jeudi 6 février 2014

Phân giải Đạo Lý Việt qua sự tích “Bánh Chưng, Bánh Dày”

 Nguồn

Nguyên Khang

      
Dẫn nhập:



Sự tích “Bánh chưng, Bánh Dày” từ thời vua Hùng Vương thứ 18 cho tới ngày nay,  đã là người Việt thì ai ai cũng nhớ vì mỗi dịp xuân về tết đến, nhà nhà đều có bánh chưng làm vật phẩm dâng lên ban thờ Tổ Tiên cúng các Cụ. Và từ xưa cụ đồ VN đã để lại trong nhân gian câu đối tết như sau:



“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,

Cây Nêu, tràng pháo, Bánh Chưng Xanh”.



Vì vậy, kẻ hạ không cần thiết phải viết lại truyện tích trong bài viết này, chỉ xin tóm tắt cái đại ý của sự tích “Bánh Chưng, Bánh Dày”, có người còn gọi là “Tiết Liêu truyền kỳ”.



 Đại ý truyện như sau:



(Thời điểm lịch sử của Tiết Liêu còn gọi là Lang Liêu truyền kỳ có nhiều huyền thuyết khác nhau. Tuy nhiên trong bài phân giải này không chú ý tới thời điểm của lịch sử mà chỉ muốn nêu lên cái “Đạo Lý Vuông Tròn” qua biểu tượng “Bánh Chưng, Bánh Dày”).



Vua Hùng Vương thứ 17 có năm vị Hoàng tử. Ngài muốn tìm người thừa kế ngôi vị, nhưng phân vân không biết lựa chọn ai cho xứng đáng nên nảy ra ý định thử thách các hoàng tử để tìm người có đủ đức tin mà trao ngôi báu. Vua cha bèn triệu tập các Hoàng tử cùng các quan đương triều, rồi phán rằng: Ta muốn tìm người thừa kế ngôi vị sau này, nhưng trong năm vị Hoàng tử, Ta khó định quyết nên Ta ra một điều kiện cho năm Hoàng tử là:



Nếu cuối năm tới ai mang tới dâng lên cho Ta những tài vật hiếm qúy nhất trên đời, thì Ta truyền ngôi báu cho người đó.



Thế là một cuộc chạy đua giữa các Hoàng tử, người thì dẫn lính tráng lên rừng, xuống biển lùng bắt các thú rừng hiếm qúy, kẻ thì đi khắp thiên hạ sang các nước láng giềng lùng mua các trang sức qúy kim vật phẩm cực hiếm mong ngày thi tuyển sẽ được Vua Cha hài lòng lựa chọn. Riêng Hoàng tử Tiết Liêu vì là con trai út lại là con trai của bà thứ Phi, nên hai mẹ con bị trục xuất ra khỏi Kinh thành về làm thứ dân sống tự túc nơi quê mùa, không đuợc hưởng bổng lộc của triều đình. Do cảnh nghèo thế cô nên Tiết Liêu rất lo buồn vì nghĩ mình không thể tranh đua với các anh, tuy không muốn tranh ngôi báu, nhưng lệnh Vua Cha đã ban xuống thì phải thực thi đi tìm vật qúy hiếm dâng lên, nếu không sẽ bị tội khinh quân. Lòng day dứt khôn nguôi không biết xoay sở ra sao. Một đêm nọ, chàng nằm mơ thấy ông Bụt hiện xuống mách bảo cho cách làm hai loại bánh gọi là “Bánh Chưng, Bánh Dày” dùng những nguyên liệu sẵn có như gạo nếp. đậu xanh, thịt heo, cùng với các vật liệu trong vườn như lá chuối, lạt tre và củi đun mà làm thành vật phẩm dâng lên Vua Cha. Hai loại bánh này từ trước đó trong dân gian cũng như ở cung đình chưa hề có, và chưa ai biết làm.



Được ông Bụt xuất hiện trong giấc mơ mách bảo, Tiết Liêu cũng chẳng còn cách nào lựa chọn trong hoàn cảnh nghèo túng và thiếu phương tiện quyền thế so với các vị hoàng tử đàn anh của mình, nên chàng quyết tâm làm theo lời mách bảo của ông Bụt.



Thời gian tới hạn mang vật phẩm về Triều dâng Vua Cha. Các hoàng tử đàn anh đem tới dâng lên Vua Cha vô số các vật phẩm vô cùng qúy giá và hiếm có trên đời, Các Quan đương triều thấy Vua hài lòng nên cũng hết sức vui vẻ hy vọng những vị Hoàng tử mà mình phụ tá sẽ được thừa kế ngôi báu. Riêng Hoàng tử Tiết Liêu với cách ăn mặc giản dị bình dân dâng lên Vua Cha một mâm Bánh Chưng, một mâm Bánh Dày trông rất thô lậu, khiến các Quan trong triều nhìn thấy không nín được tiếng cười chê, khinh mạn. Nhưng đối với Vua Cha, Ngài thấy ngạc nhiên với mâm bánh lạ mắt, nên ăn thử, thấy món bánh này quá ngon lạ miệng nên khen hết lời và ban cho mọi người trong ngày hội được ăn thử và ai ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua Cha tuyên bố hai mâm bánh của Hoàng tử Tiết Liêu là vật phẩm xứng đáng được thắng cuộc, rồi tuyên bố người thừa kế ngôi báu là hoàng tử Tiết Liêu, trở thành vị Vua Hùng Vương đời thứ 18.



Phân giải:



          Tại sao Hoàng tử Tiết Liêu được Vua Cha truyền lại ngôi báu cho chàng?



I-                 Cách giải thích vốn có từ xưa nay:





1)   Theo như tích truyện, thì Vua Cha ăn thấy khoái khẩu nên mới truyền ngôi báu.



2)   “Bánh Chưng, Bánh Dày” biểu tượng cho tinh thần Tự lực tự cuờng là biết sử dụng nguyên vật liệu nội địa. Hợp với cách trị dân mà Vua Cha đang áp dụng và mong muốn tìm người con nào thấu triệt điều đó.



II-              Cách phân giải theo đạo lý Bách Việt:



           Dâng lên Vua cha hai biểu tượng “Bánh Chưng, Bánh Dày”, thực ra Hoàng tử Tiết Liêu đã dâng lên Vua Cha một kế sách trị quốc an dân. Hiểu được điều này Ta mới thấy vị Vua Hùng Vương thứ 17 là một vị Minh Quân đáng kính, và Hoàng tử Tiết Liêu xứng đáng được Vua Cha tuyển lựa, Ngài trở thành vị Vua đời Hùng Vương thứ 18. Và từ đó dân Việt coi ngài là một giòng Tổ của mình, như hiện có Đền thờ Ngài ở mọi nơi có người Việt sinh sống.



