềm vui nồng nhiệt xung quanh chuyến viếng thăm của Ngài phải được ghi nhận, không chỉ do vai trò của Ngài trong tư cách là Giáo Hoàng, mà còn do những phẩm tính độc đáo của Ngài trong tư cách là một con người. Với lòng khiêm tốn của Ngài, Ngài mang lấy một sự đơn sơ, lịch thiệp trong lời nói và sự quảng đại trong tinh thần, chúng tôi nhìn thấy một mẫu gương sống động cho những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Đấng là vị lãnh đạo có thẩm quyền luân lý không chỉ trong lời nói mà còn trong hành động.

Ngài mời gọi tất cả chúng ta, Công Giáo cũng như không Công Giáo, đặt “người nhỏ bé nhất” vào tâm điểm của sự quan tâm của chúng ta. Ngài nhắc chúng ta rằng, trong cái nhìn của Thiên Chúa, sự đo lường của chúng ta như là các cá nhân, như là các xã hội, không được xác định bởi sự giàu có hay quyền lực hay địa vị hay danh tiếng, nhưng xác định bởi cách thế chúng ta đáp lại lời mời gọi của Kinh Thánh để nâng đỡ người nghèo và người bị thiệt thòi, thúc đẩy công bằng và chống lại bất công, và đảm bảo rằng, mỗi người có thể sống đúng phẩm giá – bởi vì tất cả chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa.

Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng “sứ điệp mạnh mẽ nhất của Thiên Chúa” là lòng thương xót. Điều ấy có nghĩa là chào đón người lạ với sự đồng cảm và con tim rộng mở, từ những người tị nạn phải rời bỏ quê hương vì chiến tranh tàn phá, đến những người nhập cư phải rời bỏ nhà cửa để đi tìm cuộc sống tốt hơn. Điều ấy có nghĩa là diễn tả sự cảm thông và tình yêu với những người chịu thiệt thòi và bị gạt ra bên lề, với những người chịu đau khổ, với những người đang tìm sự cứu độ.

Ngài nhắc chúng ta nhớ về cái giá phải trả cho chiến tranh, đặc biệt là những người cô thế và người không có khả năng tự vệ, và thúc giục chúng ta hướng tới tính khẩn thiết của hòa bình.

Thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi biết ơn Ngài vì sự nâng đỡ vô giá mà Ngài dành cho chúng tôi trong những bước khởi đầu với nhân dân Cuba, với lời hứa cho mối tương quan tốt hơn giữa hai quốc gia, cho sự hợp tác hơn nữa, và cho đời sống tốt hơn với người dân Cuba. Chúng tôi cám ơn Ngài vì tiếng nói đầy nhiệt huyết của Ngài chống lại các cuộc xung đột chết người. Các xung đột ấy tàn phá cuộc sống của quá nhiều người nam nữ và trẻ em. Chúng tôi cám ơn Ngài vì Ngài mời gọi các quốc gia chống lại chiến tranh và giải quyết các tranh chấp thông qua ngoại giao.

Ngài nhắc chúng ta nhớ rằng, con người chỉ thực sự tự do khi họ có thể thực hành đức tin của mình cách tự do. Ở nước Mỹ này, chúng ta trân quý tự do tôn giáo. Thế nhưng, trên thế giới ngay lúc này đây, những người con của Chúa, kể cả các Kitô hữu, bị phân biệt đối xử, thậm chí bị giết chết vì đức tin của mình. Các tín hữu bị ngăn cản, không được tụ họp tại nơi thờ phượng. Họ bị tù đày. Các nhà thờ bị phá hủy. Vì thế, chúng tôi cùng với Ngài đứng về phía bảo vệ tự do tôn giáo và thúc đẩy đối thoại liên tôn, biết rằng mọi người ở mọi nơi phải có khả năng sống đức tin cách tự do khỏi nỗi sợ hãi và khỏi sự đe dọa.
Thưa Đức Thánh Cha, Ngài nhắc chúng tôi nhớ rằng, chúng ta có bổn phận thánh thiêng bảo vệ hành tinh của chúng ta. Đây là món quà tuyệt với Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng tôi ủng hộ lời mời gọi của Ngài đối với các nhà lãnh đạo thế giới, cho việc nâng đỡ những cộng đồng dễ bị tổn thương nhất trong sự biến đổi khí hậu, cho việc xích lại gần nhau để bảo vệ thế giới của chúng ta cho các thế hệ tương lai.

Với sự Thánh Thiện, trong lời nói và hành động của Ngài, Ngài là tấm gương đạo đức sâu sắc. Và với những lời nhắc nhẹ nhàng nhưng kiên quyết về bổn phận của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, Ngài đang lôi kéo chúng ta ra khỏi sự tự mãn. Tất cả chúng ta, nhiều lần, có thể kinh nghiệm sự khó chịu, khi chúng ta nhận thấy khoảng cách giữa cung cách sống hằng ngày với những gì chúng ta biết là thật là đúng. Nhưng tôi tin rằng, sự khó chịu ấy là một phúc lành, vì nó chỉ ra cho chúng ta điều gì đó tốt hơn. Ngài đánh thức lương tâm chúng ta khỏi giấc ngủ mơ; Ngài mời gọi chúng ta vui trong Tin Mừng, và trao tặng chúng ta sự tự tin để đến với nhau, trong khiêm tốn và phục vụ, và theo đuổi một thế giới yêu thương hơn, công bằng hơn, và tự do hơn. Ở đây và trên khắp thế giới, cầu chúc cho thế hệ chúng ta lưu tâm đến lời mời gọi của Ngài để “không bao giờ đứng bên ngoài chuỗi hy vọng sống động này!”

Vì món quà hy vọng lớn lao mà Ngài dành cho nước Mỹ, thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi cám ơn và chào đón Ngài, với niềm vui và lòng biết ơn.
Chuyển ngữ: Vinhsơn Vũ Tứ Quyết, S.J

Hiền sưu tầm

mercredi 15 août 2018

TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI



Ngày 1.11.1950, ĐGH Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ Lên Trời với nội dung: “Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau khi hoàn tất hành trình dương thế, đã được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác.”  Chọn công bố chân lý đức tin này trong ngày lễ các thánh nam nữ, Giáo Hội hữu ý cho thấy Đức Mẹ dù đứng trong hàng ngũ những người đã được thánh hoá, nhưng vinh quang Mẹ được hưởng đã đưa Mẹ lên vị trí hàng đầu: Mẹ là Đấng “đầy ơn phúc.” 

1. Tín điều Đức Mẹ Lên Trời: ưu thắng của lòng đạo đức bình dân.

Đây là một tín điều mới mẻ, mới được định tín cách đây hơn 65 năm, quý vị từ 65 tuổi đổ lên đã có một thời gian sống không có tín điều này; nhưng không phải là tín điều mới lạ, vì được châm rễ sâu trong lòng sùng mộ của dân Chúa từ lâu đời rồi.  Thế kỷ thứ VI ở đông phương đã thấy có lễ mừng Đức Mẹ Ngủ, sang thế kỷ thứ VII lịch phụng vụ Rôma đã ấn định lễ Đức Mẹ Lên Trời vào ngày 15/8 hằng năm, và đến thế kỷ IX cả châu Âu đã mừng lễ với tên gọi Mông Triệu như ngày nay.  Lex orandi, lex credendi, luật cầu nguyện đã dần dà chín mùi và khi đến thời đến lúc trở thành luật đức tin.

