mardi 25 mars 2014

Căn Hầm Bí Mật



25 Tháng Ba
Căn Hầm Bí Mật
 
Một người hà tiện, bủn xỉn kia có thói quen giữ tất cả vàng bạc và những vật quý giá trong một chiếc hầm bí mật tự tay ông ta lén lút xây cất dưới nền nhà.
Một ngày kia, như thường lệ, ông ta lẻn xuống hầm để ngắm những vật quý, nâng niu những thỏi vàng và những dây chuyền, những cà rá nạm kim cương, hột xoàn to bằng những hạt đậu. Rủi thay, vì vô ý gài cửa không kỹ, nên bộ phận bí mật vụt bật lên đóng sầm chiếc cửa cực kì kiên cố lại, chắn lối ra duy nhất.
Dĩ nhiên không ai trong nhà biết về chiếc hầm bí mật. Vì thế, mọi người đã bỏ cuộc sau khi lục lạo tìm kiếm ông ta mọi nơi trong nhà cũng như mọi gốc cây, bụi kiểng ngoài vườn.
Sau một thời gian dài chờ đợi nhưng không nghe thấy tăm hơi của ông ta ở đâu, người ta quyết định bán căn nhà. Người chủ nhà mới có ý định sửa chữa lại một vài căn phòng của ngôi nhà và trong khi các người thợ nề đập một bức tường, người ta khám phá ra cánh cửa bí mật ăn thông xuống chiếc hầm. Khi những ngọn nến được thắp lên, người ta không khỏi sợ hãi thấy bộ xương của một người đang đang ngồi bên cạnh một chiếc bàn con với một số vàng bạc, kim cương bị quăng tung tóe xung quanh. Có dấu hiệu cho thấy là thậm chí người chết đã phải ăn một cây nến trước khi bị chết đói.
"Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion, khốn cho các ngươi là những người tự cho mình là an toàn trên núi Samaria".
Lời chúc dữ những người giàu có bất nhân và kiêu căng trên của tiên tri Amos cũng như những lời Chúa Giêsu chúc dữ những kẻ giàu trong Tin Mừng không phải là những lời lên án tiền bạc và của cải cách chung. Nhưng đây là những lời nêu lên sự nguy hiểm của quan niệm kiêu hãnh, của tính tự cao, tự đại và nhất là thái độ và nếp sống ích kỷ, dửng dưng không để ý đến những người nghèo khổ đang sống bên cạnh. Đây là thái độ và nếp sống thường thấy nơi những người giàu có.
Mahatma Gandhi, người đã đưa dân tộc Ấn Độ đến nền độc lập khỏi ách thống trị của Anh quốc đã tuyên bố một tư tưởng cách mạng có thể đổi mới xã hội: "Trong hoàn cảnh đói khổ của những người đồng bào, đồng chủng, nếu ta giữ một vật gì mà ta không cần dùng đến ngay bây giờ thì đó là những của chúng ta ăn cắp".
Sống trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn hiện nay, tinh thần liên đới và sự sẵn sàng chia sẻ cơm ăn áo mặc cho những người cần đến là những ngọn đuốc sáng, là những đức tính giúp người Kitô chúng ta đóng trọn vai trò men trong bột ở giữa xã hội chúng ta đang sống.

Chén cơm trong ngày

NHỮNG TƯỞNG ...

1. Lúc bé, tưởng khóc là buồn, bây giờ phát hiện buồn nhất là không thể khóc được, cứ trống rỗng, tỉnh táo và vô hồn
 
2. Lúc bé, tưởng cười là vui, bây giờ nghĩ lại, có những giọt nước mắt còn vui hơn cả một trận cười.
 
3. Lúc bé, tưởng đông bạn là hay, bây giờ mới biết vẫn chỉ có mình mình
 
4. Lúc bé, tưởng cô đơn ở đâu xa lắm, chỉ đến ở những chỗ không người, đến giờ mới hiểu, lúc bên nhau, sự ấm áp mới thật mong manh, mà nỗi cô đơn sao lại gần gũi thế.
 
 
5. Lúc bé, tưởng yêu là tất cả, là mọi thứ, lớn rồi mới biết sau yêu còn có chia tay.
 
6. Lúc bé, tưởng thành người lớn là lớn, bây giờ đã thấy có nhiều người đã lớn mà vẫn chưa thành người lớn, và đến khi thật sự thành người lớn thì người ta sẽ biết không bao giờ bé trở lại được.
 
7. Lúc bé, tưởng đóng đinh thì đóng đinh, không thích thì là có thể nhổ, bây giờ cảm nhận được đinh có thể nhổ nhưng vết sâu vẫn còn.
 
8. Lúc bé, tưởng mình có thể thay đổi cá thế giới, giờ thấy được ngay cả 1 người còn chẳng có khả năng thay đổi. Có chăng, vẫn chỉ là tự thay đổi mình.
 

9. Lúc còn bé, tưởng yêu một người thì dễ, quên một người mới khó. Giờ thấy mình quên đi nhiều người cũng dễ dàng, nhưng để yêu, mới khó làm sao.
 
