Ngày
16 tháng 09 năm 2007 vừa qua, kỷ niệm 5 năm ngày ÐHY Phanxicô Xavie
Nguyễn Văn Thuận qua đời, Tòa Thánh khởi sự án phong chân phước cho
người. Hôm sau, khi tiếp kiến Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình,
ÐGH Bênêđictô XVI đã gọi ÐHY là “vị Ngôn Sứ đặc biệt của niềm hy vọng
Kitô.”[1] Tại sao?
Ðây là câu trả lời của ÐHY : “Thánh giá và dây đeo này không những là kỷ niệm quý giá về những năm tù đầy, nhưng còn là một nhắc nhớ liên lỉ cho tôi biết rằng chỉ có đức ái Kitô mới có thể hoán cải tâm hồn, chứ không phải vũ khí, lời hăm dọa hay truyền thông. Những người canh gác tôi rất khó biết khi nào tôi nói về lòng yêu thương kẻ thù, sự hòa giải và ơn tha thứ.”[2]
Khi
còn sinh tiền, đi đâu ÐHY Nguyễn Văn Thuận cũng khoe cây Thánh giá
Người đã dầy công tác tạc trong lao tù. Cây Thánh Giá đã khắc sâu trong
tâm hồn người như một hồng ân và một dấu chỉ độc nhất giúp người nhận
biết và đón nhận Vua Công Chính đang cai trị Nước Thiên Chúa bằng tình
yêu bất bạo động.
ÐĂNG QUANG TRONG NƯỚC MẮT
Giây
phút cuối cùng trên thánh giá thật ngắn ngủi, nhưng cũng đủ cho Chúa
thực hiện những điều vĩ đại nhất trong cuộc đời. Chưa bao giờ Chúa trải
qua cơn đau khổ, nhục nhã cùng cực như vậy. Chỉ còn khoảnh khắc nữa,
Chúa sẽ bị đẩy vào cõi thinh lặng ngàn thu. Nhưng chính lúc đó, Chúa đã
hoàn thành sứ mạng cao cả nhất, sứ mạng công chính hóa nhân loại. Vua
Công Chính đã đăng quang trong một khung cảnh ngược đời.
Khác
hẳn mọi vua chúa trần gian, Chúa đã chọn giây phút nhục nhã nhất để tỏ
ra tất cả vinh quang Thiên Chúa. Hậu cảnh càng đen tối càng làm nổi bật
những nét công chính vĩ đại trong tình yêu Thiên Chúa. Trong khung cảnh
tối tăm và giữa những tên đại gian ác, Con Chúa đã lên ngôi dẫn theo cả
một đàn em đông đúc. Kể từ giờ phút đó, Thiên Chúa “đã giải thoát chúng
ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái ; trong
Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.”(Cl 1:13-14)
Nhân
loại đã xúc phạm đến Thiên Chúa là Ðấng Công Chính. Ðó là sự bất công
vô cùng đối với Thiên Chúa. Ðồng thời họ đánh mất sư công chính thuở ban
đầu. Không ai có thể đền bù nổi sự mất mát lớn lao đó. Nếu Con Chúa
không lấy cái chết nhục nhã để trả lẽ công bình cho Thiên Chúa, nhân
loại muôn đời không bao giờ được công chính hóa. Hình ảnh Thiên Chúa
vĩnh viễn xóa tan trong con người. May thay, Con Thiên Chúa đã đến gánh
tội trần gian và chấp nhận mọi đau thương, nên con người mới lấy lại địa
vị làm con Thiên Chúa.
Chính
lúc đòi Thánh Tử đền thay tội trần gian, Thiên Chúa đã mạc khải tất cả
tình yêu vô cùng lớn lao cho nhân loại. “Ðể cứu đầy tớ, Chúa đã hy sinh
chính Con yêu.”(Lễ Phục Sinh) Hai mặt công bình và tình yêu đã tìm được
hòa điệu tuyệt vời nơi Ðức Kitô, Ðấng đã chiến thắng và cứu vớt tất cả
từ cây Thánh Giá.
