Tình cờ một ngày cuối đông tôi ghé thăm Viện Bảo Tàng Getty ở Santa
Monica, Hoa Kỳ. Tôi có cơ hội đối mặt với một trong những bức vẽ hoa
Diên Vĩ “Irises” nguyên thủy(original) của danh hoạ Van Gogh. Bức này là bức đắt giá thứ ba của ông, so với bức “Dr. Gachet”
là một trong những bức tranh đắt giá nhất thế giới. Bức chân dung bác
sĩ Gachet là người chăm sóc ông trước khi ông qua đời được bán đấu giá
năm 1990 với giá 82.5 triệu đô
Bức “Irises” hiện nay thuộc sở hữu của Getty Museum. Đứng
trước bức tranh nguyên thủy nổi tiếng này, tôi tự hỏi không biết nó đẹp
và hay ở chỗ nào mà lại đắt giá đến vậy. Tôi hỏi người hướng dẫn, hiện
tại nó trị giá bao nhiêu? Bà ta từ chối trả lời mà bảo, nó “vô giá”.
Đó là một cách trả lời khôn ngoan nhất của Getty Museum. Từ xưa tới
nay, Getty luôn luôn dấu kín giá của những sưu tầm có được, kể cả các
báu vật quý hiếm. Nếu chúng ta tò mò muốn biết giá phỏng chừng của nó
trên thương trường, ta có thể phỏng đoán từ sự kiện nó được đem ra đấu
giá năm 1987. Cách đây 26 năm nó đã được Alan Bond, một nhà buôn tranh
mua với giá 53.9 triệu đô và sau đó Getty là một bảo tàng viện giàu nhất
trong các bảo tàng viện thế giới bí mật mua lại với 1 giá kinh khủng
nào đó không ai biết. Phải nói là, những tác phẩm nghệ thuật đối với
khách thưởng ngoạn nếu không biết và hiểu thì nó chẳng có giá trị gì,
nhưng với người yêu thích mà am tường thì nó quả vô giá. Do đó Getty
không bao giờ tiết lộ cái giá họ trả vì cho dù nếu họ mua quá đắt hay
quá rẻ, cả hai điều này đều vô nghĩa với giá trị nghệ thuật chân chính
của tác phẩm đó.
Bức “Irises” này được Van Gogh thực hiện năm 1889 trong dưỡng trí viện Saint Paul-de-Mausole ở Saint-Rémy-de-Provence, France,
một năm trước khi ông qua đời năm 1890. Nó được ông vẽ trước khi bị đột
quỵ nên người ta có thể nhận ra sự tĩnh tâm may mắn có được trong tác
phẩm cuối đời này của ông. Bức này chịu ảnh hưởng của kỹ thuật tranh in
mộc bản (Ukiyo-e woodblock prints) của Nhật Bản, cũng như trong phần lớn các tác phẩm khác của ông. (Loại tranh in bằng bảng khắc gỗ của Nhật Bản được ra đời trong khoảng thế kỷ từ 18, được lưu dụng đến thế kỷ 20, lúc đó hầu hết các hoạ sĩ trên thế giới đều chịu ảnh hưởng loại tranh này).
Từ nơi an trí của bệnh viện tâm thần ST Paul-de-Mausole, những tác
phẩm lẫy lừng ra đời như phút dương quang bừng dậy của người hoạ sĩ tài
danh. Thiên nhiên, cây cỏ, côn trùng và nhất là hoa rực sáng, và tươi nở
trong tim ông. Qua khung cửa trải đầy màu vàng chín của cánh đồng lúa
mì và sắc xanh của cây ô –liu già, bức “Diên Vĩ” với sắc lam tím
đã ra đời miêu tả trọn vẹn những cảm xúc buồn bã, cô độc, vui, buồn,
giận ghét trong một con người chịu nhiều sóng gió. Người hoạ sĩ nghèo
khó, cô đơn này đã từng tự cắt tai vì mất tình bạn với Gauguin, đặt tay
trên lửa nóng và kết thúc cuộc đời vô vọng của mình bằng một phát súng
trên cánh đồng lúa mì gần nhà thương điên.
Nếu bạn hỏi tôi, tìm thấy gì trong bức Diên Vĩ này, xin chia sẻ cùng các bạn cảm nghĩ của tôi khi đứng trước nó.