Vậy Kế sách ấy thể hiện như thế nào?



*- Bánh Chưng:



- Biểu tượng cho Địa, là hình vuông theo chữ Điền vì con người trong đời sống hàng ngày và tới khi chết đều sử dụng các dạng hình có góc vuông như những mảnh ruộng (bờ vừng, bở thửa) sở hữu điền địa, nhà ở (điền trạch) cũng theo dạng có góc vuông, giường nằm, tấm phản, cái bàn v.v… và khi chết thì quan tài hay hố huyệt đều có dạng góc vuông.



Hình Vuông bốn cạnh bằng nhau như chiếc Bánh Chưng thể hiện tính lý công bằng, bình đẳng, nếu phải phân chia thành từng phần (phân bổ quyền lợi cho đại chúng) mà vạch những đường thẳng xuyên qua Tâm điểm của hình (dụng Tâm mà phân xử) thì không bao giờ xảy ra tình trạng bất bình đẳng, có nghĩa là có sự bảo đảm mọi phần đều bằng nhau. Đó là cái lý công bằng và bình đẳng.



- Dùng bốn cái lạt tre (tượng trưng cho bốn phương trời đông, tây, nam, bắc)buộc ngoài cái Bánh Chưng tạo ra 9 cung vuông:





 Một cung giữa (trung tâm hay trung ương) và 8 cung vòng quanh (8 châu thời đó). Đây là kế sách phân quyền trị dân (chia đơn vị hành chánh để quản trị). Từ đó kiến tạo ra phẩm trật trong triều đình gọi là Cửu Phẩm, từ nhất phẩm triều đình (quan Thượng Thư hay quanTể Tướng), thấp nhất là bậc Cửu Phẩm tức quan địa phương cấp quan Huyện.



- Chín Cung trên mặt ngoài lá bọc của Bánh Chưng còn thể hiện sự hình thành mộtquẻ Bát Quái vốn có trên mu Rùa (Thần Quy) gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm của Tộc Việt như ta có tích về Nỏ Thần Kim Quy, Hoàn Kiếm truyền kỳ (di tích Cổ thành An Dương Vương ở Vĩnh Phúc, Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội bây giờ) .



- Chín cung đó còn thể hiện về hình thái của vũ trụ như : Trời thì có Cửu Thiên, Địa ngục thì có Cửu tuyền, ngôi Vua có cửu trùng, dòng Tộc thì có Cửu Huyền, số học thì tới số chín (cửu) là cao nhất.



- Cắt đôi chiếc Bánh Chưng nhìn vào mặt cắt, ta nhìn thấy ba màu khác nhau. Trên cùng (lớp ngoài) màu xanh của lá thể hiện tầng Thiên, ở giữa có nhân thịt (thể hiện làNhân), tầng dưới màu vàng của đậu xanh nấu chín (thể hiện cho Địa). Như vậy ba lớp trong Bánh Chưng thể hiện ba phần là Thiên-Địa-Nhân hợp lại. Một chiếc Bánh Chưng ngon còn gọi là Bánh Chưng dền thì điều tiên quyết trong kỹ thuật làm và nấu bánh phải đạt tới ba thành phần Thiên-Địa-Nhân phải quyện lại với nhau thì hương vị mới thiệt hấp dẫn, mới là chiếc bánh thơm ngon và đẹp. 


       

Cũng như trong cách trị quốc an dân phải có đủ ba điều kiện để thành công đó là:“Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa” phải hợp đủ trong cách trị quốc. Đó cũng là Nguyên Lý:“Tề gia, Trị quốc, Bình Thiên hạ” của những Minh Quân phải áp dụng và thể hiện trong  tư cách của mình.




          

Hình vuông nằm trong hình tròn (Trái đất nằm trong bầu trời, đó là biểu tượng: “Thiên bọc Địa”) nên hình vuông biểu hiện cho Quy tắc (Thần Kim Quy) hành xử trong mối quan hệ xã hội giữa người với người hay sự khác biệt các cấp bậc trong thể chế quốc gia. Hình vuông trong quốc gia chính là bên hành pháp, trong tôn giáo, nhà trường, trong gia tộc v.v… thì gọi là Gia có gia quy, tôn giáo có giáo quy v.v…Nên trong dân gian VN thường có câu: “Quốc có Quốc pháp, Gia có gia quy”  là vậy.



 Một điểm nữa là khi cắt chia chiếc Bánh Chưng thì không được dùng dao hay vật dụng kim loại khác để cắt bánh, vì nếu sử dụng dao mà cắt bánh chưng thì thất bại vô cùng vì hầu như không đạt được theo ý muốn và bánh sẽ bị nát nhầu. Nhưng nếu ta dùng mấy sợi lạt tre vốn buộc ngoài chiếc bánh chưng mà cắt bánh thì dễ dàng làm sao và theo được ý muốn cắt chia chiếc bánh. Đó là đạo lý cư xử “mềm dẻo” trong mối ăn chia hòa thuận trong tập thể, chứ không có sự tranh chấp cứng rắn giành giật mà làm hỏng mối lợi chung. Đó chính là mối quan hệ bình hòa trong dân gian làng xóm như câu ngạn ngữ: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” mà ta vẫn thường nghe rất thân thương trong ngôn ngữ Việt Tộc. 


     

Cái quy trình 3/9 (Tam môn, Cửu cấp) của Đạo Việt (biểu thị trên chiếc Bánh Chưng) qua quẻ Quy (Kinh dịch) được thể hiện trên lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (Cờ Việt Nam Cộng Hòa). Thực ra hàng ngàn năm trước quy trình này đã luôn luôn được thể hiện trong các công trình xây cất từ dân dã làng quê, tới các công trình xây cất đồ sộ như Chùa chiền, Đình Miếu cho tới các cung điện vua chúa. Đâu đâu ta cũng nhận diện được như nhà ở làng quê thì đều có ba cửa (cửa chính và hai cửa sổ) Cổng chào lúc nào cũng có tam môn (cổng lớn với hai cửa nhỏ hai bên). Các bậc thềm khi thấp  thì tam cấp (ba bậc) khi cao thì Cửu cấp (chín bậc), hành lang bậc thềm đi lại ở trong các công trình xây cất lớn nhỏ thường thấy đều xây theo thứ bậc “Tam cấp rồi cửu cấp”. Chỗ nơi thờ phượng cũng được gọi như Tam Bảo (Phật Giáo), Ba Ngôi (Thiên chúa Giáo). Các cổng ra vào nơi thờ phượng cũng xây dựng ba cửa gọi là cổng Tam Quan.



Phát hiện mới gần đây nhất là người kiến trúc sư xây dựng công trình Tử Cấm Thành Bắc Kinh thời đầu triều đại nhà Minh bên Trung Quốc, một công trình đồ sộ nhất thế giới cho tới ngày nay là ông Nguyễn An là người Việt (một nghệ nhân bị cống triều thời đó). Qua sự phân tích lý giải của vị học giả người Đức ta nhận diện ra Kiến trúc sư Nguyễn An đã sử dụng trên căn bản các ô hình vuông theo mô hình quẻ Quy (Bát Quái) trên chiếc Bánh Chưng để thiết kế mô hình Tử cấm Thành theo quy trình 3/9 quy Nhất (Tam Cửu quy Nhất). Một thiết kế rất ư là phức tạp cho tới ngày nay nhiều điểm vẫn chưa thể giải mã được.



Là một nô dân bị cùm, bị nhốt trong trại giam chưa hề biết gì về cái đất nước chủ nô, mà bị buộc phải dùng tài nghệ cá nhân vốn có ở Việt Nam để trở thành một kiến trúc sư, một công trình sư bất đắc dĩ hầu giữ lại mạng sống của mình. Ở VN ông Nguyễn An cũng chưa hề có một công trình đầu tay nào cả, ngoài cái tài nghệ nhân (không rõ nguồn gốc về tài nghệ gì) thế mà phải nặn óc ra mà thiết kế một công trình vĩ đại nhất thế giới hồi đó cho tới bây giờ chưa có cái công trình nào sánh bằng.



Điều đó nói nên cái vốn kiến thức sẵn có trong ông đã thấm nhuần được văn hoá Việt Tộc khi còn sống và làm việc ở quê nhà. Nay vì sự sống còn của bản thân mà phải vận dụng cái số vốn kiến thức tiềm ẩn đó cộng với óc quan sát (khi nhìn con dế trong lồng và nghe tiếng kêu của dế, đây là một trò chơi rất phổ biến của các trẻ nhỏ ở VN) mà sáng tạo ra những đường nét mới lạ cho đủ đáp ứng với cái diện tích quá khổ  của công trình mà ông phải phụ trách xây dựng. Thật đúng như câu châm ngôn của Tộc Việt: “Cái khó nó bó cái khôn”. Cho nên ta có thể tự hào mà nói rằng Công trình Tử Cấm Thành là công trình thể hiện theo đạo lý Việt. Và từ Đạo lý Việt mà hình thành.

           

*- Bánh dày: 





          Bánh dày hình tròn làm bằng gạo nếp nấu chín rồi giã mịn, hai mặt là hai bánh hình tròn, phía ngoài hai mặt được lót lá chuối màu xanh, kẹp giữa hai bánh tròn là nhân thịt chiên vàng (gọi là chả Quế). Nhìn cặp bánh dày ta cũng thấy thể hiện ba thành phần đó là: Thiên-Địa-Nhân như bên chiếc Bánh chưng.



Bánh dày là hình tượng của mặt Trời, mặt Trăng (ngày và đêm) đó là chữ Minh(chữ nôm của nước Việt thời đó) tức đại diện cho Thiên, là hình ảnh của ngôi vị Minh Quân.



Hình tròn cũng như hình vuông trong hình học nếu cứ vạch một đường thẳng qua tâm điểm thì mọi phần chia đều bằng nhau dẫu chia nó thành hàng vạn phần nhỏ cũng không hề có sự chênh lệch không đều. Đó là Đạo Tâm của Tộc Việt. Trong mọi sinh hoạt đời sống mà “dụng Tâm  ứng sử” thì sẽ đạt được cái lý bác ái, thương yêu, bình đẳng, công bằng.




Bánh dày mềm dẻo, chả Quế thơm ròn vàng ngậy, lá chuối xanh tươi tạo nên cái đẹp hấp dẫn, hương vị quyến rũ ăn thấy ngon bùi. Ba thành phần “Thiên-Địa-Nhân” quyện chặt lấy nhau tạo nên thành phẩm tuyệt vời. Đó cũng là biểu lý của Đạo: “Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa” Điều mà bất cứ một vị Minh Quân nào cũng phải thông đạt điều này thì mới có thể  “Tề gia, Trị Quốc, Bình thiên hạ” được.



Bánh Chưng, Bánh dày khi bày cỗ làm vật phẩm để dâng lễ vật cúng tế Trời Đất, Tổ tiên hay biếu tặng giao tế đều phải đi một cặp “Cặp Bánh chưng, Bánh Dày” đó là biểu tượng một đôi như: Âm-Dương, Vợ- Chồng, Quân-Thần, anh-em, chị-em, thày-trò, cha-con, mẹ-con, bạn-hữu v.v…Tất cả các mối quan hệ song phương này luôn luôn “dụng Tâm ứng sử”  sao cho Vuông-Tròn (Bánh Chưng Vuông, Bánh Dày Tròn) thì mọi việc được hạnh thông mỹ mãn. Trong dân gian Việt Nam thường có câu chúc một người Mẹ khi lâm bồn sinh nở thường chúc là: Được “Mẹ Tròn con Vuông” biểu thị cho “Tâm Ý” cầu mong được hạnh thông mỹ mãn. Lời chúc này chỉ có trong ngôn ngữ Việt Tôc mà thôi. Nếu không hiểu được cái Đạo Lý Việt thì không ai có thể hiểu được lời chúc “độc đáo” này. 


           


Bánh Dày hình tròn biểu hiện cho Thiên, hình tròn bao bọc hình vuông, đó là hình ảnh “Bầu Trời bao bọc trái Đất”. Biểu thị cho quyền lực tối thượng của một vị Minh Quân dùng Luật mà trị Quốc, trong luật bao hàm đức tính bao dung để An Dân. Đó là Quốc gia phải có Luật pháp hầu điều hành quốc sự. Trong Tôn giáo, làng xã, nhà trường, đoàn thể thì có luật lệ, trong gia đình thì có tục lệ để điều hành mọi hoạt động của cơ sở. Chính vì thế trong dân gian vẫn có câu châm ngôn: “Nhập gia tùy tục” hầu nhắc nhở nhau cách sống là vậy. Luật tức là phép nước, đồng nghĩa là Luật Pháp. Chính vì thể hiện này mà một quốc gia dân chủ thường phải có hai Viện: Luật pháp và hành pháp. Ta thường gọi là Hạ Viện và Thượng Viện, trong cuộc sống thì có Tòa Án và Cảnh sát là vậy.



    Qua những điều phân tích thể nghiệm trên, ta thấy Tích truyện Bánh Chưng, Bánh Dày không phải là một câu chuyện vui cười trà dư tửu hậu. Mà thực chất Tổ Tiên Tộc Việt Văn Lang đã để lại truyền thừa cho thế hệ mai sau một Đạo Lý Việt thâm hậu rất thực tế trong đời sống con người, trong mối quan hệ tương giao song phương đối lập, Trong Phương sách và tư cách một vị Minh Quân trị quốc an dân. 


          


Nhưng thực đáng tiếc cho dân Việt ta, trải qua hơn bốn ngàn năm biết bao nhiêu vật đổi sao rời, hết Triều đại này tới Triều đại khác đều không mang cái Minh Triết của Đạo Lý Vuông-Tròn mà giáo lý cho dân chúng, hay không ít các vị vua chúa  đã không thông đạt được cái Đạo lý tiềm ẩn trong sự tích “Bánh Chưng, Bánh Dày”, nên không thực hành theo phương sách “Trị Quốc An Dân”.



Mà như trong sách giáo khoa, hay trong lời bình phẩm tích truyện thường chỉ nêu bật cái “Tật” tham ăn tục uống, hưởng thụ của ngon vật lạ trên mồ hôi xương máu của con dân, rồi tuyển chọn kẻ xu nịnh tâng bốc với cái “Tâm Nô Bộc” mà truyền ngôi báu. Hẳn đó cũng là cái nguyên cớ tạo ra khá nhiều những hạng tham quan vô loài ngày càng đông cho tới ngày nay đã trở thành “Quốc nạn tham nhũng” khó bề điều trị như cái triều đại Cộng sản VN đã kéo dài từ năm 1954 cho tới bây giờ.



Những mong bài viết này thể hiện được phần nào cái thâm túy Đạo Lý Tộc Việt xuyên qua tích truyện “Bánh chưng, Bánh dày” mà truyền tới những thế hệ mai sau. Qua đó hầu hy vọng nếu được giới lãnh đạo Quốc gia cũng như con dân nước Việt thông đạt được Đạo lý này mà ứng dụng thì vận mệnh Đất nước Việt Nam sẽ được chuyển hóa mang lại nền hạnh phúc, ấm no, an bình, thịnh vượng cho đất nước và cho muôn dân.

Mong lắm thay, cũng cầu mong nhận được những ý hay để cùng nhau trao dồi mở rộng sự hiểu biết hơn.



Viết ngày 21/01/14

Năm Giáp Ngọ

Nguyên Khang  

Molb. 0468567836

Email: nguyenk42@hotmail.com



*- Phần phụ giải âm ngữ "Chưng" và âm ngữ "Dày":



1)               Âm "Chưng":



Trong truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự (1743-1790) có câu:



    "Lễ hôn chuông chắn mọi đường

    Quế càng hương chắp, gấm càng hoa thêm"



Sau này dùng chữ quốc ngữ thì đổi thành:



    "Lễ hôn vuông vắn mọi đường...".



Như vậy: "Chuông chắn" = "Vuông vắn", trong văn học xưa ta cũng thường gặp như: Một chuông lụa, một chuông vải, khăn choàng đầu của phụ nữ Bắc Việt gọi là "chuông khăn" sau đổi cách gọi là "khăn vuông". Âm "chuông" trong tiếng Nôm có nghĩa là bốn cạnh vuông vắn, đầy đủ. (theo Việt Nam từ điển Khai Trí Tiến Đức 1931), âm "chưng": đọc trại từ "chuông" mà ra. "Chưng" có nghĩa là "Vuông", bánh chưng có nghĩa là bánh vuông



2)               Âm "Dày":



Theo chữ Nôm "bánh Dày" gọi là Bánh "Bạc Trì" (Bạc Trì bình).



"Bạc" có nghĩa là mỏng, là dẹt nghịch nghĩa với từ "dầy". "Trì" đọc âm Nôm là "giầy" có nghĩa là cầm, giữ chứ không có nghĩa là bề dầy, hay giầy dép. (theo Đại Nam Quốc Âm Tự viện của Huỳnh Tịnh Của, bảng tra chữ Nôm của Viện ngôn ngữ học 1976, cơ sở ngữ văn Hán-Nôm của Lê Trí Viện 1987). Cho nên "bánh Giầy" có hình tròn dẹt và mỏng .


Sau này theo chữ quốc ngữ mà theo cách phát âm từng địa phương mà thành "bánh dày","bánh giày", "bánh dầy", tuy nhiên hình dạng bánh không thay đổi và sự biểu tượng của bánh vẫn đồng chung ý nghĩa là mặt Trời, mặt Trăng, trong tự Nôm ghép hai tự Nhật Nguyệt lại thành tự "Minh().   

10 plantes pour bien dormir, Dược thảo trị mất ngủ

 La camomille
  
Des difficultés à trouver le sommeil, réveil nocturne, agitation…
Pour éviter la prise de somnifères, penchez-vous sur des méthodes douces et naturelles, inoffensives pour l’organisme. Certaines plantes se révèlent très efficaces contre les insomnies. Découvrez lesquelles et comment les consommer ! 

La valériane, la mélisse, le tilleul, le houblon, la passiflore, la fleur d'oranger, la verveine, le rooiboss, la lavande.

********************************************************

Chứng khó ngủ, thức dậy vào ban đêm, bồn chồn ...
Để tránh uống thuốc ngủ, dựa vào các dược thảo vô hại cho cơ thể. Một số hoa, trà giúp chữa chứng mất ngủ.  

Valerian, dưỡng chanh, bồ, hoa bia, passiflore, hoa cam, cỏ roi ngựa, rooiboss, hoa oải hương.


10 plantes pour bien dormir
La valériane
10 plantes pour bien dormir
La mélisse
10 plantes pour bien dormir
Le tilleul
10 plantes pour bien dormir
Le houblon
10 plantes pour bien dormir
La passiflore
10 plantes pour bien dormir
La fleur d'oranger
10 plantes pour bien dormir
La verveine
10 plantes pour bien dormir
Le rooiboss
10 plantes pour bien dormir
La lavande

CÓ MỘT CẶP VỢ CHỒNG CỰC KỲ GIAN ÁC



SAPA trong màn sương



CÓ MỘT CẶP VỢ CHỒNG CỰC KỲ GIAN ÁC

Linh mục Piô Ngô Phúc Hậu

Sapa 22.12.2013
Mình tạm biệt Sơn Tây vào lúc 9 giờ 30 tối hôm qua. Sáng nay mình tới bến xe Lào Cai vào lúc 5 giờ 30. Vừa ra khỏi xe thì có người chào.

-         Chào cha cố

-         Tại sao anh biết tôi?

-         Con gặp cha nhiều lần ở tòa giám mục rồi. Cha Bình bảo con đi đón cha đây. Cha muốn ghé thăm Cha Thành hay đi thẳng về Sapa?

-         Đi Sapa luôn. Giờ này vào nhà xứ nào cũng bị hố. Một là cha xứ đang đi "ấy". Hai là bố đang sửa soạn đi dâng lễ...

Mình tới Sapa vào lúc 6 giờ 30. Bắt tay chào Cha Bình. Nghỉ một tí. Ăn một tí. Đọc kinh hai tí, rồi đi thăm người và đi xem phong cảnh hết một buổi sáng. Từ trên sân nhà thờ nhìn xuống phố: chỉ thấy khách du lịch đi đứng lố nhố. Chẳng biết ai gầy, ai béo. Chẳng biết ai đẹp, ai xấu. Chỉ thấy những bộ quần áo dày cộm và những cặp mắt hấp háy. Nhưng hình ảnh gây ấn tượng nhất vẫn là những người phụ nữ Hơ-mông: lùn lùn, tròn tròn, bùm kín bằng vài thổ cẩm, địu con sau lưng, đi tới đi lui như dòng chảy của con suối.

Họ cố tình gây chú ý để tiếp cận khách du lịch, may ra bán được một cái mũ thổ cẩm, một đôi xuyến bằng bạc. Thu nhập chẳng là bao, nhưng vẫn hơn là làm ruộng. Có ai đó đã hãnh diện tuyên bố: "Phú quý nhà quê, không bằng ngồi lê ngoài chợ".

Cũng từ sân nhà thờ, mình nhìn lên dãy núi Hàm Rồng vừa hùng vĩ vừa duyên dáng với màu xanh lam nấp sau màu xanh lục, vừa xanh biêng biếc, vừa xanh thăm thẳm. Đẹp quá! Thế nhưng tại sao lại có những mảng trắng nằm rải rác trên nền xanh một cách thiếu nghệ thuật đến thế? Người ta đua nhau trả lời: “Tuyết đấy”. Người Hà Nội đua nhau lên Sapa để xem tuyết: “Đẹp như tuyết ”, “Trắng như tuyết”. Thế nhưng…ở Sapa có những người nghèo khóc nấc lên vì tuyết. Tại sao? Để đấy.

 

Sapa 23.12.2013

Sáng nay mình đi dâng lễ ở Hầu Thào, cách Sapa 7 km. Khi xe gần tới nhà thờ, thì bỗng dừng lại ở đầu con dốc. Bác tài xế kiêm chủ xe khiêm tốn thanh minh với hành khách:

-         Phải đi bộ thôi. Ngọn tre gãy ngang thân thò xuống, mui xe cao không chui qua được.

-         Tại sao kỳ cục vậy?

-         Tại tuyết. Tuyết rơi trên ngọn tre, nhẹ như bông gòn. Nhưng tuyết chồng lên tuyết, biến thành băng giá, nặng như nước đá, đè lên thân cây. Cây tre đực dày và cứng thì đứng vững. Cây luồng vừa to vừa mỏng không đủ sức chống đỡ, đành gãy ngang thân, xé toạc ra thành nhiều mảnh. Một cây tre thẳng tắp cao vút trị giá từ bốn đến năm chục nghìn, bây giờ bị tuyết bẻ gãy, bán chạy, bán tháo chả ai mua. Cho không cũng chả ai lấy. Đau xót vô vàn! Sau khi bẻ gãy hàng ngàn cây tre, tuyết còn bẻ gãy cành đào, cành mận; tuyết còn đạp nát những vườn rau và vườn hoa. Dân đang nghèo bây giờ lại nghèo hơn. Tất cả chỉ vì tuyết. Tuyết làm vui mắt người giàu. Tuyết làm ứa lệ người nghèo. Tuyết là người đẹp tàn nhẫn.

Sapa 27.12.2013

Cha Bình dành trọn hai ngày rưỡi để đưa mình đi thăm các cụm giáo dân thuộc tỉnh Lai Châu. Đó là San Thàng, Mường So, Nậm Tăm, Huổi Bắc, Nậm Pắt, Bình Lư, Nậm Sỏ và Mường Tè. Đi mãi, đi mãi mà vẫn phải bỏ qua ba điểm cuối cùng. Từ San Thàng đến Mường So chỉ có 30 cây số. Nhưng từ Nậm Tăm đến Huổi Bắc thì phải đi 210 cây số. Đường nào cũng là đèo. Đèo nào cũng ngoằn ngoèo và cheo leo.

Tỉnh Lai Châu chưa có một cụm giáo dân nào được nâng cấp thành giáo họ; chưa có một nơi thờ tự nào được công nhận là nhà thờ.

Các cụm giáo dân Hơ-mông đều ở sâu trong vùng núi hiểm trở và heo hút. Nhà sàn rải rắc bám lấy sườn đồi. Từ nhà này qua nhà kia phải xuống một con dốc và lên một con dốc. Nội thất thì tuềnh toàng. Trâu bò thì “ấy ” một cách vô tư và rải đều trên đường mòn. Đến với cộng đoàn nào Cha Bình cũng hỏi các em thiếu nhi: “Chúng con có đi học không?” “ Chúng con có trốn học không?” Khi hỏi “Có bao nhiêu em học lớp một”, thì gần như em nào cũng giơ tay. Nhưng khi hỏi “Có bao nhiêu em học lớp phổ thông?”, thì mọi người nhìn nhau, ngơ ngác. Cứ mỗi lần giã từ một cộng đoàn, Cha Bình lại nhắc nhở: “Không được bỏ học nhé”.

Sơn Tây 29.12.2013

Mình về tới Sơn Tây  vào lúc 21 giờ tối hôm qua, mang theo một nỗi buồn man mác về cái nghèo của đồng bào miền Tây Bắc. Vừa buồn vừa tức. Tức vì người nghèo vẫn cứ mãi mãi chiếm ba phần tư dân số thế giới và chỉ được hưởng mười tám phần trăm tài nguyên của trái đất. Nói một cách cụ thể, thì cứ một trăm người sẽ có:

-         75 người nghèo chia nhau ăn 18 bát cơm. Ăn hết cơm mà bụng vẫn còn xót xa, mà nước miếng vẫn còn nhểu tồm tộp.

-         25 người giàu được ăn tới 82 bát cơm. Vừa ăn vừa đổ bỏ. Ăn no kềnh bụng mà cơm vẫn còn thừa mứa một đống.

Tại sao người nghèo lại đông đảo và cực khổ đến thế? Giáo hội đã cùng với ngàn vạn người thiện chí quyết tâm chấm dứt tình trạng nghèo trên thế giới, vì nghèo xúc phạm đến nhân phẩm. Nhưng tình trang nghèo vẫn còn đó. Mẹ Têrêsa Calcutta đã dốc toàn lực của cả một đời để cứu vớt người nghèo. Nhưng bà đã phải than thở rằng: “Muối bỏ biển”.

Buồn quá, mình ngồi nghĩ miên man. Nghĩ mãi thì bất ngờ, mình nhớ đến văn hào Victor Hugo, một nhà văn đã từng cay cú với cái nghèo, nhưng cuối cùng vẫn phải giơ tay đầu hàng nó. Thông cảm với nỗi lòng của Victor Hugo, mình bèn viết một lá thư ngỏ gửi ông, dù rằng lá thư này chẳng bao giờ tới tay ông.

Kính thưa cụ Victor Hugo.

Năm 1862 cụ cho ra đời một tác phẩm vĩ đại. Đó là cuốn Les Misérables (Những kẻ khốn cùng). Tôi đọc tác phẩm này một cách say mê. Tôi có cảm tưởng là cụ đã đập bàn, khi tuyên bố câu này: “ NGHÈO  và DỐT là một cặp vợ chồng đẻ ra quái thai”. Thấy cụ giận dữ, tôi cũng giận dữ theo. Tôi giận như cụ và còn giận hơn cụ nữa. Tôi hằn học, chỉ mặt chúng nó và la lên rằng: “ NGHÈO và DỐT là một cặp vợ chồng cực kỳ gian ác”.

Cụ Victor Hugo kính mến.

Năm 1862 cụ khiển trách nặng lời với cặp vợ chồng NGHÈO –DỐT. Chúng nó làm bộ điếc không thèm nghe, còn ra vẻ vênh váo. Năm 1885 cụ nhắm mắt lìa đời, còn chúng nó thì cứ sống phây phây. NGHÈO –DỐT vẫn khống chế ba phần tư dân số thế giới. Kể từ ngày cụ về bên kia thế giới, tính đến nay đã được 129 năm rồi, NGHÈO –DỐT vẫn còn  đó, vẫn cứ phây phây và vênh váo.

Bậc tiền bối Việt Nam của chúng tôi cũng bị day dứt trước cảnh NGHÈO –DỐT của nhân sinh. Các cụ đã ra tay tế độ cứu vớt người nghèo. Chiến thuật của các cụ là “Có thực mới vực được đạo”. Sau khi đem  hết tâm huyết ra để đẩy lui NGHÈO –DỐT, các cụ đành buông xuôi tay và thở dài: “No thân ấm cật, dâm dật khắp nơi”. Bó tay!

Cụ Victor Hugo kính mến.

Tôi bất mãn vô cùng khi thấy cụ và các vị tiến bối Việt Nam của tôi bị cặp vợ chồng NGHÈO –DỐT quật ngã nằm la liệt trên vệ đường lịch sử của hơn một thế kỷ. Chưa hết. Hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn những tâm hồn đầy nhiệt huyết cũng đang bị vợ chồng chúng nó quật ngã, nằm lả tả trên mọi nẻo đường của năm châu lục. Thất vọng quá, tôi muốn tìm một nơi thanh vắng để tránh mặt chúng nó và để ngẫm nghĩ, mong tìm được một chiến thuật mới.

Và…. Thưa Cụ, chiến thuật mới ấy là “Diệt DỐT, để DỐT diệt NGHÈO”.

Tôi vận động các nhà hảo tâm tặng học bổng cho các em học sinh nghèo. Mỗi học bổng là một “phao cứu dốt”. Mỗi “phao cứu dốt” là một niềm phấn khởi cho cha mẹ nghèo. Cha mẹ nghèo đang oằn vai gánh vác, bỗng cảm thấy nhẹ nhõm đứng nhìn con cắp sách đến trường.

Khi được học hành đến nơi đến chốn, các em sẽ hết dốt. Khi đã hết dốt, các em sẽ biết phải làm gì để thôi nghèo.

Để khuyến khích các em ham học, tôi tặng các em một phương trình bậc một như sau:

Giỏi + ngoan = tuyệt vời

Giỏi – ngoan = lưu manh

Ngoan – giỏi = khù khờ

Cụ Victor Hugo kính mến ơi!

Vừa mới áp dụng chiến thuật “ Diệt DỐT để DỐT diệt NGHÈO” tôi thấy cặp vợ chồng NGHÈO – DỐT bắt đầu chia rẽ nhau. Chúng nó vẫn đẻ ra quái thai, nhưng bắt đầu đẻ thưa dần. Hy vọng trong tương lai vợ chồng NGHÈO – DỐT sẽ thôi nhau. Mong thay!

Kính mến chào Cụ.



Đồng kính gửi:

-         Linh mục Phêrô Phạm Thanh Bình

          Nhà thờ Sapa, Thị trấn Sapa, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai

          Tél.: (020) 387 3014- Mob. 0912234500

          Email: bibaha@gmail.com



-         Linh mục Phaolô Nguyễn Quốc Anh

          Giám đốc Caritas Hưng Hóa.

          70 Lê Lợi- Tx. Sơn Tây- Hà Nội

          Tél.: (04) 33 618 775- Mob. 0945577172

          Email: caritashh@gmail.com

*********************************************************************

Sapa

If you want a place of cultural authenticity and natural tranquility, you have found the right place. Sapa is a mountainous town in Northen Vietnam where you write poem, have your cameras on for most of your time, cheer over a community wine pot, learn to appreciate indigenous culture or just to escape Hanoi heat and city noise. Being one of the most attractive tourism destinations of the country, Sapa is a precious gift that Mother Nature dedicates to Vietnam.
Location and history

350km far north-west from Hanoi, Sapa, the capital of Sapa District in Lao Cai Province, lies at the altitude of 1600m. With the temperature ranging from the lowest of -1oC to the highest of 29oC, Sapa’s climate is moderate and drizzly in summer while chill and foggy in winter.
Sapa (or Chapa- the “sandy place”) first appeared in Vietnam national map in the late 1880s when the French disembarked in highland Tonkin. The first permanent French civilian resident arrived in Sapa in 1909, and by 1920, there were a number of villas being built in this area by prosperous professionals. Going through many ups and downs, nowadays, Sapa is the prominent holiday destination, favored by both locals and foreign tourists.
Sapa - fairy home of ethnic minorities

There is nowhere in Vietnam can tourists easily meet the local ethnic minorities like in Sapa. The district is the home of a great diversity of ethnic people, including five main groups of Hmong, Yao, Tay, Zay and Xa Pho. They do not live in center area but in hamlets scattering on the valleys throughout Sapa District. Actually, not until the 20th century did a majority of the ethnic people changed to sedentary lifestyle with intensive farming method on sloping terraces, instead of slash-and-burn culture like in the past. Town of Sapa is where ethnic minority people gather, trade or sell their farming products such as rice, corn, fruits, as well as handicrafts and souvenirs to tourists. There is one interesting fact about ethnic minority people in Sapa that besides their dialects, many of them, especially small children, can speak English pretty well with clear pronunciation.

 Trekking in Sapa 

Spending time visiting ethnic minorities’ villages, observing their daily’s activities or even living homestay, in order to understand more about their culture is now the top priority of visitors, especially international ones. A trip to Sapa would definitely more meaningful with participatory activities, such as learning to make handicrafts or helping the local with farm work! In case time does not allow, you can always hire a local guide for your trekking routes. Chances are these boys and girls will tell you lovely stories about their traditions, their lives or even ask you to join their family activities.
Sapa- challenging for mountainous trekking

Sapa is voted to be the best trekking spot in Vietnam, by both natives and foreigners. The whole district is dominated by The Hoang Lien Son mountain range, which also includes Mt. Fan Si Pan- the highest peak in Vietnam and the entire Indochina peninsula with the height of 3143m. This mount is not only a tough challenge to trekking enthusiasts but also an opportunity to witness the splendid mountainous vista.
   Trekking in Sapa   
The scenery of the Sapa region represents a harmonious relationship between the minority people and nature, which can be seen perceptibly in the paddy fields carpeting the rolling lower slopes of the Hoang Lien Mountains. It was the elements wearing away the underlying rock over thousands of years that created this impressive physical landscape.
The geographical location of the area makes it a truly unique place for a rich variety of plants, birds, mammals, amphibians, reptiles and insects, some of them can only be found in northwestern Vietnam.
Sapa- thunderstruck local food

Sapa’s specialties are another reason attracting more and more tourists travelling to this town. A wide range of sub-tropical vegetables such as white cauliflower, red beet, or chayote are planted here. There are dishes that will be a must to enjoy for every visitor - boiled chayote consumed with sesame or “lon cap nach”- pig carried under armpit, which are home pigs but are raised in the field or forest.
      Lon cap nach      
The cool weather of the region makes barbecued meat and fish with mushroom and vegetables the most preferred street foods in Sapa. People grill corn, sweet potatoes, dumpling, bamboo-tube rice, or even eggs as well. Nevertheless, tourists can try many other local foods like purple sticky rice or “thang co”- horse meat right in Sapa market.
More surprisingly, Western restaurants, from Italian to French ones, can also be found around the center of Sapa, at a very reasonable price.
How to get there?

Visitors can choose to go to Sapa by train or car, but train is more advisable because of the long and bumpy road.
                
Train is the most popular way to get to Sapa
Most tourists arrive in Lao Cai, the province to which Sapa belongs, by train (read more about train from Hanoi to Sapa) and it is definitely an impressive ride. The train leaves Hanoi train station in the evening and arrives in Lao Cai train station in early morning. From Lao Cai train station to Sapa is another hour bus ride, which gives your eyes a massage with the endless blue sky and colourful terraced paddy field. The road is curved around the mountain and you will just go from one surprise to another. The further you go, the closer you are to the sky and to nature.
Sapa is definitely a place to remember. And maybe to return as well!

mercredi 5 février 2014

Những món ăn đang dần thất truyền trong ngày Tết

Nem công chả phượng, mọc vân am, thang - cuốn tôm thịt là những món ăn ngày Tết đang có nguy cơ mai một bởi tác động của nhịp sống hiện đại.
Nem công chả phượng
Trong bếp lửa cung đình xưa, thịt công có thể chế biến nhiều món ăn với nhiều phương pháp khác nhau, nhưng nem công thường được chế biến thường xuyên hơn cả.
Tuy nhiên, do thịt công được xếp vào hàng quý hiếm, nên trong mâm tiệc hôm nay, nguyên liệu của món nem được thay đổi chế biến bằng thịt thăn heo. Vì thế mà các gia đình Việt Nam vẫn thường làm món này vào các dịp lễ đặc biệt dịp Tết và trở thành một món ăn truyền thống trên mâm cỗ của người Việt.
Giá trị chất lượng của món ăn so với nem công xưa không sánh bằng, song hương vị thanh của tôm nõn hoặc thịt cua, cà rốt, su hào quyện cùng thịt heo, trứng gà; vị nem rán giòn ngậy thì không lẫn vào đâu được. Nhiều du khách, đặc biệt là người nước ngoài, sau một lần thưởng thức vẫn thường tìm đến các cửa hàng thực phẩm châu Á để mua nguyên liệu về tự làm nếu quanh vùng không sẵn nhà hàng Việt.
nem-cong-9198-1390471704.jpg
Với người Việt cổ, nem công chả phượng là biểu tượng của sự tao nhã trong ẩm thực cung đình Huế. Ảnh: nhà hàng Cơm Việt
Mọc vân ám
Trong số các món ăn truyền thống xưa, có lẽ món mọc vân ám là cầu kỳ, tinh tế nhất. Có thể vì thế mà món ăn đã bị thất truyền. Món ăn này được làm thành 5 màu khác nhau. Mỗi viên mọc dùng một loại nguyên liệu riêng để tạo màu như gấc, hạt dành dành, lá, mảnh cộng, mộc nhĩ trắng , nấm hương…
Những viên mọc 5 màu được cho vào bát xếp xen kẽ sau đó chan nước ninh xương cùng bì lợn lên trên. Chờ cho nước đông lại thì úp ra đĩa. Những viên mọc nhiều màu ẩn trong khối nước bì trong suốt trông như đám mây ngũ sắc. 5 màu của món mọc vân ám ứng với kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, là sự mong ước đủ đầy, trọn vẹn. Món ăn cầu kỳ này xưa kia chỉ dành cho các gia đình giàu có, song ngày nay, cuộc sống đã khá giả, ai cũng có thể thưởng thức món ăn đặc biệt này.
moc-van-am-3-JPG-9108-1390471704.jpg
Vẻ đẹp của nghệ thuật ăn uống đã vượt xa giá trị của một món ăn thông thường. Ảnh: vietway
Thang - Cuốn tôm thịt
Thể hiện sự khéo léo, tài đảm đang của người phụ nữ Hà Nội xưa, bún thang và cuốn tôm thịt được chế biến từ những nguyên liệu “tồn” ngày Tết. Vì vậy món ăn thường được nấu vào đúng ngày “ hóa vàng”, ngày tổng kết Tết nên các cụ hay gọi là cỗ Thang cuốn. Sau những bữa cỗ Tết chán ngán với thịt mỡ, dưa hành, thì món cuốn tôm thịt và bún thang đem lại cho thực khách một cảm giác thanh tao, nhẹ nhàng, mát ruột nhưng lại rất ngon.
Thang theo từ cổ có nghĩa là canh. Để làm được bún thang phải có vài chục thức nguyên liệu và gia vị như thịt ức gà xé, thịt lợn mông băm xào săn với gia vị và nước mắm, hành khô, củ cải, gừng, ớt, rau răm, trứng tráng thái chỉ, ruốc tôm bông lòng đỏ trứng mặn, cà cuống, mắm tôm ...
Nước dùng cho món bún thang thường được nấu từ xương gà và tôm he khô, hoặc xương bánh chè của con lợn. Nấu bằng hai loại xương này nước sẽ trong và ngọt. Nhân thang được làm từ củ đậu và thịt gà xé.
thang-cuon-tom-thit-2-JPG-2992-139047170
Thang – Cuốn tôm thịt, món ăn đem lại cảm giác thanh mát, nhẹ nhàng, đánh thức vị giác của người Việt. Ảnh: vietway
Và khi trời Hà Nội đã sang đông, những cánh rau mùi non mới đã bắt đầu xuất hiện trên các mẹt rau của bà hàng rau là lúc gợi nhớ mùi vị đặc trưng của món cuốn. Song cái tâm điểm tạo nên hưng vị món cuốn tôm thịt Hà Nội mùi vị của cái bỗng xào mật mía và thứ rau diếp ngô lá dày và hơi ngăm đắng. Vài cọng rau thơm xanh xanh, vài sợi bún trắng cùng vớt thịt ba chỉ luộc và tôm đồng rang mặn tạo nên món bún cuốn tôm thịt thật hấp dẫn.
Nghệ thuật ăn uống là mùa nào ăn thức ấy, hoặc có những món chỉ ăn trong một ngày đặc biệt, hoặc chỉ ăn trong những hoàn cảnh đặc biệt mới thấy hết vị ngon của nó.
Selina Nguyễn

Thuốc hay từ chuối

Thứ Tư, 05/02/2014 09:16

Nước ta có nhiều loại chuối như chuối tiêu, chuối tây, chuối hột. Trong đó chuối tiêu được dùng làm thực phẩm dinh dưỡng và làm thuốc nhiều nhất.

Chuối tiêu thơm ngon, giàu dinh dưỡng do chứa bột đường (glucose, fructose, sucroe); protein là albumin và globulin, mà được cấu tạo bởi các acid amin cần thiết; các vitamin: A, B, C, H...; các nguyên tố Ca, Fe, Mg, K, Na, Zn... và nhiều enzym: amylase, invertase...

Theo Đông y, chuối tiêu vị ngọt, tính lạnh; vào vị, đại tràng. Có công năng tư âm, nhuận tràng, nhuận phế, thanh nhiệt, giải độc. Dùng cho các trường hợp táo bón, sốt nóng khát nước, mụn nhọt, trĩ xuất huyết, tăng huyết áp, bệnh mạch vành, an thai. Vỏ quả chuối chín có vị ngọt, chát, tính ôn; có tác dụng sát khuẩn, chỉ tả. Củ chuối: vị ngọt, lạnh; có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Dịch nhựa chảy ra từ thân hay củ chuối: vị ngọt, chát, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc. Hằng ngày có thể ăn 1 - 5 quả; 20 - 30 g vỏ chuối; 60 - 120 g tươi củ chuối.





Chuối tiêu thơm ngon, giàu dinh dưỡng, lại là vị thuốc nhuận tràng nhuận phế trị táo bón, trĩ xuất huyết, phế nhiệt.

Một số đơn thuốc và thực đơn chữa bệnh:

Chữa đái ra máu: củ chuối tươi 120 g, cỏ nhọ nồi 30 g. Sắc lấy nước, uống trong ngày.

Chữa trĩ ra máu: chuối 2 quả, để cả vỏ, nấu chín, ăn trong ngày, dùng nhiều lần.

Chữa phế nhiệt, đàm suyễn: củ chuối tươi 60 g, rau sam 30 g. Giã nát ép lấy nước, đun âm ấm để uống.

Chữa mụn nhọt ở sống lưng, viêm cơ: củ chuối hay rễ chuối, giã nát đắp chỗ đau.

Chữa trúng độc do ăn uống: củ chuối tiêu 200 g - 500 g, thái miếng, sắc đặc lấy 1 bát. Cho uống để gây nôn.

Phòng và chữa viêm loét dạ dày: chuối tiêu xanh thái lát, phơi hay sấy ở nhiệt độ dưới 500C, tán bột. Ngày uống 20 - 30 g.

Chuối luộc: chuối chín 2 - 3 quả, để cả vỏ luộc chín, cho ăn cả vỏ. Dùng cho các trường hợp táo bón, trĩ nội, ngoại xuất huyết.

Chuối hấp đường phèn: chuối chín 2 - 3 quả, đường phèn 100 g. Chuối cắt đoạn, thêm đường phèn, đun cách thủy cho chín. Ngày 1 - 2 lần. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản, ho khan, đờm ít dính, táo bón.

Kiêng kỵ: Không dùng nhiều khi bị tiêu chảy, đầy bụng trướng hơi.

Theo TS Nguyễn Đức Quang (Sức khỏe & Đời sống)