Không
có cái nhìn sâu xa đó, những người Do thái lại lên giọng thách thức
Chúa : “Ông hãy cứu lấy mình!” (Lc 23:35) Câu nói được lặp lại ba lần,
cho thấy công cuộc cứu độ là vấn đề chính mọi người đều quan tâm ở đây.
Lần thứ nhất phát xuất từ miệng những người cầm quyền. Họ tưởng quyền
bính là tuyệt đối. Họ đã không cứu, thì không ai có thể thoát khỏi tử
thần. Trớ trêu thay, chính lúc họ thách thức, không những Chúa đã tự cứu
chính mình, mà cả nhân loại. Thật là phi thường và bất ngờ!
Lần
thứ hai những người lính cũng hò hét ngạo mạn Chúa. Theo họ, nếu thực
sự là vua dân Do thái, Chúa Giêsu phải chiến đấu, như họ thường trực
diện tiêu diệt quân thù. Họ muốn nhắc nhở Chúa phải triệt tiêu những
điều bất chính trong trần gian. Càng gào to, họ càng không hiểu chút gì
về vương quyền và vương quốc của Chúa Giêsu. Chúa không nghe theo luận
điệu của họ để tiêu diệt kẻ thù trước mắt. Người không chống cự hay giận
dữ. Nhưng Người phó thác số phận và cuộc đời trong tay Chúa Cha.
Lần
thứ ba tiếng nhục mạ vang lên từ miệng tên gian phi. Tuy cùng chung số
phận, kẻ trộm bên tả lên tiếng nghi ngờ và thách thức Chúa. Chúa nhường
lời cho người đồng phạm của y đáp trả hắn đích đáng. Chỉ cần một chút
lương tri, người trộm lành lý luận với đồng phạm về bản chất công lý :
“Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ
ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:41) Lẽ tự nhiên, có vay có trả.
Tâm thức đó phản ảnh đức công chính nơi Thiên Chúa.
Người
trộm lành đã tỏ ra hiểu biết Chúa chính xác. Không những thế, dù đang
đau đớn cùng cực, anh vẫn tin tưởng kêu lên : “Ông Giêsu ơi, khi ông vào
Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Lập tức Chúa nói với anh :
“Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng.” (Lc
23:43) Như một ngôn sứ vĩ đại, Chúa đã nói lên một sự thật, sự thật về
lòng thương xót vô điều kiện của Chúa. Không phải chỉ bằng lời nói,
nhưng qua hành động, Người đã chu toàn sứ mệnh dù đang hấp hối : “Tôi
không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mc
2:17)
Thiên
Chúa có cái nhìn khác hẳn con người. Ơn cứu độ không thực hiện theo bộ
diện bên ngoài. Ơn cứu độ là sự công chính hóa toàn diện, phát xuất tư
tình yêu Thiên Chúa. Người muốn cứu vớt tự bên trong và hướng con người
đến hạnh phúc đích thực. Người không muốn biểu diễn những pha ngoạn mục
trước mắt người đời. Nhưng Người thực hiện tức khắc những gì đã hứa cho
những ai thuộc về Nước Thiên Chúa. Thiên Chúa mạc khải tình yêu vĩ đại
và hoàn toàn nhưng không khi Chúa tỏ lòng thương xót đối với người trộm
lành. Người trộm lành trở thành biểu tượng cho những muốn ai đón nhận ơn
tha thứ sâu xa của Thiên Chúa.