Nếu việc Đức Mẹ Lên Trời đã rõ rệt trong lòng sùng mộ của dân Chúa, thì việc đưa ra nền tảng thần học giải thích vẫn còn phải vất vả truy tìm.  Một mặt biến cố Đức Mẹ Lên Trời không được Phúc Âm nói đến, cũng dễ hiểu vì Phúc Âm là cuốn sách viết về đời và lời của Chúa Giêsu.  Còn Đức Mẹ xuất hiện trong đó chỉ như nhân vật phụ, lại nữa Mẹ rất kiệm lời, trong Phúc Âm chỉ thấy 7 lời của Mẹ thôi.  Mặt khác như Phúc Âm thứ tư cho biết, từ dưới chân thập giá Mẹ đã được trao cho sự chăm sóc của thánh Gioan, nên sau lễ Thánh Thần hiện xuống, Mẹ cũng dần dần rút lui vào hậu trường cầu nguyện để nhẹ nhàng ra đi không để lại dấu vết gì.

Tuy nhiên, điều không tìm thấy trong Thánh Kinh lại gặp được trong Thánh Truyền.  Giữa lòng Giáo Hội đông tây, từ rất sớm, các giáo phụ mỗi vị theo cách của mình đã nói đến việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời như biến cố ở đoạn cuối cuộc đời trần thế của Mẹ, và diễn giải bằng những hình bóng Thánh Kinh rất ý nhị và sâu sắc, vừa hỗ trợ cho lòng đạo nơi dân Chúa, vừa từng bước đưa ra những nền tảng hình thành tín điều đặc biệt này.  Trước 1.11.1950, người ta có quyền tin hay không, nhưng kể từ ngày định tín, tín hữu vui mừng tuyên xưng đức tin của mình: Đức Mẹ đã lên trời cả hồn lẫn xác.

2. Tín điều Đức Mẹ Lên Trời: minh định rõ thêm những đặc ân của Đức Mẹ.

Có bao nhiêu đặc ân của Đức Mẹ?  Thưa có bốn: Hai đặc ân cổ thời được xác tín từ lâu dựa trên phẩm tính của Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh.  Hai đặc ân tân thời được định tín trong vòng trên dưới 150 năm nay đóng khung cuộc đời trần thế của Đức Mẹ, khởi đầu là Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội và kết thúc là Ơn Hồn Xác Lên Trời.  Cả bốn đặc ân này dẫu bản chất có khác nhau nhưng đều hoà quyện trong ơn tuyển chọn của Chúa Cha, ơn cứu độ của Chúa Kitô và ơn thánh hoá của Chúa Thánh Thần.

Chẳng phải nói đâu xa, ngay trong danh xưng ngày lễ hôm nay cũng nói lên trọn vẹn ý nghĩa của tín điều tuyên xưng.  Gọi là lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Giáo Hội minh định đoạn kết vinh quang sau khi Đức Mẹ đã chu toàn trách vụ đường đời bên cạnh Đấng Cứu Thế.  Còn gọi là lễ Mông Triệu, Giáo Hội lại muốn nhấn mạnh khía cạnh mầu nhiệm, Đức Mẹ không tự mình mà nhấc lên trời, nhưng do Thiên Chúa triệu vời.  Nhưng dù gọi bằng danh xưng nào, đúng nghĩa Assumptio tiếng latinh, Đức Mẹ được kết hợp với Chúa Kitô phục sinh.  Còn muốn đi xa hơn một chút, ta có thể lý giải: dựa trên mầu nhiệm Nhập Thể, Mẹ đã cung cấp chất liệu xác thân cho Đấng Cứu Thế làm người, nên khi thân xác Đấng Cứu Thế phục sinh về trời, thân xác Mẹ cũng được chia sẻ hiệp thông.  Còn dựa trên mầu nhiệm cứu độ, Mẹ đã hiệp công cứu độ trọn vẹn với Chúa Kitô, Mẹ cũng được hiệp thông sự sống vinh quang trọn vẹn với Người trong trời mới đất mới.

3. Tín điều Đức Mẹ Lên Trời: gieo thêm tin yêu hy vọng cho đời tín hữu

Tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời như vậy đã sáng tỏ cho lòng tin của chúng ta.  Nếu có gì còn khó hiểu, có lẽ nằm ở chỗ mình chưa tách bạch được hai tình trạng của thân xác: tình trạng lữ hành và tình trạng phục sinh.  Trong tình trạng lữ hành, xác thân nặng nề; còn trong tình trạng phục sinh, thân xác được biến đổi thăng hoa.  Thân xác của Đức Maria lên trời chính là thân xác đã được ghi dấu bằng sự phục sinh của Đức Kitô.  Đức Kitô trưởng tử trong gia đình nhân loại, đã lên trời do tự mình, còn Đức Mẹ là hoa quả đầu mùa được triệu vời lên trời do ân sủng Chúa ban.  Trong ngắm thứ tư Mùa Mừng ta tuyên xưng từ thuở nào “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời,” có điều hôm nay khi mừng lễ, ta nâng cao tâm hồn để chung mừng với Giáo Hội trong lời tuyên xưng trọng thể và chung vui với Đức Mẹ nơi đặc ân lạ lùng này, “Chúa đã làm cho Đức Mẹ những điều cao trọng.”

 Nhưng tín điều hôm nay kỷ niệm còn hướng các tín hữu đến việc xem Đức Mẹ như mẫu gương tuyệt vời, quyết tâm yêu mến bước theo Mẹ, sống như Mẹ để một mai khi lìa đời ta cũng sẽ có kết cục giống như Mẹ, được hưởng ơn phục sinh của Chúa Kitô.  “Đức Maria, thầy dạy đức tin”, chúng ta hãy khiêm tốn tìm đến mái trường Đức Maria, học theo Mẹ những bài học từ cơ bản đến nâng cao, và sẵn sàng đi vào chuyên sâu để sống đời tận hiến cho Chúa theo gương sống của Mẹ.

Chính trên đỉnh cao của lòng tin mến ấy, chúng ta không ngại bộc bạch cho Mẹ nỗi niềm cậy trông.  Mẹ nào mà chả thương con, chỉ có con bỏ mẹ chứ mẹ chẳng bỏ con bao giờ.  Nếu tình mẹ nhân loại còn dạt dào như bể thì tình mẹ trên trời còn ví thể gấp trăm.  Sở dĩ con cái nhân gian có thể cậy trông Mẹ, là bởi vì trước đó Tấm lòng Mẹ đã mở rộng, đôi tay Mẹ đã sẵn sàng thi ân.  Mẹ lên trời không phải để cách xa cuộc sống nhân loại, nhưng trên đỉnh vinh quang thiên đàng, đó là lúc Mẹ có điều kiện phù hợp để gần gũi che chở đỡ nâng mọi người một cách rộng rãi và thuận lợi hơn.

Tóm lại, tín điều Đức Mẹ Lên Trời giúp ta tuyên xưng đức tin cách trọn vẹn hơn, giục giã yêu mến Đức Mẹ cách đậm đà hơn, và cũng thúc đẩy cậy trông nơi Mẹ gắn bó hơn.  Bởi lẽ xét cho cùng, tuyên tín Mẹ lên trời không chỉ cho vinh quang của riêng Mẹ, mà còn cho hạnh phúc của con cái Mẹ trên dương thế là chính chúng ta.

Có người hỏi “Ở Tàpao có những phép lạ nào?”  Tôi trả lời: Phép lạ thì không biết, nhưng ơn lạ thì hầu như ngày nào cũng có, nhất là ơn biến cải đời sống.  Đang mê chuyện đỏ đen, đi Tàpao về bỏ được hết, đang xào xáo gia đình, đến Tà pao khấn về được bình yên, hay đang khô khan nguội lạnh theo bạn đến Tàpao về bỗng dưng thấy sống đức tin cách tích cực hơn, đó chẳng phải là ơn lạ ở Tàpao sao?