“Nó đánh mạnh vào thị giác của người xem bởi những gam màu sắc
tuyệt đẹp. Trong khoảnh khắc của một cận ảnh, bạn như đang đứng trước
một vườn hoa Diên Vĩ rực sắc xanh tím lạ kỳ, sống động, mạnh khoẻ và
bừng sáng. Người xem như bước thật sâu vào tranh và đang là một đoá xanh
lam tím trong những đoá xanh. Tôi để ý thấy được một đoá màu trắng to,
khoẻ, ở bên góc trái bức tranh, nở miệng trái tim cười. Tôi đoán đó là
hiện thân của Van Gogh, không biết bạn có nghĩ như tôi không?
Những thân lá uốn éo tạo những nét cong, gẫy, ấn tượng, thể hiện
tâm hồn yếu đuối của nghệ nhân. Những ảo giác mơ hồ trùng điệp trong
rừng hoa như vẻ vừa u buồn lại man dại của sắc xanh pha lam tía, khiến
tôi liên tưởng đến sức mạnh thiêng liêng của Mẹ Đất(Earth Mother) giờ
đang bị tổn thương. Nó hệt như tâm hồn cô đơn, quằn quại của Van Gogh
khi đã tìm được khoảnh khắc an bình thanh thản khi sáng tác bức Diên Vĩ
này. Qua đó, bạn có thể trực diện cảm nhận được niềm tin thần thánh của
hoạ sĩ về thiên nhiên và nghệ thuật. “
Mỗi một bức về Diên Vĩ, ông vẽ mỗi khác. Ông cẩn thận nghiên cứu hình
dáng và chuyển động của chúng kể các bóng rọi, bóng nghiêng, nét uốn
lượn, quằn quại, rợn sóng. Ông để ý quan sát và tạo hình chúng như chính
ông là hoa Diên Vĩ vậy. Đến nỗi Octave Mirbeau, một nhà phê bình nghệ
thuật người Pháp, chủ nhân đầu tiên của bức “Irises” phải thốt lên rằng“Bằng cách nào mà Van Gogh thấu hiểu sự thanh tú tự nhiên của hoa cỏ tinh tế đến vậy”
Trong khi bức “Vase of Irises”(Bình hoa Diên Vĩ) ông
thực hiện một năm sau(1890) thì khác. Bức này hiện thuộc về bộ sưu tập
của viện bảo tàng Metropolitan Museum of Art ở New York.
Ông không dùng lối vẽ đắp nặng nề và sắp xếp màu đen làm viền nữa.
Bằng những nét cọ nhỏ đặc thù quen thuộc, người hoạ sĩ xứ Hà Lan lần này
đã phối màu nhẹ, mát mắt và ít dữ dội hơn. Ông xử dụng màu lam tía,
xanh lá cây, xanh nước biển đối chọi lại ánh sáng của nền và màu trắng
của chiếc độc bình với những điểm vàng trong bó hoa như màu tương phản.
Màu xanh của chiếc bàn lập lại màu xanh thân lá của những cành Diên Vĩ,
tạo dáng chủ đạo trong nghệ thuật xắp xếp của bình hoa và phả lên nét
nhìn thanh nhã thẳng đứng.
Tôi tìm thấy gì trong bức Diên Vĩ này?
Cũng như lần trước tôi tìm ra Van Gogh như ẩn hiện trong một đóa hoa
bên góc phải bạn ạ. Để ý kỹ, bạn sẽ thấy bên góc phải một đóa hoa với ba
cánh đang tàn úa với màu sắc khác lạ. Nhất là cái cánh hướng về phía
dưới trông giống khuôn mặt người với cái miệng là một đốm màu vàng. Cánh
hoa tàn ấy mang tâm trạng u uất, hoang mang và hỗn loạn của một người
đang quyết định cho mình một chọn lựa dứa khoát, một chia ly.
Bức tĩnh vật “Bình Hoa Diên Vĩ dựa trên nền vàng”(Vase with Irises Against a Yellow Background). Bức thứ ba này hiện thuộc sở hữu của Van Gogh Museum tại Amsterdam, The Netherlands, Europe. Nó được thực hiện năm 1890 có lẽ là Bức Diên Vĩ cuối của đời ông.