Chính
nhờ tình yêu, Chúa Kitô đã biến đổi con người hoàn toàn. Người đến để
cải hóa chúng ta. Người đưa dẫn chúng ta qua nẻo đường mầu nhiệm tới
cảnh trời mới đất mới. Ðó là cách khiến Chúa Kitô trở thành vị vua rất
phi thường. Ngày xưa, các ngôn sứ hay các nhân vật Cựu ước chỉ ảnh hưởng
bên ngoài qua các lề luật. Khác với họ, Chúa Giêsu biến đổi tận nội
tâm con người nhờ ân sủng. Chúa không nói nhiều. Nhưng Người biến chúng
ta thành tạo vật mới và trở thành con Thiên Chúa, vì đã đươc công chính
hóa. Từ đó, không những là Vua Công Chính, Người còn là Tạo Hóa. Thật
vậy, “trong Người, muôn vật được tạo thành.” (Cl 1:15)
Không
có vị vua nào có thể sánh ví với Người. Lãnh thổ của Người bao trùm vạn
vật, vì “tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người.” (Cl
1:16) Nói khác, Người là điểm quy tụ muôn loài. Dù sống giữa những đối
kháng, Người vẫn có khả năng hòa giải, vì có thể làm cho mọi loài nên
công chính. Người là Vua Hòa Bình. Thật vậy, “nhờ máu Người đổ ra trên
thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn
vật trên trời.” (Cl 1:20) Trên bàn thờ thập giá, Người đã trở thành vị
Thượng Tế và Hi tế để hòa giải, nối kết và hoàn thành mọi việc trong đất
trời (x. Cl 1:19).
CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH
Nhìn lên Thánh giá, nếu không có đức tin, sẽ không thể hiểu tại sao Vua Công Chính lại trở thành Vua Hòa Bình.
Nhưng thực sự khi chết cực kỳ đau khổ trên Thánh giá, Người đã trả lại
công lý, mạc khải tình yêu và đem lại ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Ðó là những điều kiện cho một nền hòa bình đích thực, hòa bình không do
bạo động.
Quả thế, “không thể có hòa bình, nếu không có công lý. Không có công lý nếu không tha thứ.”[3]
Nhìn vào thực tế, ÐGH Gioan Phaolô II lý luận : “Trong tình thế hiện
tại, làm sao chúng ta có thể nói về công lý và sự tha thứ như nguồn suối
và điều kiện hòa bình? Chúng ta có thể và phải nói, dù khó khăn tới
mấy. Khó khăn vì thường tưởng rằng công lý và sự tha thứ không thể dung
hợp. Nhưng tha thứ đối nghịch với sự oán hận và trả thù, chứ không với
công lý. Thực vậy, hòa bình đích thực là “công trình của công lý.” (Is
32:17) Theo Công đồng Vatican II, ‘hòa bình là kết quả việc ổn định trật
tự thiên nhiên do Ðấng Tạo Hóa đã ghi khắc vào xã hội loài người và
phải được con người luôn khát vọng nền công lý hoàn hảo hơn thể hiện ra
hành động.’ (Gaudium et Spes, 78) Bởi đó, hòa bình đích thực là kết quả
công lý. Nhưng vì công lý nhân loại mong manh và bất toàn, lệ thuộc vào
những giới hạn và tính ích kỷ của cá nhân và phe nhóm, nên nó phải được
bổ túc bằng sự tha thứ, có sức chữa lành và tái thiết tận nền tảng những
mối tương quan đang gặp trục trặc.”[4]
Vì
thế, tuần cuối cùng năm phụng vụ là cơ hội thuận tiện nhất cho chúng ta
đi tìm điểm tựa vững chắc cho công lý, hòa bình và ơn cứu độ nơi Thánh
Giá. Chính nhờ Thánh Giá, Chúa Giêsu trở thành “hòa bình của chúng ta.”