10. Lúc bé, thích định nghĩa về tình yêu, tình yêu là X, là Y, là A,B,C,D; bây giờ lớn lại cuống cuồng, vì hoang mang, không biết tình yêu thật sự là gì cả
 
11. Lúc bé, vẫn nghĩ rằng tình yêu là mãi mãi, tình yêu là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời. Giờ thì biết yêu đến đó, rồi đi đó, như mưa bóng mây, hay dù có như chớp bể mưa nguồn thì cũng vậy, có đó rồi mất đó. Và thật sự cũng chẳng biết thứ gì là quan trọng nhất
 
12. Lúc bé tưởng chỉ có kẹo là ngọt, giờ lớn lên còn biết có những thứ còn ngọt ngào hơn cả kẹo.
 
13. Lúc bé rất sợ phải chết, nhưng bây giờ khi tôi lớn lên mới biết sự lãng quên còn đáng sợ hơn cái chết rất nhiều.
 
 
14. Lúc bé tưởng tượng rất nhiếu, và giờ đây khi lớn lên mới nhận ra chuyện cổ tích không bao giờ có thật.
 
15. Lúc bé mẹ nói yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại, giờ lớn lên chợt nhận ra, có những yêu thương chỉ chomà không nhận.
 
16. Lúc bé mong mình lớn, giờ đây lớn rồi sao mong mình bé lại quá chừng
 
17. Lúc bé tưởng rằng yêu một người là sống vì người đó,giờ mới biết yêu một người là fải biết tự yêu lấy mình
 
18. Lúc bé tưởng sự sống và cái chết ở cách xa nhau lắm,giờ mới biết nó chỉ cách nhau một lằn chỉ mong manh
 
 
19. Lúc bé tưởng nói dối là xấu ,giờ mới biết lời nói dối đôi khi cũng giúp ích rất nhiều
 
20. Lúc bé tưởng rằng trung thực là điều tốt,giờ mới biết sống trung thực với mình thôi cũng là điều khó biết bao
 
21. Lúc bé tưởng rằng những gì đến rồi sẽ đi,giờ mới biết niềm vui đến thi qua mau,còn nỗi buồn đến thì cứ ở bên ta mãi
 
22. Lúc bé cứ tưởng rằng sau tình yêu sẽ là hôn nhân,giờ mới biết có những cuộc hôn nhân không cần tình yêu
 
 
23. Lúc bé tưởng rằng tiền bạc -tình yêu và sức khỏe là quan trọng, giờ mới biết rằng sức khỏe-tiền bạc và tình yêu mới là quan trọng
 
24. Lúc bé tưởng hạnh phúc là điều gì đó xa xôi lắm,giờ mới biết hạnh phúc chỉ đơn giản là những thứ bình dị xung quanh ta,có chăng là mình đã không nhận thấy
 
25. Lúc bé tưởng nói quên là có thể quên được,giờ mới biết có những chuyện càng muốn quên thì nó lại càng ở mãi trong lòng
 
26. Lúc bé cứ mơ ước lớn lên sẽ trở thành người này người kia,giờ mới biết được trở thành chính mình mới là hạnh phúc nhất!
 
Anh Thư sưu tầm

lundi 24 mars 2014

CON ĐƯỜNG MANG TÊN JOHN VIETNAM NGUYEN.


CHICAGO :
Thứ tư, ngày 19/03/2014, bầu trời thật là lạnh , màu xám, ảm đạm và ẩm ướt . Lúc 3 giờ chiều khoảng một trăm người đã tụ tập ở góc đường Winthrop và Winona . Họ tới đó để tôn vinh cuộc đời của một thanh niên trẻ, một người đã qua đời quá sớm.
Góc đường giữa Winona và Argyle , là một con đường được dành riêng cho ...John Việt Nam Nguyễn . Nguyễn được sinh ra và lớn lên trong khu vực nầy. Anh là một nhà thơ , một nghệ sĩ hip hop tại địa phương.
Theo lời của Henry Justin Smith, John Việt Nam Nguyễn là " một người bạn trẻ, hiện đã đến một nơi nào đó ... ".
John Việt Nam sống và chơi trên các đường phố gritty của Uptown . Anh đã khẳng khái, từ chối gia nhập các băng nhóm , ma túy, bạo lực rất thịnh hành trong khu vực nầy.
John Việt Nam sống với nghệ thuật của mình. Anh thường góp mặt trong các tổ chức nghệ thuật của cộng đồng tại Uptown . John là một sinh viên giỏi và cũng là vận động viên với một tương lai tươi sáng phía trước.
John Việt Nam là sinh viên xuất sắc tại Đại học Wisconsin , Madison, được học bổng cao toàn trường. Anh đã bị chết đuối sau khi cứu một phụ nữ trẻ bị té xuống hồ Mendota , gần trường học.
Sau khi anh cố bơi trong dòng nước lạnh băng của mùa đông giá buốt, đẩy được cô bé nạn nhân lên được bờ thì John không còn đủ sức bơi, thân mình anh đã chìm xuống đáy hồ rồi không bao giờ trở lại nữa.
Hãy dành một phút mặc niệm cho một anh hùng, một người Việt Nam ... John Việt Nam Nguyễn.
John Vietnam Memorial Mural x Heaven
http://www.youtube.com/embed/ngYhkh4n5pk
  TB chuyển
.

Vững Niềm Tin



24 Tháng Ba
Vững Niềm Tin
Vào năm 1856 các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị tại đồi Palatino tại thành phố Roma. Khi đào bới những lớp đất bao phủ một trại lính Roma cổ, trên vách một bức tường, họ tìm thấy một cây thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao khắc vụng về vào tường. Bên cạnh là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính cây thập giá. Trên cây thập giá có vẽ hình một người, nhưng đầu người ấy là hình một con lừa. Dưới hai hình vẽ, người ta thấy có viết hàng chữ: Alexamenos thờ lạy Chúa của hắn.


Các nhà khảo cổ cho rằng: Có thể bức tranh đã được thực hiện vào những năm 123 đến năm 126. Nếu sự phỏng đoán về niên hiệu này là đúng thì đây có lẽ là hình vẽ thập giá cổ nhất, nhưng lại là hình thập giá bị nhạo báng, chê cười: Nếu Thiên Chúa lại chết trên thập giá thì đây là hành động yếu hèn, khờ dại như hành động của một con lừa và cả những người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng thế.
Vào năm 1870, các nhà khảo cổ lại tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của một chàng thanh niên mang niềm tin Kitô tên là Alexamenos. Ở một cột trụ bằng đá dựng hình thần Mars tức là vị thần chiến tranh, người ta khám phá thấy được khắc vào đó dòng chữ: "Alexamenos vẫn vững tin".
Vâng, hình ảnh Thiên Chúa chết treo trên thập giá là một hình ảnh khủng khiếp, yếu đuối, dại khờ. Nhưng Thánh Phaolô đã biện hộ cho hành động có thể gọi được là điên rồ của Thiên Chúa như sau:
"Tiếng nói của thập giá đối với những kẻ hư hỏng là điên dại, còn đối với các người được cứu rỗi, tức là chúng ta, thì là sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, người Do Thái đòi hỏi phép lạ, người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Còn chúng tôi thì giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Người Do Thái cho điều đó là xấu xa, còn các người ngoại giáo thì cho là dại dột. Song với tất cả được Thiên Chúa tuyển chọn thì Chúa Kitô chịu đóng đinh là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa".
Chén cơm trong ngày

samedi 22 mars 2014

ĐTC Phanxicô dạy chúng ta sống đơn giản

ĐHY Solorzano: ĐTC Phanxicô dạy chúng ta sống đơn giản


VRNs (21.3.2014) – Sài Gòn – Một “trải nghiệm tuyệt vời và cảm động,” đây là cách mà Đức tân HY Leopoldo Brenes Solorzano mô tả buổi gặp gỡ của ngài với Hồng Y Đoàn.
Vị giám chức Nicaragua cho biết, ngài cảm thấy một chút bồn chồn khi nghĩ đến phía trước, nhưng Ngài nhìn đến ĐTC Phanxicô để được hướng dẫn.
ĐHY. Leopoldo Brenes Solorzano, TGM địa phận Managua (Nicaragua) đã chia sẻ, “Thật sự, sau khi được thông báo về quyết định của ĐTC, tôi đã rất lo lắng bởi vì tôi không biết cuộc sống của mình khi là một Hồng y sẽ diễn ra như thế nào. Tuy nhiên, ĐTC cho chúng ta thấy phải sống thế nào, cách chúng ta thực hiện công việc: với sự đơn giản, và với tinh thần của người chủ chăn. Ngài luôn nói, chúng ta phải ở phía trước, ở giữa và sau đàn chiên của mình, và sống một cách đơn giản”.
Đức Hồng Y Solorzano. Ảnh gettyimages
Đức Hồng Y Solorzano. Ảnh gettyimages
HY Brenes Solorzano đã tham gia hội nghị GM năm 2007 ở Aparecida. Ngài nói, thời điểm đặc biệt đó là một điểm thay đổi mang lại nhiều cách tiếp cận truyền giáo hơn cho GH ở Châu Mỹ La Tinh.
ĐHY. Leopoldo Brenes Solorzano nói tiếp: “Tôi cảm nhận vào lúc đó, vì lý do nào đó, chúng tôi đã an phận. Nhưng đó là tại sao tôi nói rằng năm 2007 Chúa Thánh Thần đã làm mới GH ở Châu Mỹ La Tinh. Tôi nghĩ rằng, Chúa Thánh Thần mang ĐTC Phanxicô cho chúng ta, vì Ngài, khi còn là ĐHY Jorge Mario, đã phụ trách điều phối việc soạn thảo văn bản [Aparecida], và tôi nghĩ rằng Ngài sẽ dùng kinh nghiệm đó cho toàn thế giới.”
Vị giám chức này là ĐHY thứ hai trong lịch sử của Nicaragua. ĐHY đầu tiên và là vị tiền nhiệm là Miguel Obando y Bravo. Tân HY Solorzano cho biết thêm, Ngài rất hứng thú khi được gặp Đức Benedict XVI. Ngài cũng nhắc lại khoảnh khắc ấm áp tại buổi lễ.
ĐHY. Leopoldo Brenes Solorzano, TGM địa phận Managua (Nicaragua) nói:
“Một giai thoại đẹp là khi Ngài đưa dây pallium cho tôi. Tôi nói với Ngài: ‘Thưa ĐTC, con xin Cha cầu nguyện cho con, vì con sẽ kế vị ĐHY Obando,’ người đã làm tổng giám mục Managua trong 35 năm. Tôi nói tiếp: ‘rất khó để thay thế một tổng giám mục đã 35 năm, và cũng là một hồng y.’ Ngay sau đó ĐTC [Phanxicô] đặt tay lên vai tôi và Đức Biển Đức nói: ‘Đừng lo lắng, bởi vì điều tương tự cũng đang xảy ra với Cha.’”
Gia đình của đức tân hồng y Nicaragua đã gặp rắc rối với các chuyến bay và gần như đã bỏ lỡ buổi lễ. Nhưng cuối cùng, tất cả họ đều có thể tham gia cùng với đoàn các ĐHY Trung Mỹ trong buổi lễ quan trọng này.
PV.VRNs

Vì sao những người lương thiện lại thường xuyên cảm thấy khổ?




MỜI ĐỌC VÀ SUY TƯ
 Tôi đã tìm một người thầy thông thái và đạo hạnh xin chỉ bảo:
-Vì sao những người lương thiện như con lại thường xuyên cảm thấy khổ, mà những người ác lại vẫn sống tốt vậy?
 
Thầy hiền hòa nhìn tôi trả lời:
-
Nếu một người trong lòng cảm thấy khổ, điều đó nói lên rằng trong tâm người này có tồn tại một điều ác tương ứng. Nếu một người trong nội tâm không có điều ác nào, như vậy, người này sẽ không có cảm giác thống khổ. Vì thế, căn cứ theo đạo lý này, con thường cảm thấy khổ, nghĩa là nội tâm của con có tồn tại điều ác, con không phải là một người lương thiện thật sự. Mà những người con cho rằng là người ác, lại chưa hẳn là người thật sự ác. Một người có thể vui vẻ mà sống, ít nhất nói rõ người này không phải là người ác thật sự.
Có cảm giác như bị xúc phạm, tôi không phục, liền nói:
-Con sao có thể là người ác được? Gần đây, tâm con rất lương thiện mà!
Thầy trả lời:
-Nội tâm không ác thì không cảm thấy khổ, con đã cảm thấy khổ, nghĩa là trong tâm con đang tồn tại điều ác. Con hãy nói về nỗi khổ của con, ta sẽ nói cho con biết, điều ác nào đang tồn tại trong con.
Tôi nói:
-Nỗi khổ của con thì rất nhiều! Có khi cảm thấy tiền lương thu nhập rất thấp, nhà ở cũng không đủ rộng, thường xuyên có “cảm giác thua thiệt” bởi vậy trong tâm con thường cảm thấy không thoải mái, cũng hy vọng mau chóng có thể cải biến tình trạng này; trong xã hội, không ít người căn bản không có văn hóa gì, lại có thể lưng quấn bạc triệu, con không phục; một trí thức văn hóa như con, mỗi tháng lại chỉ có một chút thu nhập, thật sự là không công bằng; người thân nhiều lúc không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái…
Cứ như vậy, lần lượt tôi kể hết với thầy những nỗi thống khổ của mình.
Thầy gật đầu, mỉm cười, một nụ cười rất nhân từ đôn hậu, người từ tốn nói với tôi:
- Thu nhập hiện tại của con đã đủ nuôi sống chính con và gia đình. Con còn có cả phòng ốc để ở, căn bản là đã không phải lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, chỉ là diện tích hơi nhỏ một chút, con hoàn toàn có thể không phải chịu những khổ tâm ấy.
-Nhưng, bởi vì nội tâm con có lòng tham đối với tiền tài và của cải, cho nên mới cảm thấy khổ. Loại lòng tham này là ác tâm, nếu con có thể vứt bỏ ác tâm ấy, con sẽ không vì những điều đó mà cảm thấy khổ nữa.
- Trong xã hội có nhiều người thiếu văn hóa nhưng lại phát tài, rồi con lại cảm thấy không phục, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị cũng là một loại ác tâm. Con tự cho mình là có văn hóa, nên cần phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngạo mạn. Tâm ngạo mạn cũng là ác tâm. Cho rằng có văn hóa thì phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngu si; bởi vì văn hóa không phải là căn nguyên của sự giàu có, kiếp trước làm việc thiện mới là nguyên nhân cho sự giàu có của kiếp này. Tâm ngu si cũng là ác tâm!
- Người thân không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái, đây là không rộng lượng. Dẫu là người thân của con, nhưng họ vẫn có tư tưởng và quan điểm của riêng mình, tại sao lại cưỡng cầu tư tưởng và quan điểm của họ bắt phải giống như con? Không rộng lượng sẽ dẫn đến hẹp hòi. Tâm hẹp hòi cũng là ác tâm.
Sư phụ tiếp tục mỉm cười:
- Lòng tham, tâm đố kỵ, ngạo mạn, ngu si, hẹp hòi, đều là những ác tâm. Bởi vì nội tâm của con chứa đựng những ác tâm ấy, nên những thống khổ mới tồn tại trong con. Nếu con có thể loại trừ những ác tâm đó, những thống khổ kia sẽ tan thành mây khói.”
- Con đem niềm vui và thỏa mãn của mình đặt lên tiền thu nhập và của cải, con hãy nghĩ lại xem, căn bản con sẽ không chết đói và chết cóng; những người giàu có kia, thật ra cũng chỉ là không chết đói và chết cóng. Con đã nhận ra chưa, con có hạnh phúc hay không, không dựa trên sự giàu có bên ngoài, mà dựa trên thái độ sống của con mới là quyết định. Nắm chắc từng giây phút của cuộc đời, sống với thái độ lạc quan, hòa ái, cần cù để thay thế lòng tham, tính đố kỵ và ích kỷ; nội tâm của con sẽ dần chuyển hóa, dần thay đổi để thanh thản và bình an hơn.
-Trong xã hội, nhiều người không có văn hóa nhưng lại giàu có, con hãy nên vì họ mà vui vẻ, nên cầu chúc họ càng giàu có hơn, càng có nhiều niềm vui hơn mới đúng. Người khác đạt được, phải vui như người đó chính là con; người khác mất đi, đừng cười trên nỗi đau của họ. Người như vậy mới được coi là người lương thiện! Còn con, giờ thấy người khác giàu con lại thiếu vui, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị chính là một loại tâm rất không tốt, phải kiên quyết tiêu trừ!”
- Con cho rằng, con có chỗ hơn người, tự cho là giỏi. Đây chính là tâm ngạo mạn. Có câu nói rằng: “Ngạo mạn cao sơn, bất sinh đức thủy” (nghĩa là: ngọn núi cao mà ngạo mạn, sẽ không tạo nên loại nước tốt) người khi đã sinh lòng ngạo mạn, thì đối với thiếu sót của bản thân sẽ như có mắt mà không tròng, vì vậy, không thể nhìn thấy bản thân có bao nhiêu ác tâm, sao có thể thay đổi để tốt hơn. Cho nên, người ngạo mạn sẽ tự mình đóng cửa chặn đứng sự tiến bộ của mình. Ngoài ra, người ngạo mạn sẽ thường cảm thấy mất mát, dần dần sẽ chuyển thành tự ti. Một người chỉ có thể nuôi dưỡng lòng khiêm tốn, luôn bảo trì tâm thái hòa ái từ bi, nội tâm mới có thể cảm thấy tròn đầy và an vui.
-Kiếp trước làm việc thiện mới chính là nguyên nhân cho sự giàu có ở kiếp này, (trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu). Mà người thường không hiểu được nhân quả, trồng dưa lại muốn được đậu, trồng đậu lại muốn được dưa, đây là thể hiện của sự ngu muội. Chỉ có người chăm học Phật Pháp, mới có được trí huệ chân chính, mới thật sự hiểu được nhân quả, quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, nội tâm mới có thể minh tỏ thấu triệt. Để từ đó, biết làm thế nào lựa chọn tư tưởng, hành vi và lời nói của mình cho phù hợp. Người như vậy, mới có thể theo ánh sáng hướng đến ánh sáng, từ yên vui hướng đến yên vui.”
-Bầu trời có thể bao dung hết thảy, nên rộng lớn vô biên, ung dung tự tại; mặt đất có thể chịu đựng hết thảy, nên tràn đầy sự sống, vạn vật đâm chồi! Một người sống trong Thế giới này, không nên tùy tiện xem thường hành vi và lời nói của người khác. Dẫu là người thân, cũng không nên mang tâm cưỡng cầu, cần phải tùy duyên tự tại! Vĩnh viễn dùng tâm lương thiện giúp đỡ người khác, nhưng không nên cưỡng cầu điều gì.
-Nếu tâm một người có thể rộng lớn như bầu trời mà bao dung vạn vật, người đó sao có thể khổ đây?
Vị thầy khả kính nói xong những điều này, tiếp tục nhìn tôi với ánh mắt đầy nhân từ và bao dung độ lượng.
Ngồi im lặng hồi lâu…xưa nay tôi vẫn cho mình là một người rất lương thiện, mãi đến lúc này, phải! chỉ đến lúc này, tôi mới biết được trong tôi còn có một con người rất xấu xa, rất độc ác! Bởi vì nội tâm của tôi chứa những điều ác, nên tôi mới cảm thấy nhiều đau khổ đến thế. Nếu nội tâm của tôi không ác, sao tôi có thể khổ chứ?
Xin cảm tạ thầy, nếu không được người khai thị dạy bảo, con vĩnh viễn sẽ không biết có một người xấu xa như vậy đang tồn tại trong con!
Phạm Anh chuyển

vendredi 21 mars 2014

Xuân trong tuyết lạnh (KĐ)



Xuân trong tuyết lạnh

Sướng ngôn viên đài Radio-Canada thông báo  mùa Xuân vừa mới đến 20-03, nghe thì phấn khởi lắm nhưng nắng ấm, hoa Xuân đâu chẳng thấy, nhìn ra ngoài trời tuyết vẫn âm thầm nhè nhẹ rơi, 2 hàng cây tuyết dọc theo bên đường tuyệt đẹp, trong sân tuyết chất cao cả thước, dọn tuyết cũng mệt nghỉ.

 20-03-2014
16-03


Thời tiết mấy năm nay lạ thường khó mà đoán trước được, cách đây 2 năm cũng vào ngày 21-03 giỗ bố KĐ, khí hậu lúc bấy giờ rất ấm , KĐ đã ghi lại ít hàng:

Trời Xuân Canada năm nay thật ấm áp, nhiệt độ phá kỷ lục, trên 24 độ so với mọi năm chỉ khoảng 10 độ, TUL vừa gởi hình hoa đào Hoa Thịnh Đốn (HTĐ) nở rộ khiến cho mình thấy phấn khởi; dạo quanh vườn nhà crocus vàng cũng đang ra hoa nhưng trời nóng như thế này sẽ chóng tàn, tulip, thủy tiên, magnolia, cũng đang vươn mình, với những chồi non đầy nhựa sống sau mùa đông ẩn mình trong tuyết trắng..."




Nhìn phong cảnh ngày Xuân tôi chợt thoáng buồn, cách đây 3 năm vào ngày đầu Xuân 21-03-2009, bố tôi cũng đã rời các con và người thân về cõi vĩnh hằng, cuối tuần vừa qua trong bữa cơm thân mật với các con cháu , chúng tôi đã có những giây phút hướng lòng để tưởng nhớ đến bố và tin rằng sẽ có ngày các con cháu sẽ được gặp lại nơi miền vĩnh cửu.
 
KĐ 21-03-2012*

Xuân tuy còn trong tuyết lạnh nhưng nghĩ đến viễn ảnh sắp được đi Bắc Âu và đến tháng 7 được họp mặt đại gia đình và sẽ gặp lại nhiều bạn bè mà thấy hồ hởi dù cho mùa đông năm nay khá dài, cũng đã tháng 3 mà từ gần tuần nay sáng nào ở Sherbrooke cũng khoảng -20C, bị “phong hàn chưởng” tấn công đến nay cũng còn chưa lại sức, càng "có tuổi" nên càng dễ thông cảm với những bạn bè “Snow bird” người Québecois hay rời Canada vào cuối tháng 11 để sang Florida hưởng gió biển, và trở lại nhà vào đầu tháng 4 lúc sang Xuân ấm áp hơn.

Như các bạn đã biết, thường thì đầu tháng 4 hoa Anh Đào ở HTĐ nở rộ, du khách đến thăm Thủ Đô thật đông đảo, ấy thế mà năm nay HTĐ cũng vẫn còn tuyết, cũng may là cô bạn PHà đã đổi ý định Mỹ du một chuyến vào tháng 4 để xem hoa Anh Đào nào ngờ khí hậu đổi thay, Canada và miền đông nước Mỹ chỉ đón Xuân trong tuyết lạnh. PHà đổi ý để đi Cali vào tháng 7 là hay,  sẽ có dịp để gặp nhiều bạn bè, mong gặp lại PH và các bạn lắm đó, đi chơi lúc còn khỏe, chưa "chân mòn  gối mỏi "thì thấy thú vị hơn và cũng không dễ gì tụ họp được đông bạn bè như DHTV được.



Mấy hôm trước được xem hình hoa Anh Đào ở Bắc Cali do BMai chụp đẹp quá, tiếp đó thì MNga gửi Hoa Hạnh Nhân bên Đức đang nở rộ, Âu Châu năm nay mùa Xuân được ấm áp hơn. KĐ và TUL  nhìn phát thèm nên cũng ráng chụp vài hình ảnh đón Xuân trong giá tuyết  tại Bắc Mỹ. Đúng là khí hậu toàn cầu nhiều đổi thay, ảnh hưởng đến sinh hoạt của mọi người, nhiều trận lụt lội và  bão tuyết đã xảy ra thường xuyên trong mấy tháng vừa qua, mong mọi người ý thức được tầm quan trọng của các  khí nhà kính và chính  phủ các nước cố gắng tìm các giải pháp hữu hiệu để có cách bảo vệ môi trường sống nhiều hơn nữa.
Dù tuyết giá hay nắng ấm, đang nhủ lòng an vui với thực tại, nhưng không khỏi mơ mùa Xuân chóng đến và chúc các bạn bên Cali và Âu Châu 'enjoy' cảnh Xuân,  với hoa tươi và khí hậu dễ chịu mát mẻ, các bạn bên Úc một mùa Thu thơ mộng và bên VN cuối Xuân được khí hậu tốt bớt nóng nực.

(Trong lúc hướng về Bố đã xa các con thấm thoát đã 5 năm và mong Xuân đến thật sự.)


KIM ĐOAN
Sherbrooke CANADA 21-03-2014

*Nhớ Bố

jeudi 20 mars 2014

Bí ẩn quanh các bức Hoa Diên Vĩ (Irises) lẫy lừng của Van Gogh


  7.03.2014

Tình cờ một ngày cuối đông tôi ghé thăm Viện Bảo Tàng Getty ở Santa Monica, Hoa Kỳ. Tôi có cơ hội đối mặt với một trong những bức vẽ hoa Diên Vĩ “Irises” nguyên thủy(original) của danh hoạ Van Gogh. Bức này là bức đắt giá thứ ba của ông, so với bức “Dr. Gachet” là một trong những bức tranh đắt giá nhất thế giới. Bức chân dung bác sĩ Gachet là người chăm sóc ông trước khi ông qua đời được bán đấu giá năm 1990 với giá 82.5 triệu đô
Bức “Irises” hiện nay thuộc sở hữu của Getty Museum. Đứng trước bức tranh nguyên thủy nổi tiếng này, tôi tự hỏi không biết nó đẹp và hay ở chỗ nào mà lại đắt giá đến vậy. Tôi hỏi người hướng dẫn, hiện tại nó trị giá bao nhiêu? Bà ta từ chối trả lời mà bảo, nó “vô giá”. Đó là một cách trả lời khôn ngoan nhất của Getty Museum. Từ xưa tới nay, Getty luôn luôn dấu kín giá của những sưu tầm có được, kể cả các báu vật quý hiếm. Nếu chúng ta tò mò muốn biết giá phỏng chừng của nó trên thương trường, ta có thể phỏng đoán từ sự kiện nó được đem ra đấu giá năm 1987. Cách đây 26 năm nó đã được Alan Bond, một nhà buôn tranh mua với giá 53.9 triệu đô và sau đó Getty là một bảo tàng viện giàu nhất trong các bảo tàng viện thế giới bí mật mua lại với 1 giá kinh khủng nào đó không ai biết. Phải nói là, những tác phẩm nghệ thuật đối với khách thưởng ngoạn nếu không biết và hiểu thì nó chẳng có giá trị gì, nhưng với người yêu thích mà am tường thì nó quả vô giá. Do đó Getty không bao giờ tiết lộ cái giá họ trả vì cho dù nếu họ mua quá đắt hay quá rẻ, cả hai điều này đều vô nghĩa với giá trị nghệ thuật chân chính của tác phẩm đó.

Iris-01

Bức “Irises” này được Van Gogh thực hiện năm 1889 trong dưỡng trí viện Saint Paul-de-Mausole ở Saint-Rémy-de-Provence, France, một năm trước khi ông qua đời năm 1890. Nó được ông vẽ trước khi bị đột quỵ nên người ta có thể nhận ra sự tĩnh tâm may mắn có được trong tác phẩm cuối đời này của ông. Bức này chịu ảnh hưởng của kỹ thuật tranh in mộc bản (Ukiyo-e woodblock prints) của Nhật Bản, cũng như trong phần lớn các tác phẩm khác của ông. (Loại tranh in bằng bảng khắc gỗ của Nhật Bản được ra đời trong khoảng thế kỷ từ 18, được lưu dụng đến thế kỷ 20, lúc đó hầu hết các hoạ sĩ trên thế giới đều chịu ảnh hưởng loại tranh này).
Từ nơi an trí của bệnh viện tâm thần ST Paul-de-Mausole, những tác phẩm lẫy lừng ra đời như phút dương quang bừng dậy của người hoạ sĩ tài danh. Thiên nhiên, cây cỏ, côn trùng và nhất là hoa rực sáng, và tươi nở trong tim ông. Qua khung cửa trải đầy màu vàng chín của cánh đồng lúa mì và sắc xanh của cây ô –liu già, bức “Diên Vĩ” với sắc lam tím đã ra đời miêu tả trọn vẹn những cảm xúc buồn bã, cô độc, vui, buồn, giận ghét trong một con người chịu nhiều sóng gió. Người hoạ sĩ nghèo khó, cô đơn này đã từng tự cắt tai vì mất tình bạn với Gauguin, đặt tay trên lửa nóng và kết thúc cuộc đời vô vọng của mình bằng một phát súng trên cánh đồng lúa mì gần nhà thương điên.
Nếu bạn hỏi tôi, tìm thấy gì trong bức Diên Vĩ này, xin chia sẻ cùng các bạn cảm nghĩ của tôi khi đứng trước nó.
Nó đánh mạnh vào thị giác của người xem bởi những gam màu sắc tuyệt đẹp. Trong khoảnh khắc của một cận ảnh, bạn như đang đứng trước một vườn hoa Diên Vĩ rực sắc xanh tím lạ kỳ, sống động, mạnh khoẻ và bừng sáng. Người xem như bước thật sâu vào tranh và đang là một đoá xanh lam tím trong những đoá xanh. Tôi để ý thấy được một đoá màu trắng to, khoẻ, ở bên góc trái bức tranh, nở miệng trái tim cười. Tôi đoán đó là hiện thân của Van Gogh, không biết bạn có nghĩ như tôi không?
Những thân lá uốn éo tạo những nét cong, gẫy, ấn tượng, thể hiện tâm hồn yếu đuối của nghệ nhân. Những ảo giác mơ hồ trùng điệp trong rừng hoa như vẻ vừa u buồn lại man dại của sắc xanh pha lam tía, khiến tôi liên tưởng đến sức mạnh thiêng liêng của Mẹ Đất(Earth Mother) giờ đang bị tổn thương. Nó hệt như tâm hồn cô đơn, quằn quại của Van Gogh khi đã tìm được khoảnh khắc an bình thanh thản khi sáng tác bức Diên Vĩ này. Qua đó, bạn có thể trực diện cảm nhận được niềm tin thần thánh của hoạ sĩ về thiên nhiên và nghệ thuật.
Mỗi một bức về Diên Vĩ, ông vẽ mỗi khác. Ông cẩn thận nghiên cứu hình dáng và chuyển động của chúng kể các bóng rọi, bóng nghiêng, nét uốn lượn, quằn quại, rợn sóng. Ông để ý quan sát và tạo hình chúng như chính ông là hoa Diên Vĩ vậy. Đến nỗi Octave Mirbeau, một nhà phê bình nghệ thuật người Pháp, chủ nhân đầu tiên của bức “Irises” phải thốt lên rằng“Bằng cách nào mà Van Gogh thấu hiểu sự thanh tú tự nhiên của hoa cỏ tinh tế đến vậy
Trong khi bức “Vase of Irises”(Bình hoa Diên Vĩ) ông thực hiện một năm sau(1890) thì khác. Bức này hiện thuộc về bộ sưu tập của viện bảo tàng Metropolitan Museum of Art ở New York.

Iris-02

Ông không dùng lối vẽ đắp nặng nề và sắp xếp màu đen làm viền nữa. Bằng những nét cọ nhỏ đặc thù quen thuộc, người hoạ sĩ xứ Hà Lan lần này đã phối màu nhẹ, mát mắt và ít dữ dội hơn. Ông xử dụng màu lam tía, xanh lá cây, xanh nước biển đối chọi lại ánh sáng của nền và màu trắng của chiếc độc bình với những điểm vàng trong bó hoa như màu tương phản. Màu xanh của chiếc bàn lập lại màu xanh thân lá của những cành Diên Vĩ, tạo dáng chủ đạo trong nghệ thuật xắp xếp của bình hoa và phả lên nét nhìn thanh nhã thẳng đứng.
Tôi tìm thấy gì trong bức Diên Vĩ này?
Cũng như lần trước tôi tìm ra Van Gogh như ẩn hiện trong một đóa hoa bên góc phải bạn ạ. Để ý kỹ, bạn sẽ thấy bên góc phải một đóa hoa với ba cánh đang tàn úa với màu sắc khác lạ. Nhất là cái cánh hướng về phía dưới trông giống khuôn mặt người với cái miệng là một đốm màu vàng. Cánh hoa tàn ấy mang tâm trạng u uất, hoang mang và hỗn loạn của một người đang quyết định cho mình một chọn lựa dứa khoát, một chia ly.
Bức tĩnh vật “Bình Hoa Diên Vĩ dựa trên nền vàng”(Vase with Irises Against a Yellow Background). Bức thứ ba này hiện thuộc sở hữu của Van Gogh Museum tại Amsterdam, The Netherlands, Europe. Nó được thực hiện năm 1890 có lẽ là Bức Diên Vĩ cuối của đời ông.

Iris-03

Ông đã phân tích bức hoạ của mình cho người em là Theo hiểu khi viết thư cho Theo vào tháng 5, ngày 11 và 12:
Bó hoa tím được đặt trên nền vàng chanh sáng cùng sắc vàng tương phản của chiếc độc bình, mang lại ấn tượng lớp màu này chồng lên lớp kia. Tuy nhiên sự tương phản khiến mỗi màu sắc nổi bật nét riêng của mình.”
Dựa vào bức hoạ này, Dale Larner với một suy luận dựa trên một vài chứng cớ nào đó đã đưa ra kết luận rằng VanGogh chính là Jack The Ripper một kẻ sát nhân. Dale tuyên bố sau 3 năm nghiên cứu ông đã tìm ra VanGogh, một bệnh nhân tâm thần với bề ngoài nhút nhát nhưng chính là kẻ sát nhân hàng loạt có tính toán. Năm 2004, sau khi đọc những lá thư của VanGogh, Dale bắt đầu nghi ngờ và so sánh khuôn mặt của Mary Kelly, một nạn nhân của Jack The Ripper bị giết ở LonDon, với bức hoạ nói trên. Dale cho rằng khi nhìn những bông hoa Diên Vĩ trong bức hoạ được VanGogh tạo hình, mỗi bông là một mảnh thân thể của Mary. Đây là website mà Dale Larner trình bày giả thuyết của mình. (http://vincentaliasjack.com/VanGogh_Ripper_Irises.html). Nhiều người đã vào tìm đọc và phê bình, có người tin, có người cho suy luận mơ hồ không căn cứ, Larner tưởng tượng quá mức. Hoặc giả đây chỉ là một scandal không gây được một tiếng vang nào đáng kể.
Phút gặp gỡ đầu tiên giữa tôi và bức “Hoa Diên Vĩ” số 1, giống như phút giây tôi biết đến Van Gogh lần đầu. Sau phút tao phùng sơ ngộ ấy, tôi tìm hiểu thêm về người và tranh, mới bật ngửa ra rằng, chưa bao giờ nghệ thuật, con người và số phận lại quấn lấy nhau riết róng, bền chặt và bi thảm dường ấy như trường hợp của Van Gogh. Thiên nhiên, cuộc đời, tay vẽ, đam mê và những xúc cảm trong con người ông hoà quyện với nhau làm một. Trong suốt 10 năm ông làm hội hoạ, hơn 500 tác phẩm khác nhau ra đời. Mỗi bức tranh, mỗi trang đời, trong mỗi giai đoạn, là mỗi một câu chuyện trong cuốn hồi ký dài 500 trang tự thuật. Ông đã để lại cho thế giới một kho tàng, một bộ sưu tập mỹ thuật sáng tạo vô giá gồm những cái đẹp của một vũ trụ hỗn mang, chao đảo.
Tôi xin dùng một lời phát biểu của Hoạ Sĩ Nguyễn Thuyên về VanGoh để thay lời kết:
Mỗi họa sĩ, sau khi thừa hưởng di sản quá khứ sẽ đẩy được hội họa tới trước được bao xa? Dù chỉ là một chút xíu? Lúc trẻ tôi không chiêm nghiệm được cái lớn của Gauguin và Van Gogh. Mỗi họa sĩ đều phải đi con đường khổ ải của chính mình và giải được những câu hỏi của con Sphinx trong nghệ thuật. Sau khi cố gắng làm tranh có vẻ như có 3 chiều, Gauguin và Van Gogh hiểu rằng việc chấp nhận hai chiều sẽ làm tranh có tính tạo hình(plastic) nhất, hiểu tại sao họ thích tranh Nhật. Những mảng phẳng dẹt , và bút pháp của hai ông là điều chưa từng thấy, nó giải phóng tay vẽ, theo tôi Van Gogh chỉ vẽ có một lớp dầy, và hoàn tất, nó đòi hỏi sự điêu luyện biết chừng nào. Và màu sắc, có ai thấy một palette như bức này trong lịch sử hội họa Tây phương trước đó? Và màu của Gauguin nữa, chúng là những bữa tiệc trần gian mà người say mê hội họa không bao giờ biết chán.”
Trịnh Thanh Thủy
TB chuyển