Ông đã phân tích bức hoạ của mình cho người em là Theo hiểu khi viết thư cho Theo vào tháng 5, ngày 11 và 12:
“Bó hoa tím được đặt trên nền vàng chanh sáng cùng sắc vàng tương
phản của chiếc độc bình, mang lại ấn tượng lớp màu này chồng lên lớp
kia. Tuy nhiên sự tương phản khiến mỗi màu sắc nổi bật nét riêng của
mình.”
Dựa vào bức hoạ này, Dale Larner với một suy luận dựa trên một vài
chứng cớ nào đó đã đưa ra kết luận rằng VanGogh chính là Jack The Ripper
một kẻ sát nhân. Dale tuyên bố sau 3 năm nghiên cứu ông đã tìm ra
VanGogh, một bệnh nhân tâm thần với bề ngoài nhút nhát nhưng chính là kẻ
sát nhân hàng loạt có tính toán. Năm 2004, sau khi đọc những lá thư của
VanGogh, Dale bắt đầu nghi ngờ và so sánh khuôn mặt của Mary Kelly, một
nạn nhân của Jack The Ripper bị giết ở LonDon, với bức hoạ nói trên.
Dale cho rằng khi nhìn những bông hoa Diên Vĩ trong bức hoạ được VanGogh
tạo hình, mỗi bông là một mảnh thân thể của Mary. Đây là website mà
Dale Larner trình bày giả thuyết của mình. (http://vincentaliasjack.com/VanGogh_Ripper_Irises.html).
Nhiều người đã vào tìm đọc và phê bình, có người tin, có người cho suy
luận mơ hồ không căn cứ, Larner tưởng tượng quá mức. Hoặc giả đây chỉ là
một scandal không gây được một tiếng vang nào đáng kể.
Phút gặp gỡ đầu tiên giữa tôi và bức “Hoa Diên Vĩ” số 1, giống như
phút giây tôi biết đến Van Gogh lần đầu. Sau phút tao phùng sơ ngộ ấy,
tôi tìm hiểu thêm về người và tranh, mới bật ngửa ra rằng, chưa bao giờ
nghệ thuật, con người và số phận lại quấn lấy nhau riết róng, bền chặt
và bi thảm dường ấy như trường hợp của Van Gogh. Thiên nhiên, cuộc đời,
tay vẽ, đam mê và những xúc cảm trong con người ông hoà quyện với nhau
làm một. Trong suốt 10 năm ông làm hội hoạ, hơn 500 tác phẩm khác nhau
ra đời. Mỗi bức tranh, mỗi trang đời, trong mỗi giai đoạn, là mỗi một
câu chuyện trong cuốn hồi ký dài 500 trang tự thuật. Ông đã để lại cho
thế giới một kho tàng, một bộ sưu tập mỹ thuật sáng tạo vô giá gồm những
cái đẹp của một vũ trụ hỗn mang, chao đảo.
Tôi xin dùng một lời phát biểu của Hoạ Sĩ Nguyễn Thuyên về VanGoh để thay lời kết:
“Mỗi họa sĩ, sau khi thừa hưởng di sản quá khứ sẽ đẩy được hội họa
tới trước được bao xa? Dù chỉ là một chút xíu? Lúc trẻ tôi không chiêm
nghiệm được cái lớn của Gauguin và Van Gogh. Mỗi họa sĩ đều phải đi con
đường khổ ải của chính mình và giải được những câu hỏi của con Sphinx
trong nghệ thuật. Sau khi cố gắng làm tranh có vẻ như có 3 chiều,
Gauguin và Van Gogh hiểu rằng việc chấp nhận hai chiều sẽ làm tranh có
tính tạo hình(plastic) nhất, hiểu tại sao họ thích tranh Nhật. Những
mảng phẳng dẹt , và bút pháp của hai ông là điều chưa từng thấy, nó giải
phóng tay vẽ, theo tôi Van Gogh chỉ vẽ có một lớp dầy, và hoàn tất, nó
đòi hỏi sự điêu luyện biết chừng nào. Và màu sắc, có ai thấy một palette
như bức này trong lịch sử hội họa Tây phương trước đó? Và màu của
Gauguin nữa, chúng là những bữa tiệc trần gian mà người say mê hội họa
không bao giờ biết chán.”
Trịnh Thanh Thủy
TB chuyển