(Ep 2:14) Người đã phá vỡ bức tường thù hận ngăn cách dân chúng và hòa
giải họ với Thiên Chúa (x. Ep 2:14-16). Như vậy, Người đã hóa giải mọi
đối kháng và công chính hóa nhân loại theo đúng chương trình của Thiên
Chúa. “Lời hứa hòa bình trong suốt Cựu ước đã thực hiện trọn vẹn nơi
chính con người Chúa Giêsu. Thực vậy, hòa bình là phẩm tính tuyệt hảo
của thời Thiên Sai, gồm mọi hiệu quả tốt đẹp khác của ơn cứu độ. Trong
tiếng Do thái, nguyên nghĩa chữ ‘shalom’ là ‘sự hoàn thành. (x. Is 9:5
tt; Mk 5:1-4) Vương quốc Thiên Sai chính xác là vương quốc hòa bình (x.
G 25:2; Tv 29:11; 37:11; 72:3, 7; 85:9, 1; 119:165; 125:5; 128:6;
147:14; Dc 8:10; Is 26:3,12; 32:17 tt.; 52:7; 54:10; 57:19; 60:17;
66:12; Hg 2:9; Dc 9:10; v.v.).”[5]
Như
thế, Thánh giá đã có một chiều kích vũ trụ, bao trùm toàn thể nhân
loại. Hơn lúc nào, con người cần sống chung hòa bình. Nhưng nếu không
học nơi Thánh giá, họ không biết cách tha thứ, yêu thương và sống công
chính. Bởi thế, chỉ Thánh Giá mới dạy chúng ta bài học sâu xa về hòa
bình.
“Hòa
bình là một giá trị và một bổn phận chung của mọi người. Nền tảng của
nó thuộc lãnh vực lý trí và luân lý của xã hội, bắt nguồn từ chính Thiên
Chúa, ‘cội nguồn đầu tiên của vạn vật, chân lý cốt tử và là sự thiện
tuyệt đối.’ Hòa bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh, cũng không
chỉ là duy trì thế cân bằng lực lượng giữa những bên đối nghịch. Hơn
nữa, muốn hòa bình, phải hiểu đúng về nhân vị và cần thiết lập trật tự
dựa trên công lý và tình yêu. Hòa bình bị đe dọa khi con người không có
tất cả những gì xứng với nhân vị của họ, khi phẩm giá họ không được tôn
trọng và khi đời sống dân sự không hướng đến thiện ích chung. Muốn xây
dựng một xã hội hòa bình và phát triển toàn thể cá nhân, các dân tộc, và
các quốc gia, phải bảo vệ và cổ võ nhân quyền.”[6]
Khi
bị treo trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã cho thấy tất cả giá trị lớn lao
của hòa bình đều có nguồn gốc sâu xa nơi Thiên Chúa. Ðồng thời, chính
Chúa đã trả lại cho con người tất cả giá trị quý báu nhất là nhân phẩm.
Chính Chúa đã làm cho con người đáng được Thiên Chúa tôn trọng. Quả thế,
công lý và tình yêu đã trở lại với con người. Nhờ được công chính hóa,
con người còn lên tới một địa vị cao hơn nhân phẩm. Con người trở thành
con Thiên Chúa trong một gia đình có Chúa Giêsu “là trưởng tử,” (Cl
1:18) một Hội thánh có Chúa là đầu (x. Cl 1:18).
TÌNH YÊU BẤT BẠO ÐỘNG
Khi
Vua Công Chính lên ngôi, con người tìm lại được tất cả những gì đã mất.
Không những nhân phẩm được phục hồi, con người còn được sống và sống
dồi dào trong tình yêu và ân sủng Thiên Chúa. Ðúng như Chúa nói : “Một
khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.”
(Ga 12:32) Chúa kéo mọi người lên không phải bằng bạo lực, nhưng bằng
tình yêu tha thứ, bất bạo động và công chính hóa. Chính người trộm lành
đã làm chứng : “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc
đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” (Lc 23:41) Hành động bạo
lực đã đưa đến cái chết. Tình yêu bất bạo động đã được nêu cao như một
bài học nhân ái và công chính. “Chúa đã dạy các môn đệ bản chất bất bạo
động của tình yêu có tính thánh thiêng và sức mạnh cứu độ.”[7]
Quả thực, bản chất bất bạo động lộ rõ trong lời cuối của Chúa : "Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23:34) Việc họ
làm đầy bạo động, nhưng đã phải đầu hàng trước tình yêu bất bạo động của
Chúa. Tất cả sức mạnh cứu độ nằm ở chỗ đó.