Xin được cùng với khách hành hương dâng lên Mẹ lời kinh tôn vinh và trông cậy:

Mẹ Vô Nhiễm, Mẹ Đồng Trinh,
Mẹ Thiên Chúa, Mẹ uy linh muôn đời.
Hôm nay mừng Mẹ lên trời,
Hành hương con đến chung lời ca khen.
Cúi xin Mẹ rất dịu hiền,
Thương con, dẫn dắt về miền trời cao,
Đời con có Mẹ Tàpao.

GM Giuse Vũ Duy Thống

T.Anh-N.Nga sưu tầm

mardi 9 octobre 2018

Tinh thần thơ ấu

Tinh thần thơ ấu

Vài nét trong Kinh Thánh giúp đào sâu

Tháng Mân Côi mở đầu với lễ Thánh Nữ Terexa Hài Đồng Giê-su, Tiến Sĩ Hội Thánh. Ta
quen dịch chữ DOCTOR là tiến sĩ, mượn từ ngôn ngữ thời xưa, là người được tiến cử để
vua đặt làm quan to, phục vụ dân nước. Từ la-tinh có nghĩa là “thày dạy”. Các thánh Tiến
sĩ là các vị thánh được tôn phong như thầy dạy trong Hội Thánh, vì các ngài được ơn của
Chúa để giúp cả Hội Thánh đi vào những điều giáo lý cao sâu.
Trong bản liệt kê các ơn đặc biệt để phục vụ Hội Thánh, thánh Phao-lô kể : “Trong Hội
Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn
sứ, thứ ba là các Thầy dạy.” (1Cr 12, 28). Một nữ tu nhỏ bé trong đan viện Cát Minh ở
Lisieux, chết lúc 24 tuổi, lại được phong làm Bổn Mạng các xứ Truyền Giáo, và ngày 19
tháng 10 năm 1997, Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã ghi tên chị vào hàng “Tiến Sĩ
Hội Thánh”.
Thật khó tưởng tượng. Một nữ tu Cát Minh, khao khát được sai tới xứ Truyền Giáo, đã
được chỉ định để qua sống ở Nhà Kín Saigon, nhưng Chúa lại cất về trước khi lên đường,
thế mà làm thánh bổn mạng các xứ Truyền Giáo và Thầy Dạy Hội Thánh. Chúa làm
những việc lạ lùng trước mắt chúng ta để chúng ta thấy Tình Yêu và Quyền Năng Thiên
Chúa vượt xa đất trời, “muốn làm gì là Chúa làm nên”. Vị thánh nữ trẻ này khao khát
được hiến dâng mạng sống mình để muôn người được cứu độ, và đã thành Tiến sĩ [Thày
dậy] giúp Hội Thánh khám phá trở lại con đường thơ ấu của Tin Mừng.
Ngồi tại Giê-ru-sa-lem, trong ngày cuối của Lễ Lều, trong bầu khí ngột ngạt của lúc giao
mùa từ hè sang thu, tôi không có tham vọng viết một thiên khảo cứu về tinh thần thơ ấu
thiêng liêng, chỉ xin mạo muội nêu lên vài nét trong Kinh Thánh để giúp những ai muốn
đi vào tận nguồn là Lời Chúa, đào sâu tinh thần thơ ấu thiêng liêng và sống triệt để nhờ
sức mạnh của Lời Chúa.

1. Trong Cựu Ước
Trong Cựu Ước trào lưu suy tư “Đệ Nhị Luật” (đứng đầu là sách Đê Nhị Luật) vén mở
cho chúng ta bước khởi đầu của tinh thần thơ ấu thiêng liêng, khi chiêm ngắm nguồn
gốc của dân tộc được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập để thiết lập Giao Ước
Xi-nai, nhận họ làm dân của Thiên Chúa và chính Ngài là Chúa của họ, Ngài ban cho họ
Luật để sống làm dân của Ngài, và cam kết bảo vệ họ, đưa họ vào Đất Hứa và cho họ
sống lâu dài ở đó, với điều kiện họ trung thành sống trong Giao Ước của Ngài.
“Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên
con người trên mặt đất… Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám
lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn

2
lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ
điềm thiêng… như Thiên Chúa đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?”
(Đnl 4, 32-34)
“Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn
mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính là vì yêu thương
anh em và để giữ lời hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh
em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập” (Đnl 7, 7-8).
Điều kiện duy nhất để được Thiên Chúa bảo vệ giữ gìn là`: “Anh em hãy đi đúng con
đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được
sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên đất mà anh em sẽ chiếm hữu” (Đnl 5, 32-
33). Chính Thiên Chúa đã giải thoát họ, chính Thiên Chúa đã đưa họ vào Đất Hứa chứ
không phải tự sức họ làm được những điều ấy. Vậy thì phải ở lại trong Tình Yêu của
Thiên Chúa, bằng cách bước đi theo đường lối của Thiên Chúa, đừng cậy sức mình, đừng
theo các thần khác, cũng đừng cậy dựa vào quyền lực nào ở trần gian này. (Chúa Giê-su,
Con Thiên Chúa làm người, sẽ mời gọi : Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy… Hãy giữ
những điều Thầy truyền [Ga 15, 7-10] ).
Sách Gio-su-ê cho thấy tất cả việc chiếm lãnh Đất Hứa dưới sự lãnh đạo của Giô-su-ê, là
do Thiên Chúa thực hiện chứ không phải do sức của dân. Giô-su-ê đã cùng dân ôn lại lịch
sử và tuyên lại Giao Ước ở Si -khem, trước khi cho dân tản mác, ai về lều nấy trên phần
đất đã được chia cho họ (x. Gs 24).
Sách Thủ Lãnh cho thấy một thực tế phũ phàng là sau khi ông Giô-su-ê chết, rồi cả thế
hệ ấy đã qua đi:
“Con cái Ít-ra-en đã làm diều dữ trái mắt Đức Chúa, và đã làm tôi các thần Ba-an. Họ đã
lìa bỏ Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã
đi theo các thần ngoại lai…
Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ
bóc lột…
Khi Đức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì Đức Chúa ở với vị thủ lãnh và
Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh còn sống, vì Đức Chúa động lòng
trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi họ bị đàn áp và ức hiếp. Nhưng sau khi
vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cha ông họ. Họ chạy theo các thần ngoại lai
để làm tôi và sụp lạy chúng, chứ không từ bỏ những hành vi và đường lối ngoan cố của
họ.” (Gs 2, 11-19).
Đến khi họ đã lớn mạnh và thành một vương quốc, các ngôn sứ lại rát cổ bỏng họng tố
cáo tội ác, kêu gọi họ tin tưởng vào Thiên Chúa và đi theo đường lối của Thiên Chúa,

3
trung thành với Giao Ước, để được cứu thoát khỏi mọi đe dọa từ các nước láng giềng.
Bây giờ thì ngoài tội thờ thần của dân ngoại, họ còn cậy vào sức mình và cậy dựa vào sự
liên minh với các cường quốc, bị phía Bắc đe dọa thì họ quay sang dựa vào Ai-Cập ở phía
Nam. Bị Ai Cập đe dọa thì họ cầu cứu phương Bắc. Ta hãy đọc vài trích đoạn tiêu biểu.
“Ngày ấy các ngươi đã nhìn vào binh khí trong Cung Rừng và thấy thành Đa-vít có nhiều
lỗ hổng. Các ngươi trữ nước ở hồ dưới. Các ngươi đếm từng ngôi nhà ở Giê-ru-sa-lem,
rồi phá đi một số để củng cố tường thành. Các ngươi xây bể để chứa nước hồ cũ giữa
hai lớp tường thành. Nhưng Đấng tác tạo cả thành đô, các ngươi lại không nhìn; Đấng
từ lâu làm nên mọi sự các ngươi lại chẳng thấy.” (Is 22, 8-11)
Khốn thay những đứa con phản nghịch, chúng thực hiện kế hoạch, nhưng không phải
của Ta, chúng ký kết thỏa hiệp nhưng không theo thần khí của Ta, cứ chồng chất tội này
lên tội khác. Chúng đâu thỉnh ý Ta khi lên đường đi xuống Ai-cập, tìm sự che chở của
Pha-ra-ô và núp bóng Ai-cập. Nhưng sự che chở của Pha-ra-ô sẽ khiến các ngươi phải
thẹn thùng, và việc ẩn núp dưới bóng Ai-cập sẽ làm cho các ngươi phải nhuốc hổ” (Is 30,
1-3).
Khi bị liên minh A-ram và Ep-ra-im đe dọa (Is 7, 1-17),
“Bấy giờ lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió”
Ngôn sứ I-sai-a được sai đến nói với vua:
“Chuyện đó sẽ không xảy ra, sẽ không có… Nếu các ngươi không vững tin thì các ngươi
sẽ không đứng vững” (Is. 7, 2.9)
Một điều lý thú khi đọc trong bản tiếng Hip-ri là chơi chữ: hai động từ vững tin và đứng
vững cùng một gốc 1 . Họ có đứng vững được là nhờ Thiên Chúa chứ không phải do sức
họ; họ “run như cầy sấy” khi mới nghe tin phe địch đã đóng quân sát nách, vì họ không
tin vào Thiên Chúa mà dựa vào sức mình. Ngôn sứ công bố dấu chỉ của Thiên Chúa là
“Em-ma-nu-en” sinh ra (Is 7, 14).
Họ được nghe tiếng Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vô hình, họ không thấy được không
sờ được. Vì thế vừa nhận Luật Giao Ước xong, trong khi ông Mô-sê lên núi nhận Bia
Chứng Ứơc, thì ở dưới họ đã yêu cầu A-ha-rôn làm cho họ một ông thần để dẫn họ đi,
nghĩa là một vị thần họ thấy được, sờ được và khiêng đi theo ý họ, muốn đi thì đi, muốn
đứng thì đứng (x. Xh 32, 1-6).

1 Từ đó ta có chữ AMEN, nghĩa là đúng như vậy, chắc chắn như vậy trong lời Chúa Giê-su: “Amen, Amen,
Ta bảo các ngươi”; trong lời tuyên xưng đức tin; hoặc ước gì được như vậy trong những lời cầu xin. Đọc
đoạn này trong I-sai-a, không thể không liên tưởng tới bài thơ lịch sử: “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”đã
khích lệ tinh thần quân dân Việt Nam đánh tan quân xâm lược phương Bắc, giữ vững độc lập.

4
Vì thế khi vào Đất Hứa, sống giữa các dân tộc có các vị thần sờ được, thấy được, họ dễ
dàng theo các thần “ngoại bang” ấy thay vì nghe lời Thiên Chúa mà họ không thấy,
không sờ được. Điều này dễ hiểu, như tục ngữ Việt Nam nói: “Trăm nghe không bằng
một thấy”. Thậm chí vua Sa-lô-môn cuối đời cũng ngả theo các thần ngoại bang (x. 1V
11).
Ngay lúc Giê-ru-sa-lem đã bị Ba-bi-lon đe dọa, Thiên Chúa còn phải dùng ngôn sứ Giê-rê-
mi-a để tố cáo:
“Hãy cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi được ở lại nơi
này. Đừng ỷ vào các lời giả dối sau đây: “Đền Thờ của Thiên Chúa, Đền Thờ của Thiên
Chúa, đã có Đền Thờ của Thiên Chúa!”…
Các ngươi ỷ vào những lời dối trá vô giá trị. Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề gian,
đốt hương tế thần Ba-an và đi theo các thần lạ các ngươi không biết, rồi lại vào nhà này,
nơi Danh Ta được kêu khấn, đến trước mặt Ta mà nói: “Chúng ta được an toàn!”, sau đó
lại tiếp tục làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì? Phải chăng các ngươi coi nhà
này, coi nơi Danh Ta được kêu khấn là hang trộm cướp sao? Ta, Ta thấy rõ hết.” (Gr 7, 3-
11).
Sách ngôn sứ Xô-phô-ni-a (chỉ có 3 chương ngắn) có thể coi như một mô hình thu gọn
của các ngôn sứ thuộc trào lưu Đệ Nhị Luật: mở đầu, ngôn sứ công bố Ngày của Thiên
Chúa, rồi hạch tội Giu-đa và kêu gọi trở lại; sau đó ngôn sứ hạch tội các dân chung
quanh, rồi quay lại hạch tội Giê-ru-sa-lem; cuối cùng ngôn sứ công bố các lời hứa cứu
độ:
« Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi
danh Đức Chúa… Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!...
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa… Ngày ấy người ta sẽ
bảo Giê-ru-sa-lem: Này Xi-on đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời. » Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi đang ngự giữa ngươi… Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình
thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như
trong ngày lễ hội. » (xin đọc hết Xp 3, 12-18).
Thánh vịnh 130/131 đúc kết kinh nghiệm lịch sử thành một thái độ, một con đường
sống lòng tin vào Thiên Chúa:
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi !
Đường cao vọng chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu ;
hồn con con vẫn trước sau

5
giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào Chúa Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Vài lời giải thích về thánh vịnh này. Lòng tự cao nghĩa là tự đặt mình lên cao, cậy dựa
vào bản thân, cho mình là ngon lành, hơn hết mọi người, không cần đến ai. Mắt con
chẳng dám tự hào, dịch sát là ngước lên cao, ám chỉ tới việc ngước nhìn lên nơi cao là
nơi thờ thần của dân ngoại. Đường cao vọng chẳng đời nào bước, ám chỉ bước theo
những quyền lực thế tục. Như vậy thánh vịnh này gợi lại ba điểm tựa mà các ngôn sứ đã
tố cáo: dựa vào sức mình, dựa vào các thần ngoại bang (ngoài Đức Chúa là Thiên Chúa
duy nhất) và chạy theo quyền lực thế tục. Con đường thơ ấu thiêng liêng cho cả dân tộc
và cho mỗi người là cậy dựa vào một mình Thiên Chúa.
Trẻ thơ ở đây, [gamul trong tiếng Hipri], không phải là trẻ còn bú, nhưng là trẻ đã cai
sữa 2 (3 tuổi), có thể đi, chạy, chơi một mình, nhưng chưa thể tự vệ, chưa thể tự kiếm ăn,
hoàn toàn lệ thuộc cha mẹ để được bảo vệ, nuôi nấng (x. St 21, 8-11, chuyện It-ma-en
và I-xa-ác trong ngày cai sữa cho I-xa-ác).

2. Trong Tân Ước

Trong Tân Ước, chúng ta sẽ chú ý đến các sách Tin Mừng và một số thư của các Tông Đồ.

2.1 Trong các sách tin Mừng Nhất Lãm
Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta có gương Chúa Giê-su ưu ái trẻ nhỏ và
những lời giáo huấn về việc đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ.
Tin Mừng Nhất Lãm nhiều lần kể về cách thức và lý do Chúa Giê-su ưu ái trẻ nhỏ.
Người ta dẫn trẻ em đến với Chúa Giê-su… Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy,
Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì
Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: “Ai không
đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” Rồi Người
ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng. (Mc 10, 13-16; Mt 19, 13-15; Lc 18,
15-17)
Khi các môn đệ thắc mắc trong lòng (Lc 9, 46-48) hoặc bàn tán với nhau (Mc 9, 33-37)
xem ai trong các ông là người lớn nhất, hoặc hỏi Chúa Giê-su ai là người lớn nhất trong
Nước Trời (Mt 18, 1-4) thì Chúa Giê-su “gọi một em nhỏ đến, đặt giữa các ông” (Mt),
“đem một em nhỏ đặt giữa các ông” (Mc), “đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình” (Lc),

2 Có một bản dịch tiếng Việt khá quen thuộc: “như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ”, nghe thơ mộng nhưng
không phải là ý nghĩa của bản văn Hip-ri.

6
rồi trả lời các ông. Trẻ nhỏ là mẫu mực của người lớn nhất giữa các ông, lớn nhất trong
Nước Trời.
Mt 18, 3 nêu điều kiện quyết liệt để được vào Nước Trời: “Nếu anh em không trở lại mà
nên giống như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
2.1.1 Tin mừng Thời Thơ Ấu trong Lu-ca 1-2 vận dụng lời ngôn sứ Ma-la-khi 3, 1 làm
khung tổng thể cho trình thuật so sánh giữa vị Tiền Hô, “sứ giả của Ta đến dọn đường
trước mặt Ta” và “Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người”.
Trình thuật Truyền Tin cho Đức Trinh Nữ, như được dệt bằng sợi rút từ lời hứa về Em-
ma-nu-en (Is 7, 14), các lời hứa cho vua Đa-vít (2S 7) và thánh vịnh mời gọi Xi-on vui
mừng (Xp 3, 14-18). Lời thiên sứ chào Đức Mẹ, lời thiên sứ loan báo, lời Đức Mẹ hỏi
thiên sứ và lời giải thích của thiên sứ về cách thức trinh nữ thụ thai và sinh con, đều rút
từ những lời kể trên; đồng thời lời giải thích của thiên sứ còn gợi lên hình ảnh Vinh
Quang Thiên Chúa như đám mây phủ đầy Lều Tạm (x. Xh 33, 9-10 và 40, 34-35) và Đền
Thờ do Salomon xây (x. 1V 8, 10-11).
Bằng cách “rút sợi” từ lời loan báo và bài thánh vịnh mời gọi Xi-on vui mừng (Xp 3, 12-
18), Lc đã cho thấy Đức Trinh Nữ Maria như là hiện thân của Cô Gái Xi-on, thì đồng thời
cũng là hiện thân của tinh thần thơ ấu thiêng liêng mà ngôn sứ đã gợi lên: tìm nương ẩn
nơi Danh Thiên Chúa. Thiên Chúa làm mọi sự nơi Đức Trinh Nữ Maria, còn Đức Trinh Nữ
thì phó nộp hoàn toàn cho Lời Thiên Chúa: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ
xảy ra cho tôi [= xin Người cứ làm nơi tôi] - như lời thiên sứ đã nói”. Lu-ca trình bày Đức
Trinh Nữ Maria như là “hình tượng” (icon) của tinh thần thơ ấu thiêng liêng, để cho ta
chiêm ngắm mà học theo.
Đến cuối sách Tin Mừng, Lu-ca lại cho ta chiêm ngắm chính Chúa Giê-su Con Thiên
Chúa đã sinh làm con Đức Trinh Nữ Maria, bày tỏ tinh thần con thơ đối với Cha như
thế nào qua buổi cầu nguyện ở núi Ô-liu và lời cuối cùng trên thập giá. Ở núi Ô-liu Con
Thiên Chúa làm người đã bày tỏ với Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa
con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha”. “Cầu nguyện xong, Người đứng
lên…” đánh thức các môn đệ dậy, thanh thản đón kẻ đến nộp Thầy, và những kẻ đến bắt
Người, phanh phui cho họ thấy: “Đây là giờ của các ông, thời của quyền lực tối tăm” (Lc
22, 39-53). Suốt cuộc Khổ Nạn, Luca cho chúng ta chiêm ngắm một Chúa Giê-su thanh
thản và im lặng, làm chủ tình hình, khiến Phi-la-tô, Hê-rô-đê và những kẻ muốn giết
Người phải quay cuồng lúng túng. Lời cuối cùng của Chúa trên thập giá biểu lộ tình con
thơ phó thác tột cùng: “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong Người
tắt thở.” (Lc 23, 46). Lời “xin vâng” của Đức Trinh Nữ nhận làm Mẹ của Con Thiên Chúa
nghe như “tiếng vọng trước” lời phó thác mà chính Con Thiên Chúa làm người sẽ nói lên
bằng môi miệng con người trước khi kết thúc kiếp làm người trên thập giá.

7
2.1.2 Lu-ca cũng cho chúng ta một kiểu mẫu năng động khác là Si-mon-Phê-rô, ông đã
trở lại và nên như trẻ nhỏ, ông đã dâng của lễ đẹp lòng Thiên Chúa theo lời thánh vịnh
51/50: “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát dày vò Ngài sẽ
chẳng khinh chê” (câu 19), và Thiên Chúa đã tạo cho ông một tấm lòng trong trắng và
đổi mới tinh thần cho ông nên chung thủy (câu 12). Quả vậy, ngày đầu khi Chúa gọi ông
thì ông nhận ra mình là người tội lỗi không đáng Chúa ở gần (Lc 5, 8). Nhưng trên đường
đi theo Chúa thì ông lại lớn lên trong sự tin tưởng vào chính mình, dám thách đố cả lời
Chúa cảnh báo, cho mình là vững mạnh hơn mọi anh em (x. Lc 22, 31-34), dám theo
Chúa vào tận trong sân dinh Thượng Tế, lại còn ngồi chen vào giữa đám tay sai vừa bắt
Chúa Giê-su điệu về đây, cùng sưởi với chúng nữa (Lc 22, 54-55)
Điều phải đến đã đến. Nhưng Chúa đã cầu nguyện cho ông để ông khỏi mất lòng tin và
trao cho ông sứ mạng làm cho anh em vững mạnh sau khi ông đã trở lại (Lc 22, 31-32),
nên khi ông đã chối Chúa đủ ba lần và có tiếng gà gáy, thì Chúa quay lại nhìn thẳng vào
ông, ánh mắt của Chúa đã xuyên qua màn đêm, vào tận đáy lòng ông, “ông nhớ lại Lời
Người đã nói với ông, và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết” (Lc 22, 56-62).
Sau khi Chúa phục sinh, Chúa đã giữ lời hứa, tạo điều kiện cho ông thi hành sứ mạng
làm cho anh em của ông vững mạnh. Anh em tin Chúa đã phục sinh, vì lời Si-mon làm
chứng (Lc 24, 33-34).
Si-môn đã trở lại và nên như trẻ nhỏ, khi Chúa để cho ông cảm nghiệm sự yếu đuối của
ông tới mức nào, để ông hết còn dám cậy sức mình, nhưng hoàn toàn dựa vào Chúa
như trẻ thơ. Chúa đến với ông, ban cho ông tinh thần vững mạnh để ông có thể làm cho
anh em của ông vững mạnh. Người đã rửa ông cho sạch bằng chính nước mắt của ông
(Tv 51/50, 4).

2.1.3 Tin Mừng theo thánh Mác-cô lại cho ta chiêm ngắm một hình ảnh cô đọng thật
huyền bí, khi kể giây phút cuối cùng của Chúa Giê-su trên thập giá: “Vào giờ thứ chín,
Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-I, la-ma sa-bác-tha-ni!” nghĩa là “Lạy Thiên Chúa
của con, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?… Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng
lớn, rồi tắt thở…”. Hiệu quả bất ngờ: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-
su, thấy cách Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa.”
Một sĩ quan Rô-ma phục vụ dưới trướng Tổng Trấn Phi-la-tô, chưa bao giờ nghe Chúa
giảng, chưa bao giờ được thấy Chúa làm một phép lạ. Chỉ huy cuộc hành quyết, ông có
nhiệm vụ xác nhận người bị xử đã chết thật sự (Phi-la-tô sẽ gọi ông để xác nhận, khi ông
Giu-se A-ri-ma-thi đến xin xác Chúa Giê-su, Mc 15, 44-45). Vì nhiệm vụ ông phải đứng
đối diện với Chúa Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá. Ông chỉ thấy cách Người tắt thở
mà tuyên xưng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.

8
Thật là huyền nhiệm. Chúng ta hãy sống lại cảnh này, cùng đứng với viên sĩ quan và hỏi
ông: « Làm sao ông có thể nhìn cách Người tắt thở mà nhận ra người, mà chính đội hành
quyết do ông chỉ huy đã đóng đinh treo lên thập giá kia, là Con Thiên Chúa? »
Tinh thần con thơ của Chúa Giê-su lộ ra trong hơi thở cuối cùng, đến nỗi một người
ngoại đạo có thể nhận ra người bị đóng đinh là Con Thiên Chúa. Đó là cách trình bày
độc của Tin Mừng Mác-cô, vận dụng nghệ thuật kể chuyện, đặt chúng ta trước một bức
họa và để cho chúng ta nhìn ngắm mà rút ra kết luận.

2.1.4 Tin Mừng theo thánh Mát-thêu đã nêu điều kiện không khoan nhượng để được
vào Nước Trời: “Nếu anh em không trở lại mà nên giống như trẻ nhỏ thì anh em sẽ
chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3).
Lý do đã được nêu ngay trong Bài Giảng Trên Núi: Tám mối phúc:
Thứ nhất: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ… Thứ tám: “Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”.
Sáu mối phúc ở giữa, dùng những hình ảnh khác để nói về cùng một thực tại là Nước
Trời, và những cách nói khác để diễn tả cùng một thái độ của người bé nhỏ nghèo hèn
là chỉ tìm nương ẩn nơi Danh Thiên Chúa (x. Xp 3, 12), đến nỗi có bị bách hại vì sự công
chính thì cũng chẳng tìm nương ẩn nơi đâu khác ngoài Thiên Chúa. Được Nước Trời là
được chính Thiên Chúa làm gia nghiệp của mình. Mối phúc thứ tám lại được áp dụng
trực tiếp cho môn đệ của Chúa: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách
hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho
anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5, 12-13). Được Chúa Giê-su là được Nước Trời rồi.
Chúa Giê-su sẽ đề nghị với người thanh niên giàu có đầy thiện chí, muốn “hơn nữa”:
“Nếu anh muốn nên hoàn thiện [muốn được trọn vẹn], thì hãy đi bán tài sản của anh và
đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt,
19, 21). Kho tàng của anh ở trên trời lại là con người bằng xương bằng thịt, đang đứng
trước mặt anh đây, và anh có thể đi theo sau Người, theo sau kho tàng của anh.
Nghiệm cho kỹ thì thấy Tám Mối Phúc là chân dung tự họa (selfie) của Chúa Giê-su, như
suốt sách Tin Mừng này cho thấy, vì thế ở chương 11, Chúa Giê-su mời gọi: “Hãy học với
tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (câu 29). Cách tốt nhất để hiểu các mối
Phúc là đọc từng mối Phúc và nghiệm lại trong đời sống Chúa Giê-su xem Chúa đã sống
điều đó như thế nào. Ngược lại để biết Chúa Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu trình
bày, thì đọc và nghiệm xem qua đoạn vừa đọc, thấy được Chúa đang sống mối Phúc
nào.
Bài Giảng Trên Núi nhấn mạnh đến sự thành thật đơn sơ, sống tự đáy lòng, không giả
hình: bố thí, cầu nguyện, ăn chay là để phụng thờ Thiên Chúa tự đáy lòng, như trẻ thơ.

9
Phó thác trọn vẹn trong tay Cha, “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ”: “Cha anh em thừa
biết anh em cần tất cả những thứ đó… Vậy anh em đừng lo lắng cho ngày mai, ngày mai
cứ để ngày mai lo”.
Kết thúc Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giê-su dạy cách trở thành người khôn: “Ai nghe
những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà
trên đá” (Mt 7, 24). Trẻ thơ thì cha, mẹ bảo sao nghe vậy, bảo đi thì đi, bảo đứng thì
đứng, bảo làm gì cũng làm, bảo nói gì cũng nói… Đó cũng là điều Thiên Chúa đã đòi ở các
ngôn sứ, như Giê-rê-mi-a: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu người cứ đi, Ta
truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát
ngươi” (Gr 1,7).

2.2 Tin mừng theo thánh Gio-an
2.2.1 Sách Tin Mừng theo thánh Gio-an lại trình bày cho chúng ta chân dung Chúa Giê-
su như người con hiếu thảo, sống bởi Cha, luôn kết hiệp với Cha, “Cha ở trong Thầy và
Thầy ở trong Cha”, nói lời của Cha, làm việc của Cha, chỉ làm theo ý Cha và chỉ tìm vinh
danh Cha, chỉ muốn tỏ rõ lòng mình yêu mến Cha, kể cả bằng cái chết trên thập giá.
Không có gì là của riêng mình: “mọi sự của Cha là của Con, mọi sự của Con là của Cha”.
Ngay trong Lời Tựa, Gio-an đã cho thấy Ngôi Lời đã làm người chung phần vinh quang
của Cha: “Chúng tôi đã được thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban
cho Người, là Con Một đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1, 14).
Chúa Giê-su tuyên bố: « Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm
bất cứ điều gì ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì
người Con cũng làm như vậy 3 . Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho Người Con thấy
mọi diều mình làm…” (Ga 5,19-20)
“Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các
việc đó thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy các ông sẽ
biết và ngày càng biết thêm rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha.” (Ga
10, 37-38)
“Như Chúa Cha là Đấng nằng sống đã sai tôi và tôi sống bởi Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn
tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6, 57)
“Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã
nghe Người nói” (Ga 8, 26)

3 Có lẽ ám chỉ tới kinh nghiệm làm người con ở gia đình Na-da-rét, học nghề với người cha gia đình là
thánh Giuse. Chúa Giê-su dùng kinh nghiệm chung của mọi người để nói về tương quan của Ngài với Chúa
Cha.

10
“Các lờI Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha ở trong
Thầy, chính Người làm những việc của mình.” (Ga 14,10)
“Thủ lãnh thế gian này đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. Nhưng chuyện đó
phải xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa
Cha đã truyền cho Thầy.” (Ga 14,31)
Trong tình yêu mến thì Chúa Cha là mẫu của Chúa Giê-su và Chúa Giê-su là mẫu cho
môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy như thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như
vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của
Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của
Cha Thầy và ở lại trong Tình thương của Người.” (Ga 15, 9-10)
“Này đến giờ, và giờ ấy đã đến rồi, anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy
cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (Ga 16, 32).
Trong lời cầu nguyện hiến tế, Chúa Giê-su đã cho chúng ta một bản tóm lược về tương
quan giữa Người với Cha và giữa Người với các môn đệ:
“Những kẻ Cha đã chọn giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho chúng biết Danh Cha.
Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. Giờ đây họ biết rằng
tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban
cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin
là Cha đã sai con.” (Ga 17, 6-8)
Như vậy Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta gương mẫu tuyệt vời để sống như
con thơ đối với Cha Trên Trời, là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và của chúng ta: “Cha của
Thầy cũng là Cha của anh em” (Ga 20, 17); vậy Thầy đã sống với Cha như thế nào thì anh
em cũng hãy học với Thầy mà sống như thế với Cha.
2.2.2 Sách Tin Mừng Gio-an còn cho chúng ta một gương mẫu về việc “trở lại và nên
như trẻ nhỏ”, trong câu chuyện của ông Si-môn Phê-rô.
Các Tin Mừng Mt, Lc và Gio-an đều kể việc Chúa Giê-su báo trước rằng các môn đệ sẽ bỏ
Chúa một mình, và ông Phê-rô sẽ chối Chúa ba lần trước khi gà gáy (Ga 13, 38; Mt 26,34;
Lc 22, 34); Mc thì kể “gà chưa kịp gáy hai lần thì anh đã chối Thầy ba lần” (Mc 14, 30).
Rồi sau khi ông Phê-rô đã chối đủ ba lần thì tiếng gà gáy (Mt 26, 74-75 và Mc 14, 72),
hoặc cái nhìn của Chúa (Lc 22, 61-62) làm cho ông thức tỉnh, nhớ lại Lời Chúa đã nói và
ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Gioan ngưng câu chuyện với tiếng gà gáy (Ga 18, 27), như để cho thấy lời loan báo của
Chúa Giê-su đã ứng nghiệm; rồi kể sang việc Chúa bị điệu ra trước tòa Phi-la-tô, không

11
nhắc tới ông Phê-rô lần nào nữa trong cuộc Thương Khó. Ở chương 20, Gio-an kể việc
ông Si-môn Phê-rô cùng với “người môn đệ Chúa Giê-su thương mến” chạy ra mồ, như
hai nhân chứng để xác minh lời bà Maria Ma-đa-lê-na hốt hoảng chạy về báo. Họ thấy
quả là xác Chúa không còn trong mộ, nhưng khăn liệm và các băng vải còn đó, không để
lẫn với nhau, khăn liệm được cuốn lại gọn gàng và để riêng ra một nơi. Tối hôm ấy Chúa
Giê-su Phục Sinh đến với các môn đệ.
Tưởng như Gio-an đã quên chuyện ông Phê-rô hối cải. Ở chương 21, Gio-an kể việc
Chúa trao cho ông Phê-rô sứ mạng mục tử đối với toàn thể đoàn chiên của Chúa (như
Chúa đã tự mô tả chính mình là Mục Tử như thế nào (x. Ga 10, 1-16). Lúc này Gio-an
mới kể tiếp cho chúng ta về ông Phê-rô, ví ông với A-đam – E-và trong Vườn Địa Đàng
sau khi ăn trái cấm (x. St 3, 7-10)
Câu chuyện mở đầu với chuyến đánh cá đêm trên Biển Hồ Gali-li-lê của ông Phê-rô cùng
với sáu bạn môn đệ. Kết quả một đem vất vả: lưới không, thuyền rỗng.
“Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó
chính là Đức Giê-su. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả
lời: “Không!” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt
được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.”
Người môn đệ Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói
“Chúa đó!”, ông Phê-rô liền quấn áo ngang lưng [làm khố], vì ông đang trần truồng, rồi
nhảy xuống biển…” (Ga 21, 4-7)
Tôi sửa lại bản dịch cho sát bản Hy Lạp, vì đây là một chi tiết then chốt để hiểu câu
chuyện. Nhiều người lý luận: chẳng lẽ ông Phê-rô ở trên thuyền với sáu ông khác mà lại
trần truồng. Thứ nhất, không nên áp dụng cách thức ăn mặc ngày nay với hai ngàn năm
trước của người đánh cá trên hồ; thứ hai là chú ý tới liên hệ giữa hai yếu tố “Vừa nghe
nói “Chúa đấy!”… vì ông đang trần truồng”. Người kể chuyện cho thấy là cảm thức “trần
truồng” đến với ông Phê-rô khi ông nghe nói “Chúa đấy!” chứ không phải tự nhiên. Tiếp
theo là “ông quấn áo ngang lưng và nhảy xuống biển”.
Hãy so sánh với bản văn Hy-lạp của sách Sáng Thế 3, 7 “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và
họ thấy mình trần truồng: họ mới hái lá vả làm dây thắt lưng cho mình. Rồi khi nghe
thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con
người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn tránh mặt Thiên Chúa”.
Ở trong vườn, thấy mình trần truồng thi hai ông bà hái lá cây vả, là thứ lá cây lớn nhất
trong vườn, xâu lại làm thắt lưng (khố). Khi nghe thấy tiếng Đức Chúa thì hai ông bà trốn
vào giữa cây cối, tránh mặt Đức Chúa. Ông Phê-rô đang ở giữa Biển Hồ, nghe nói “Chúa
đó!” ông như mở mắt ra, vì nãy tới giờ Chúa đứng đó mà ông không nhận ra, tiếng

12
“Chúa đó!” mở mắt cho ông nhận ra Chúa và thấy mình trần truồng. Ông đã có thể mặc
áo vào, nhưng ông lại quấn áo làm thắt lưng. A-đam E-và ở trong vườn thì núp vào giữa
cây cối, còn ông Phê-rô ở giữa biển thì núp vào đâu? Nhảy xuống biển!
Nhưng việc ông nhảy xuống biển lại như “tiền xướng” nhắc chúng ta nhớ tới thánh vịnh
139/138, chuẩn bị cho ta nghe lời ông Phê-rô tuyên xưng lòng mến sau bữa ăn: “Thầy
biết… Thầy biết mọi sự…”
Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ…
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài. (Tv 139/138, 1.8)
“Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa.”
Với ông Phê-rô thì quang cảnh này gợi nhớ “than hồng” bọn tôi tớ đã đốt để sưởi trong
sân dinh Thượng Tế, và ông đã ngồi vào sưởi ké, rồi chuyện đã xảy ra đêm ấy bên lò
than hồng.
Chúa đã hỏi họ: “Không có gì ăn ư?”, họ trả lời cộc lốc “không”. Bây giờ Chúa đã dọn
sẵn bữa ăn nóng hổi cho họ, có bánh có cá đặt trên than hồng. Nhưng Chúa nhẹ nhàng
gỡ thế lúng túng cho ông Phê-rô: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Ông Si-mon Phê-rô
lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ, lưới đầy cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.
Cá nhiều như thế mà lưới không rách.”
Sau khi các ông đã nghiệm ra hiệu năng của lời Chúa qua mẻ cá, Chúa bảo các ông: “Anh
em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng
đó là Chúa. Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm
như vậy.”
Bữa ăn này hẳn gợi cho các ông nhớ lại bữa ăn Chúa đãi đám đông hôm nào khi ngồi
trên núi (Ga 6, 1-13), Chúa Giê-su vừa là Thiên Chúa đãi tiệc trên núi (x. Is 25, 6-9), vừa là
mục tử cho chiên nằm nghỉ “trong đồng cỏ xanh tươi” (x. Tv 23, 2).
Sau bữa ăn trong thinh lặng trước mặt Chúa (như Mô-sê và các kỳ mục trong Xh 24, 9-
11), Chúa nói chuyện với ông Phê-rô trước mặt anh em, như xưa Thiên Chúa nói với ông
Mô-sê trước mặt dân: “Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để khi Ta nói
với ngươi, thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi.” (Xh 19, 9).
Trước hết Chúa long trọng gọi tên đầy đủ của ông Phê-rô, không lẫn vào đâu được: “Này
anh Si-môn con ông Gio-an 4 , anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp:
“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chúa Giê-su nói với ông:Hãy chăm sóc các
4 Người Do Thái không có tên họ như Việt Nam, nên muốn xác định căn cước một người thì phải kể lên đời
cha, đời ông...

13
chiên con của Thầy.” Chú ý câu hỏi lần thứ nhất này có so sánh “hơn các anh em này”,
hẳn làm ông Phê-rô nhớ tới những lời khẳng khái ông đã thưa với Chúa trước mặt anh
em trong phòng Tiệc Ly, tỏ ra ông cho là mình yêu mến Thầy hơn bất cứ ai trong hàng
môn đệ: “Thưa Thầy, sao con lại không đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí
mạng con vì Thầy” (Ga 13, 37)
Người lại hỏi: “Này anh Si-môn con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?” Ông đáp:
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.
Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-môn con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?”
Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: Thưa
Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc
chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy,
và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng
và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cach
nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.” (Ga 21,16-19)
Chúa hỏi đến lần thứ ba thì ông Phê-rô buồn. Dễ hiểu, lần thứ nhất Chúa so sánh để
nhắc lại cho ông lời cam kết ông đã nói trước mặt anh em, tỏ ra ông yêu mến Thầy hơn
bất cứ ai. Chúa hỏi đến lần thứ ba thì ông buồn, vì ám chỉ quá rõ ràng tới việc ông chối
Chúa lần thứ ba trước khi gà gáy.
Câu trả lời lần thứ nhất và lần thứ hai, ông dựa vào Chúa: “Thầy biết”; khi trả lời lần thứ
ba thì ông nại đến “Thầy biết rõ mọi sự”. Thánh vịnh 139/138 lại vọng bên tai chúng ta:
“Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ... Hồn con đây biết rõ mười mươi... Lạy Chúa
xin dò xét con để biết rõ lòng con, xin thử cho biết những điều con cảm nghĩ. Xin Ngài
xem con có lạc vào đường gian ác, thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.” (Tv 139/138,
14.23-24). Chúa Giê-su đã dò xét lòng ông và gọi ông đi theo Chúa là “con đường, là sự
thật và là sự sống.” (Ga 14, 6)
Nhìn lại toàn bộ câu chuyện này, chúng ta thấy Chúa đã giúp cho ông Phê-rô nhận ra tự
thân ông chẳng là gì, chẳng có gì và chẳng làm được gì: con nhà nghề, rủ bạn cùng nghề
đi đánh cá, mà suốt đêm chẳng bắt được gì; ông đã thề sống chết với Chúa, nhưng đã
chối Chúa đủ ba lần khi gà chưa kịp gáy. Trước mặt Chúa hôm nay, ông thấy mình như
một đứa trẻ, trần truồng, vừa lạnh vừa đói, chưa biết mặc áo, chẳng có gì ăn. Chúa
Giê-su đốt lửa cho ông sưởi ấm, nướng bánh và cá cho ông ăn, rồi mặc cho ông áo mới
của tình yêu tinh tuyền, hoàn toàn dựa vào Chúa là Đấng thông suốt mọi sự: “Tạng phủ
con chính Ngài cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con... Xương cốt con, Ngài
không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất
thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy...” (Tv 139/138, 13-16).
Chúa làm như đáp lại lời cầu xin trong thánh vịnh 51/50: “Xin tạo cho con một tấm lòng
trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy” (câu 12). Và coi như Chúa trả lời

14
nỗi thắc mắc của ông trong bữa Tiệc Ly. Khi Chúa bảo: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không
thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo”, thì ông thưa: “Thưa Thầy, sao con lại
không đi theo Thầy ngay bây giờ được”. Bây giờ thì Chúa đã cho ông tinh thần vững
mạnh để đi theo Chúa, và cho ông biết ông sẽ được theo Chúa tới nơi Chúa đã đi là thập
giá, rồi Chúa bảo ông: “Hãy theo Thầy”.
Chúa trao cho ông cả chiên mẹ chiên con, tức là trọn đoàn chiên mà Chúa đã cứu chuộc
bằng cái chết và sự phục sinh của Chúa, như khi Thiên Chúa dẫn đưa dân lưu đầy trở về:
“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay: Lũ
chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bày chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11). Bây giờ
thì Chúa có thể nhận lời ông Phê-rô đã cam kết sẵn sàng thí mạng sống vì Chúa. Ông sẽ
chết giang tay trên thập giá như Chúa, nhưng không phải thí mạng vì Chúa, mà vì đoàn
chiên của Chúa, giống như Chúa đã làm. Ông phải là mục tử như Chúa Giê-su: “Hy sinh
mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10, 11) .
Ông Si-môn Phê-rô ở cuối sách Tin Mừng Gioan trở thành hình tượng cho chúng ta
chiêm ngắm để biết thế nào là “trở lại mà nên như trẻ nhỏ” (Mt 18, 3).
2.3 Trong các thư của các Tông Đồ
Trong thư các Tông Đồ, thì các lời khuyên bảo đều hướng về sống trung thành với Thiên
Chúa, thi hành ý Thiên Chúa, tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, cậy dựa vào một mình
Thiên Chúa. Tôi chỉ nêu vài ví dụ. Mỗi người có thể mở các thư, đọc những lời khuyên
bảo.
Bản thân thánh Phao-lô cũng đã được ơn mà thánh Phê-rô nhận được ở bên Hồ (x.Ga
21). Ngài diễn tả trong thư thứ nhất Cô-rin-tô: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không
dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo màu nhiệm của Thiên Chúa. Vì
hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-
tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá. Vì thế khi đến với anh em, tôi
thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn
khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí vá quyền năng
Thiên Chúa”(1Cr 2, 1-4).
“Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng
hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể.”
(1Cr 3, 6-7).
Trong thư thứ hai Cô-rin-tô: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi
đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan
được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi
nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh

15
của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì
những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy tôi cảm thấy
vui mừng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì
khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12, 7-10).
Thánh Phao-lô hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa khi thi hành sứ mạng: “Trong Đức Ki-
tô Giê-su, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa. Thật thế, tôi đâu dám
nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa
các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói việc làm, bằng sức mạnh
của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần.” (Rm 15, 17-19). Ta
nghe như vang vọng lời Chúa Giê-su nói về chính mình trong sách Tin Mừng Gio-an.
Trong các thư, thánh Phao-lô truyền đạt kinh nghiệm sống này cho các tín hữu.
Thư gởi tín hữu Rô-ma, trong phần giáo huấn từ chương 12 tới chương 15, thánh Phao-
lô mở đầu với “cách thức xứng hợp để thờ phượng Thiên Chúa” là sống như thể mình
là một của lễ toàn thiêu đã được dâng cho Thiên Chúa, “bằng cách đổi mới tâm thần,
hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì
hoàn hảo” (x. Rm 12, 1-2). Đó là cốt lõi của tinh thần thơ ấu thiêng liêng mà Thánh Phao-
lô quảng diễn trong các chương 12-15 của thư này, giúp ta hiểu thế nào là sống tinh
thần thơ ấu một cách thiết thực.
Trong thư Ê-phê-sô và thư Cô-lô-sê, thánh Phao-lô dùng hình ảnh lột bỏ con người cũ,
mặc lấy con người mới, sống đời sống mới trong Đức Ki-tô. “Anh em hãy bắt chước
Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương” (Ep 5, 1).
Thư thứ nhất của thánh Phê-rô là một huấn dụ cho những người mới chịu phép rửa, ví
người tín hữu “như trẻ sơ sinh, hãy khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ
lớn lên để hưởng ơn cứu độ” (1Pr 2, 2). Đoạn cuối phần khuyên nhủ có câu: “Mọi âu lo
hãy trút cả cho Người, vì Người săn sóc anh em... Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng,
cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Ki-tô.”
(1Pr 5,7).
Con đường thơ ấu thiêng liêng nghe thì “thơ” lắm, nhưng không phải là ẻo lả “làm thơ”.
Đó là hiệu quả của ơn Chúa Thánh Thần như ngôn sứ I-sai-a kể: “Thần khí khôn ngoan và
minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Thiên Chúa”
(Is 11, 3). Sách Giáo Lý kể bảy ơn: khôn ngoan, thông minh, lo liệu, sức mạnh, hiểu biết,
đạo đức và kính sợ Thiên Chúa.
Vậy thì chỉ có một cách là khiêm tốn xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, xin Thánh Thần tác
động trong chúng ta và dẫn dắt chúng ta, như Người đã dẫn dắt Chúa Giê-su, Con Thiên
Chúa làm người. Thánh Thần làm cho chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha: “Ap-ba, Ba

16
ơi!” (Rm 8, 15; Gl 4, 6). Và thánh Phao-lô dạy: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí thì cũng
hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.” (Gl 5, 25).

Giê-ru-sa-lem ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, 2018
L.M. Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.