Thiên
Chúa là một Thiên Chúa tình yêu bất bạo động. Ðạo lý Thiên sai là Con
đường tình yêu bất bạo động. Kitô hữu là một người có tình yêu bất bạo
động. Giáo hội phải là Cộng đồng mới với tình yêu bất bạo động. Ðường
hướng bất bạo động trọn vẹn của Tin Mừng kêu gọi chúng ta thay đổi cách
tư tưởng, nói năng, hành động và lối sống tình cảm nữa.
“Nhiệt
lực cần cho việc điều hành các nước trên thế giới là bạo động. Ðó là lý
do tại sao Chúa Giêsu không chấp thuận cơn cám dỗ trong sa mạc khi ma
quỷ dâng Chúa quyền thống trị các nước trên thế giới. Ðó là lý do tại
sao nhà nước không phải là đối tượng cứu độ trong Tin Mừng. Quyền lực có
khả năng biến đổi. Chúa Giêsu thi hành nhiều thứ quyền lực khác. Quyền
chữa lành, quyền tha tội, quyền yêu kẻ thù và quyền thương xót là tất cả
mọi hình thức quyền lực và tất cả đã làm thay đổi hạnh phúc con người
đời này cũng như đời sau. Thực vậy, thánh Phaolô gọi Chúa Giêsu và Thánh
giá Chúa là ‘sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa’(1 C 1:24). Tuy
nhiên, Chúa Giêsu không chú tâm tới quyền lực Satan trao tặng, vì quyền
hành đó là bạo lực giết người. Chúa Giêsu không chấp nhận trở thành vua
dân Do thái hay thủ tướng của một cơ chế chính trị.”[8]
Trong
khi đó, để bảo vệ an ninh và hạnh phúc cho một số nhỏ, nhiều nhà nước
trên thế giới đang chà đạp nhân phẩm. Mạng sống con người không còn được
tôn trọng. Các quyền căn bản nhất cũng bị tước đoạt. Người ta dùng mọi
hình thức khủng bố và bạo động để đàn áp con người. Xã hội sẽ đi về đâu
khi tràn ngập những hình thức bạo động như thế?!
Nhạc
sĩ Tuấn Khanh đau đớn nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay: “Rồi
mai đây, chúng ta sẽ làm một tấm bia tưởng niệm cho lòng nhân ái của
con người, lòng kính trọng cho nền giáo dục. Tấm bia có thể sẽ được dựng
ở quảng trường thành phố, khắc ghi với dòng chữ “ở đất nước này, nơi
đây, đã từng có một giai đoạn, con người đối xử với nhau như dã thú.
Công an đã nhét súng vào họng thường dân để tra khảo. Thầy cô đã giao
học trò mình cho những người có vũ trang đánh đập. Người cùng màu da đã
nhục hình trẻ con 10 năm. Thế hệ trẻ đã hận thù nhà trường, căm hận xã
hội và cười chê, phỉ nhổ vào nền đạo đức giáo khoa... và tất cả những
điều đó, điều đã bị lãng quên trong sự vô và cố tình của của nhiều tầng
lớp con người, kể cả quan chức có trách nhiệm.
Những
điều dị thường đó, xảy ra hàng ngày, khiến những giọt nước mắt khóc
thương cho bé trai 13 tuổi tự tử vì danh dự 47,000 đồng đã rơi ít đi,
niềm vui cho bé gái bị nhà trường tra khảo đến phát điên vì 47,800 đồng
oan, nay đã nói lại được cũng lặng lẽ hơn. Xã hội đã chai lì, con người
đã làm quen với những điều bất khả mà nay quá thường nhật: như con thú
ăn cỏ sau khi làm quen uống máu đồng loại đã biến thái vô luân.”.[9]
Ðàng
khác, dưới sức ép của quyền lực bạo động nào, các tôn giáo phải chịu
thiệt thòi về mọi mặt như hiện nay? Ðiển hình, “Hòa thượng Quảng Độ nói
trước tập thể Dân oan khiếu kiện tại Văn phòng 2 Quốc hội CS (ở Sài Gòn)
ngày 17-7-2007: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng là nạn
nhân của chế độ như đồng bào. Giáo hội chúng tôi cũng bị cướp đoạt tất
cả mọi cơ sở, từ giáo dục, từ thiện cho đến chùa viện….. Giáo hội chúng
tôi cũng đã từng khiếu kiện suốt ba mươi năm qua. Cho đến nay đã có cả
nghìn bức văn thư khiếu kiện, mà họ không hề phản hồi một văn thư nào,
không giải quyết gì cả. Họ coi dân như cỏ rác”. Riêng Công giáo, thì Nhà
nước CS vẫn tiếp tục cưỡng chiếm 102/107 ha của đan viện Thiên An, Huế,
cưỡng chiếm 17/23.5 ha của linh địa La Vang, Quảng Trị cùng hàng ngàn
cơ sở (tu viện, trường học, bệnh viện, nhà trẻ, viện mồ côi…)”[10]
Ðó
là những thiệt hại vật chất. Nhưng thiệt hại đó làm sao so sánh với
những thiệt hại về tinh thần?! Thực vậy, “Các tôn giáo vẫn không có được
báo chí, nhà xuất bản, đài phát thanh, đài truyền hình của riêng mình.”[11]
Ðường lối khủng bố và bạo lực sẽ đưa xã hội Việt Nam về đâu?
Tự
bản chất tôn giáo bất bạo động. Tôn giáo như nước. Ai có thể coi thường
sức mạnh của nước? Hãy nhìn gương Miến Ðiện, Ba lan để học lấy bài học
về sức mạnh của thế lực bất bạo động. “Nhu thắng cương. Nhược thắng
cường.” Ðông Tây Kim Cổ thời nào cũng thế thôi!
Tóm
lại, chỉ có con đường bất bạo động của Vua Công Chính mới dẫn con người
đến công lý, hòa bình và tiến bộ thực sự. Chúa là nạn nhân của bạo
động, nhưng đã vượt thắng bằng chính tình yêu bất bạo động của mình.
Lạy
Chúa, Chúa đã mạc khải bản chất tình yêu bất bạo động như một sức mạnh
cứu độ của Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết nhìn lên Thánh Giá để học
bài học tha thứ và thấy tất cả vinh quang của Vua Công Chính trong công
cuộc cứu độ nhân loại. Amen.
Đỗ lực
(Lc 23:35-43)
Viết ngày 25.11.2007
[2]
Nguyễn Văn Thuận, “Kinh Nghiệm về Quyền Lực Giải Thoát của Thiên Chúa,”
Diễn Văn tại Hội Nghị về Giáo Dục Tôn Giáo tại Los Angeles, trước khi
người qua đời năm 2002.
[3] Gioan Phaolô II, Thông Ðiệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002 http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/messages/peace/documents/hf_jp- ii_mes_20011211_xxxv-world-day-for-peace_en.html
[4] ibid.
[5] Toát Yếu Giáo Lý Giáo Hội về Xã hội, 491.
[6] ibid., 494.
[8] ibid.
[10] Phan Văn Lợi, http://tiengnoigiaodan.net/anews/0711_060.html
[11] ibid.
Tác giả:
Phúc Âm Nhật Ký, Lm. Đỗ Vân Lực, op.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire