mardi 10 décembre 2019

Nhà thờ Kinh Lạy Cha- Église du Pater Noster (Jérusalem 10-2019)

 Nhà thờ này tọa lạc trên nơi được cho là khi xưa Chúa Giêsu đã dạy Kinh Lạy Cha.
 (Phúc âm Luca 11:2-4).


 khách hành hương đông đảo



Kinh lạy cha của nhiều nước (140)  trên các tường 

 Église Pater Noster 






   









 Hang động trong đó Chúa đã dạy các tông đồ ở trên Núi Olives
Hang này nằm một phần bên dưới hành lang vòm cuốn

 Công chúa Bossi Aurelia (1809-1889) bà đã thành lập một tu viện nữ dòng Cát Minh năm 1872, gọi là "dòng Cát Minh kinh Lạy Cha" (Carmel du Pater)














Mộ  công chúa Bossi Aurelia (1809-1889)  di hài của bà đã được chuyển tới đây an táng ngày 22.12.1957[18], trong một lăng đá cẩm thạch trắng do Napoléon III cho làm.


Nhà thờ Kinh Lạy Cha

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướngBước tới tìm kiếm
Nhà thờ Kinh Lạy Cha

Cầu thang giữa ở bên ngoài
Thông tin cơ bản
Vị tríJerusalem
Tôn giáoGiáo hội Công giáo
Nhà thờ Kinh Lạy Cha là một nhà thờ Công giáo ở trên núi Olives, phía đông Jerusalem. Nhà thờ này tọa lạc trên nơi được cho là khi xưa Chúa Giêsu đã dạy Kinh Lạy Cha. (Phúc âm Luca 11:2-4). Ngày nay, khu đất có nhà thờ này thuộc quyền sở hữu của nước Pháp.

Mục lục

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà thờ hiện đại được xây dựng trên nơi có một vương cung thánh đường cũ từ thế kỷ thứ 4, do Constantinus Đại đế xây dựng, theo yêu cầu của hoàng thái hậu Helena, và được gọi là "Nhà thờ các Tông đồ"[1]. Nhà thờ này được người hành hương xứ Burdigala[2] đề cập tới trong tập Itinerarium Burdigalense (hành trình của người Burdigala) khoảng năm 333, và sử gia Eusebius[3] kể lại là Constantine Đại đế đã xây dựng một nhà thờ trên một hang động ở Núi Olives có liên quan với việc Chúa lên trời[4]. Người hành hương Egeria[5] trong tập "Peregrinatio Silviae" vào cuối thế kỷ thứ 4 cũng đề cập tới nhà thờ này, gọi là "Nhà thờ Eleona", nghĩa là nhà thờ vườn olives[6].
Quyển Acts of John[7] từ thế kỷ thứ 2 đề cập đến sự tồn tại của một hang động trên núi Olives [8] liên quan tới các việc giảng dạy của Chúa Giêsu, nhưng không nói rõ về việc Chúa Giêsu dạy Kinh Lạy Cha ở đây.
Nhà thờ còn nguyên vẹn cho đến khi bị quân Ba Tư phá hủy trong năm 614[9] trong giai đoạn cuối cùng của các cuộc chiến tranh giữa đế quốc Byzantine với đế quốc Sassanid.
Quân Thập tự chinh đã xây một nhà nguyện nhỏ trên tàn tích của nhà thờ cũ trong năm 1106, rồi sau đó xây lại một nhà thờ mới khác vào năm 1152[10], nhờ vào quỹ hiến tặng của Svend Svendsson, Giám mục giáo phận ViborgĐan Mạch và người anh/em của ông là Svendsson Eskill, đô đốc hải quân của Jylland[11], và họ đã được mai táng trong nhà thờ này[12] (mộ của họ đã được cải táng sang nhà thờ mới vào năm 1869).
Nhà thờ thời Thập tự chinh này bị hư hỏng nặng trong "Cuộc vây hãm Jerusalem"[13], năm 1187, cuối cùng bị bỏ bê và rơi vào tình trạng đổ nát năm 1345. Năm 1851 những viên đá còn lại của nhà thờ thế kỷ thứ 4 đã được bán để làm mộ bia trong thung lũng Jehoshaphat.
Tháng 11 năm 1856 công chúa Bossi Aurelia (1809-1889) của Nhà De la Tour d'Auvergne đã sang Đất Thánh trong vòng 10 năm và đã mua lại khu đất rộng 6 hec-ta trên núi Olives, trong đó có nơi này [14]. Năm 1868 bà cho xây một hành lang có vòm cuốn bao chung quanh một sân lộ thiên theo kiểu Campo Santo ở PisaÝ, rồi bắt đầu cuộc tìm kiếm cái hang động mà các người hành hương thời xưa đã nói tới, với sự giúp đỡ của Charles Simon Clermont-Ganneau, tổng lãnh sự Pháp ở Jérusalem[15], và họ đã phát hiện một tranh khảm từ thế kỷ thứ 5 trên có các câu thánh vịnh 118:20 và 121.8 bằng tiếng Hy Lạp. Người ta cũng tìm thấy một văn bia của Caesarius von Heisterbach (khoảng 1180 -1240)[16].
Với sự trợ giúp của linh mục Alphonse Ratisbonne (1814-1884), bà đã thành lập một tu viện nữ dòng Cát Minh năm 1872, gọi là "dòng Cát Minh kinh Lạy Cha" (Carmel du Pater)[17]. Năm 1874, bà chia đôi khu đất này cho "Hội truyền giáo châu Phi" (Pères blancs) và các nữ tu dòng Cát Minh, đồng thời tặng tu viện cho nước Pháp. Bà qua đời năm 1889 ở Firenze, nhưng theo nguyện vọng của bà, di hài của bà đã được chuyển tới đây an táng ngày 22.12.1957[18], trong một lăng đá cẩm thạch trắng do Napoléon III cho làm.
Năm 1910, người ta đã phát hiện một hang động cũ đã bị sụp đổ một phần khi khai quật[19]. Hang này cũng cắt một phần vào một ngôi mộ từ thế kỷ thứ nhất[20] nằm ở phía đông của nhà thờ. Phía trên vách cửa hang có khắc hàng chữ latin: "Spelunga in qua docebat Dominus apostolos in Monte Oliveti" nghĩa là Hang động trong đó Chúa đã dạy các tông đồ ở trên Núi Olives. Hang này nằm một phần bên dưới hành lang vòm cuốn, nên tu viện đã được di chuyển sang nơi gần đó và năm 1920 người ta bắt đầu xây dựng lại một nhà thờ theo kiểu kiến trúc Byzantine, đến năm 1927 thì ngưng vì thiếu vốn. Nhà thờ này vẫn chưa hoàn tất, phần mái còn dở dang.
Hiện nay trên vách tường của nhà thờ cũng như vách hành lang vòm cuốn có gắn các tấm biển Kinh Lạy Cha bằng 140 ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Việt.
Tập tin:Pater Noster.ogv
Video Pater Noster

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo và Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ blog Radio Notre Dame
  2. ^ nay là thành phố Bordeaux của Pháp, đã hành hương tới Đất Thánh năm 333-334
  3. ^ 260/265 – 339/340 cũng gọi là Eusebius thành Caesarea hoặc Eusebius Pamphili là giám mục Caesarea
  4. ^ The Land and the Book.
  5. ^ Egeria hoặc Aetheria (thường gọi là Sylvia), một phụ nữ vùng Gallaeci cổ - nay là Tây Ban Nha, miền bắc Bồ Đào Nha và miền tây công quốc Asturias cổ, đã hành hương tới Đất Thánh năm 383-384
  6. ^ "elaion" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "vườn olive", phái sinh từ chữ "elaia " nghĩa là "cây ô liu", và thường có nghĩa tương tự với eleos nghĩa là "lòng thương xót"
  7. ^ Công vụ của Gioan, một tác phẩm kinh thánh không được Giáo hội Công giáo công nhận, gọi là ngụy kinh
  8. ^ Actes de Jean (extrait). Écrits apocryphes chrétiens, La Pléiade, 1997, p. 1005-1008 97.... je m'enfuis sur le mont des Oliviers, en pleurant à cause de ce qui était arrivé. Lorsqu'il fut suspendu le vendredi à la sixième heure, il y eut des ténèbres sur toute la terre; et mon Seigneur se tint au milieu de la grotte...
  9. ^ The Churches of the Crusader Kingdom of Jerusalem: The city of Jerusalem Denys Pringle
  10. ^ The Churches of the Crusader Kingdom of Jerusalem: The city of Jerusalem Denys Pringle
  11. ^ Svend Svendsson, Bishop in Viborg
  12. ^ Family of Ulf "Galicienfari" Svend (-Jerusalem 30 Mar [1153], bur Jerusalem, Pater Noster Church, Mount of Olives). Bishop of Viborg [1132]
  13. ^ quân Ba Tư dưới sự lãnh đạo của Saladin vây hãm Jerusalem từ ngày 20.9 tới 2.10.1187 thì Jerusalem phải đầu hàng
  14. ^ Le Carmel en Terre Sainte: des origines à nos jours, Silvano Giordano, Girolamo Salvatico, 1995
  15. ^ Clermont-Ganneau, Charles
  16. ^ Who was a Christian in the Holy Land? His epitaph was discovered in the ruins of the Church of the Eleona on the Mount of Olives (see Revue Eleona, 1975, octobre, p. 8)
  17. ^ Les Carmélites de Terre Sainte La fondation des monastères des Carmélites en Terre Sainte date de la fin du Bản mẫu:S-
  18. ^ List of Christians in the Holy Land
  19. ^ A princess built the church Excavations by archaeologists in 1911 found the cave exactly where she (Princess de la Tour d’Auvergne) had predicted it to be. It was partly collapsed when it was discovered.
  20. ^ Church of the Pater Noster The cave itself cuts partially into a 1st century tomb and was somewhat collapsed when rediscovered in the early 1900s.
  • Jerome Murphy-O'Connor, Oxford Archaeological Guides: The Holy Land (Oxford, 1998), 125-26.
  • Kay Prag, Blue Guide to Israel and the Palestinian Territories (Black and Norton, 2002), 230-31.
  • Daniel Jacobs, Mini Rough Guide to Jerusalem (Rough Guides, 1999), 105-06.

Église du Pater Noster

Sauter à la navigationSauter à la recherche
Église du Pater Noster
Image illustrative de l’article Église du Pater Noster
Vue extérieure de l'église.
Présentation
Cultecatholique
RattachementOrdre du Carmel
Début de la construction(première) ive siècle
Autres campagnes de travauxxixe siècle
Géographie
PaysDrapeau de la France France
RégionDomaine national français en Terre sainte
VilleJérusalem-Est
Coordonnées31° 46′ 41″ nord, 35° 14′ 43″ est
L’église du Pater Noster est un édifice religieux catholique sis sur le mont de l'Ascension, à Jérusalem-Est, en Terre sainte. Elle est aussi appelée Éléona (du grec elaiōn « oliveraie »). Cette église est construite sur le site où, d'après la tradition, Jésus enseigna à ses disciples le Notre Père (Luc 11:1-4) (en latin Pater Noster). Cette tradition est confirmée par les Actes de Jean à Romeécrits apocryphes du iiie siècle1, et plus tard par Arculfe2 au viie siècle3. Église et carmel jouissent de l'extraterritorialité[réf. nécessaire] et relèvent de l'autorité de l'État français.
Le site est mentionné par Égérie vers 384 lors de son pèlerinage4, dans le Burdigalensis5 et par Eusèbe de Césarée.

Construction initiale[modifier | modifier le code]


Intérieur du couloir en 1867.
Sur le site a d'abord été construite au ive siècle une église liée à l'Ascension du Christ6 par Constantin sous la direction de sa mère Hélène qui lui donna comme nom Église des Disciples7Égérie nous donne dans le Peregrinatio Silviæ des indications sur le rite de l'Église de Jérusalem de l'époque en expliquant que l'archidiacre invitait d'abord les fidèles à rentrer dans l'Éléona, d'où une procession partait vers le mont des Oliviers. Après cela, on descendait à nouveau dans l'église, où les vêpres étaient chantées8 et où étaient lus Mt:24 et Mt:259.
Adossé au mont des Oliviers, le bâtiment était construit sur trois niveaux reliés par des escaliers :
  • L'église, au plus haut niveau, sur un rectangle de 30 x 18,6 mètres carrés, formée d'une allée flanquée de deux rangées de colonnes. L'abside était à l'est face au soleil levant. Un baptistère se trouve à sa porte sud ;
  • Atrium : une avant-cour à colonnades de 25 mètres de longueur, avec au centre une citerne voûtée sur piliers qui recueille l'égout des toits10 ;
  • Le plus bas niveau côté ouest : un portique sur six colonnes.
Un couvent, un monastère et une chapelle appelée l'Apostolium furent ajoutés vers 430 par Mélanie la Jeune, chapelle où elle fut inhumée avec sa mère. Au cours du vie siècle, la crypte et l'église étaient désignées sous le nom de Matzi ou Matheteion. Treize évêques et patriarches de Jérusalem y auraient été inhumés, dont Cyrille de Jérusalem11 et Modeste de Jérusalem.

La Grotte dite « du Pater »[modifier | modifier le code]

Son emplacement avait été complètement oublié, et elle ne fut redécouverte qu'en 191112. L'excavation qui s'enfonce dans une tombe du ier siècle13 se trouve sous le côté est de l'église. Sur le fronton de l'entrée est gravée l'inscription latine : Spelunga in qua docebat Dominus apostolos in Monte Oliveti14 qui signifie « Grotte dans laquelle le Seigneur a enseigné à ses apôtres sur le mont des Oliviers ».
Il ne reste de l'édifice originel que quelques éléments architecturaux. Des travaux de reconnaissance non destructifs y ont été entamés en 200815.
Elle est encore appelée crypte du Credo16 ou grotte du Credo17,18.

Destructions[modifier | modifier le code]

Selon Eutychius, elle fut incendiée par les Perses dirigés par Schahr-Barâz en 61419, faisant environ un millier de victimes sur le mont des Oliviers, d'après Stratègios. Plus tard en 638, elle fut rasée par les Arabes musulmans d'Omar ibn al-Khattâb20. À la fin du viie siècle, Adomnan d'Iona dans De Locis sanctis l'évoque comme étant toujours debout ou reconstruite.
Sous Charlemagne qui, ayant obtenu en 80721 de Hâroun ar-Rachîd la protection des lieux saints pour entre autres y fonder des établissements religieux22, des bénédictins la relevèrent de ses ruines23. Un recensement des monastères de Terre sainte fait en 808 — le Commemoratorium de Casis Dei — nous apprend qu'elle était desservie par trois moines et un prêtre.
Elle semble avoir été détruite à nouveau en 1009 par Al-Hakim bi-Amr Allah24. Les croisés ayant reconquis la ville après le siège de Jérusalem en 1099, ils construisirent un petit oratoire au milieu des ruines entre 110225 et 110626. Le croisé Bartolf de Nangis semble la décrire dans sa chronique Gesta Francorum Iherusalem expugnantium, et son état de ruine est confirmé par Sæwulf.
Une église est totalement reconstruite en 115227 grâce à Svend Svendsson, évêque de Viborg28, et à son frère Sveinsson Eskill, amiral du Jutland, qui furent enterrés dans l'église en 115329 (leurs tombes furent redécouvertes en 1869 et ils furent réinhumés dans la nouvelle église).
Cette église, décrite en 1172 par un pèlerin allemand, Théodoric, aurait été fortement endommagée pendant le siège de Jérusalem en 1187 par Saladin30, au point d'être abandonnée. Odoric de Pordenone mentionne encore une église en 1330 et Ludolph de Sudheim (Ludolph Schilder) parle d'une chapelle en 133631. Selon le pèlerin franciscain Nicolás de Poggibonsi, elle tombe en ruines en 1345, pendant la domination mamelouk.

« Vue du complexe de la basilique Eleona ou église Pater Noster sur le Mont des Oliviers, Jérusalem », 1587.
En 1851, sous l'empire ottoman, on en exploita les ruines pour les vendre comme pierres tombales32.

Fondation du Carmel[modifier | modifier le code]

Émue par un sermon sur la désolation des lieux saints donné par le Père Poyet, patriarche latin de Jérusalem, la princesse Héloïse de la Tour d'Auvergne, fille de Joseph Aurèle de Bossi, partit pour Jérusalem en novembre 1856, et en dix ans, réussit à acquérir six hectares de terrain au mont des Oliviers33.

Travaux[modifier | modifier le code]

Elle y fit bâtir en 1868 un cloître, sur le modèle du Campo Santo de Pise, dont les plans sont attribués à Eugène Viollet-le-Duc, puis se livra à deux années de fouilles, aidée de Charles Simon Clermont-Ganneau, qui était depuis 1867 drogman-chancelier du consulat français de Jérusalem34, qui permirent notamment de dégager une mosaïque du ve siècle où étaient inscrits en grec les psaumes 121:8 et 118:20. On y a aussi retrouvé l'épitaphe de Césaire de Heisterbach35.
Héloïse de la Tour d'Auvergne fit par la suite, don du site à la France36.
Avec l'aide du Père Alphonse Ratisbonne, elle y fonda un couvent de carmélites contemplatives en 1872, le Carmel du Pater37, et en 1874, divisa le terrain entre les Pères blancs et les sœurs carmélites, et offrit le monastère à la France, qui l'intègre au sein de son domaine national. Des plaques reproduisant le texte du Pater Noster en cent-cinquante langues sont apposées sur les murs du cloître38,39.

Plaque apposée dans le mausolée.
En 1910, les fondations au-dessus de la grotte qui s'effondra partiellement lors des fouilles, ont été retrouvées en partie sous le cloître. Le couvent a été déplacé à proximité et à la reconstruction de l'église byzantine a commencé en 1920, pour s'interrompre en 1927, sans avoir achevé le toit, par manque de fonds.

Tombeau d'Aurélie de Bossi, en l'église Pater Noster dite « Eleona » sur le Mont des Oliviers à Jérusalem.

Mausolée[modifier | modifier le code]

Décédée à Florence en 1889, la princesse fut le 22 décembre 1957, conformément à ses dernières volontés, enterrée dans le cloître40, dans un mausolée de marbre blanc, surmonté de son effigie, que Napoléon III fit exécuter. Une urne, déposée dans une niche au-dessus du mausolée, renferme le cœur du père de la princesse, Joseph Aurèle de Bossi.

Situation[modifier | modifier le code]

L'église est adjacente à l'Apostoleion qui est un des lieux de station de la liturgie de Jérusalem41 ainsi que de l'Imbomon.

Cloître du Pater.

Notes et références[modifier | modifier le code]

  1.  Actes de Jean (extrait). Écrits apocryphes chrétiens, La Pléiade, 1997, p. 1005-1008 [archive], 97 : « je m'enfuis sur le mont des Oliviers, en pleurant à cause de ce qui était arrivé. Lorsqu'il fut suspendu le vendredi à la sixième heure, il y eut des ténèbres sur toute la terre ; et mon Seigneur se tint au milieu de la grotte… »
  2.  Science catholique, revue des questions sacrées et profanes, 15 août 1894 [archive]. Arculfus, de locis, ap. Itinera et descriptiones Terrae Sanctæ, p. 160.
  3.  Martine Daire, Impressions et souvenirs. Terre Sainte, 1908 [archive] : « Arnulphe, au viie siècle, rattache à ce sanctuaire le souvenir des repas du Maître avec ses disciples, et voit dans la grotte quatre tables de pierre, où Jésus et ses apôtres s'asseyaient en convives ».
  4.  Giordano Silvano, Girolamo Salvatico, Le Carmel en Terre sainte : des origines à nos jours [archive].
  5.  Science Catholique, revue des questions sacrées et profanes, 15 août 1894 [archive] Ilin. Burdig. Tobler et Molinier, I, 18 : « Ibi facta est jussu Constantini Basilica mire pulchritudinis. » Pseudo-Eucher, de locis sanctis parle des deux églises célèbres du mont des Oliviers, l'une où le Christ enseignait ses disciples, l'autre où il quitta la terre.
  6.  L’église du Pater Noster [archive] Elle fut construite à l'origine pour rappeler l'évènement de l'Ascension du Christ, fondamental pour les premiers chrétiens.
  7.  blog Radio Notre-Dame [archive].
  8.  A Study of the Roman Breviary [archive] « …the archdeacon invited the people to assemble in the 'Eleona', from whence a procession was made to the summit of the Mount of Olives. Here, psalms and antiphons were sung, the Gospel was read and the blessing given. After this, the people descended again into the 'Eleona', where Vespers were sung… »
  9.  Textes et rites de la Liturgie pascale dans l'ancienne Église copte [archive].
  10.  Melchior de Vogüé (1829-1916), Jérusalem, hier et aujourd'hui. Notes de voyage, 1912, page 47 [archive] : « Au centre de l'atrium de la basilique d'Éléona se trouve une belle citerne voûtée sur piliers, à la romaine, qui recueillait l'égout des toits et fournissait d'eau la fontaine des ablutions rituelles. Au flanc méridional de la basilique est accolé un baptistère avec bassin central, pavé en mosaïque. »
  11.  Éléona, ou l’église du Pater [archive]. Également, c’est dans cette église que les évêques de Jérusalem étaient ensevelis, depuis 350 environ, dont le célèbre Cyrille de Jérusalem, mort en 386.
  12.  A princess built the church [archive] Excavations by archaeologists in 1911 found the cave exactly where she (Princess de la Tour d’Auvergne) had predicted it to be. It was partly collapsed when it was discovered.
  13.  Church of the Pater Noster [archive] The cave itself cuts partially into a 1st century tomb and was somewhat collapsed when rediscovered in the early 1900s.
  14.  Le fronton sur le site TravelPod [archive].
  15.  Reconnaissances des structures en béton armé de la chapelle et de la grotte du Pater. Domaine de L’ELEONA (Mont des Oliviers, Jérusalem). [archive] Le LERM a réalisé une étude exploratoire sur site visant à reconnaître les structures anciennes en béton surplombant la chapelle et la grotte du Pater, par auscultation par radar géophysique : Cette méthode d’investigation non destructive a permis de localiser très précisément l’étendue et l’épaisseur d’une dalle en béton armé, dans un contexte archéologique dense où toutes autres formes de reconnaissances étaient proscrites.
  16.  Père Barnabé Meistermann, missionnaire apostolique, Nouveau guide de Terre sainte, Paris, Alphonse Picard et Fils, éditeurs, 1907 [archive] : « En traversant la grande cour située à droite du cloitre, on rencontre à gauche, près de la porte de sortie, une ancienne citerne transformée depuis peu en oratoire sous le nom de crypte du Credo ».
  17.  Revue de l'Orient Chrétien, recueil trimestriel, cinquième année, Paris, Librairie A. Picard et Fils, 1900 [archive] : « Quant à l'histoire de la grotte du Credo, seul vestige apparent de la basilique constantinienne de l'Ascension, je renvoie à la savante et lumineuse dissertation du P. Léon Cré, des Missions africaines » (La crypte du Credo au mont des Oliviers dans La Terre sainte, 1897, p. 105, 209, 226, 241 et 257).
  18.  Le Palais de Caïphe et le nouveau jardin Saint-Pierre des Pères Assomptionnistes du Mont Sion, par le P. Urbain Coppens, A. Picard et fils (Paris)-1904 [archive] : « Dans une propriété des Pères Blancs, sur la même montagne, se trouve une petite piscine oblongue, une espèce de citerne, où, d'après Quaresmius, s'éleva jadis une chapelle dédiée à l'évangéliste saint Marc. Or, le R. P. Cré prétend que cette citerne est le saint Cénacle habituel du Christ, la grotte où il instruisit ses apôtres et prédit la fin du monde, la retraite où il passa généralement la nuit avec ses disciples, la crypte de la basilique Éléona, le lieu où les apôtres composèrent le Credo, d'où elle porte aujourd'hui le titre de Crypte du Credo » (La Crypte du Credo. Comment on vient de trouver le grand sanctuaire chrétien construit au mont des Oliviers au ive siècle, ap. Œuvres d'Orient, Paris, 1897).
  19.  Denys Pringle, The Churches of the Crusader Kingdom of Jerusalem: The city of Jerusalem [archive].
  20.  L'entrée triomphale à Jérusalem [archive].
  21.  Les Hospitaliers de Saint-Jean-de-Jérusalem [archive] Au début, le chef musulman de Jérusalem tolérait les fondations chrétiennes et les pèlerins, reconnaissant officiellement, en 807, le nouvel empereur d'Occident, Charlemagne, en sa qualité de protecteur des chrétiens.
  22.  André Vauchez, Richard Barrie Dobson, Michael Lapidge, Encyclopedia of the Middle Ages, Volume 1 [archive] : « Charlemagne obtained from Hâroun ar-Rachîd … a right of protection over the Latin establishments of Palestine … Several establishments were founded at this time - an abbey at the mount of Olives ».
  23.  Élisabeth de Boutiny, Souvenirs d'un voyage en Palestine, 2 mai-12 juin 1903 [archive] : « Chosroès la rasa impitoyablement, mais, sous Charlemagne, des bénédictins la relevèrent de ses ruines que les croisés eurent plus tard à réparer de nouveau ».
  24.  Carmel of The Pater [archive].
  25.  Maurice Halbwachs, La topographie légendaire des Évangiles en Terre sainte, 1941.
  26.  Glossaire topographique de Jérusalem (Nouveau Testament) [archive].
  27.  Denys Pringle, The Churches of the Crusader Kingdom of Jerusalem: The city of Jerusalem [archive].
  28.  Svend Svendsson, Bishop in Viborg [archive].
  29.  Family of Ulf "Galicienfari" [archive] Svend (-Jerusalem 30 Mar [1153], bur Jerusalem, Pater Noster Church, Mount of Olives). Bishop of Viborg [1132].
  30.  Church of Pater Noster [archive].
  31.  Denys Pringle, The Churches of the Crusader Kingdom of Jerusalem: The city of Jerusalem [archive].
  32.  Dictionaire des antiquites bibliques [archive]Félicien de Saulcy, 1859 : « Des débris de corniches, des chapiteaux corinthiens et des fûts de colonnes ornés de moulures évidemment romaines, ne laissent pas de doute sur l'origine de ce monument ruiné. Ses débris sont charriés à grand-peine, du point où ils ont été déterrés, vers le fond de la vallée de Josaphat, où ils sont vendus aux Juifs, pour être dépecés par eux et devenir des pierres tumulaires à ajouter à l'innombrable quantité de pierres de ce genre, qui tapissent tout le flanc de la vallée, depuis le tombeau d'Absalomjusqu'au village de Siloam ».
  33.  Le Carmel en Terre sainte : des origines à nos jours, Silvano Giordano, Girolamo Salvatico, 1995 [archive].
  34.  Charles Clermont-Ganneau [archive].
  35.  « Who was a Christian in the Holy Land? [archive] His epitaph was discovered in the ruins of the Church of the Eleona on the Mount of Olives » (Revue Eleona, 1975, octobre, p. 8).
  36.  https://jerusalem.consulfrance.org/L-Eleona [archive].
  37.  Les carmélites de Terre sainte [archive]. La fondation des monastères des carmélites en Terre sainte date de la fin du xixe siècle.
  38.  La République française est la seule puissance étrangère à posséder des biens dans Jérusalem [archive].
  39.  Le Carmel du Pater [archive]. Des milliers de pèlerins provenant de tous les pays et de toutes les confessions viennent visiter la « grotte mystique » des enseignements eschatologiques du Christ pour prier le Pater dans différentes langues, inscrites sur les murs du Sanctuaire et du cloître, qui sont approximativement au nombre de 150.
  40.  List of Christians in the Holy Land [archive].
  41.  …the 'Church of the Apostles' (Apostoleion), which was probably adjacent to the Church of the Eleona on the Mount of Olives. [archive]
  42.  L’Éléona [archive].

ĐẬU HŨ ĐỊA NGỤC món ăn Nhật bản

Đậu hũ địa ngục, món ăn "tàn nhẫn" và "tai tiếng" khiến nhiều thực khách rợn người




Đậu hũ địa ngục là tên gọi của món Dojo tofu vốn nổi tiếng và cũng đầy tai tiếng trong ẩm thực Nhật Bản.
Món ăn này đã vấp phải sự phản đối của rất nhiều thực khách bởi cách chế biến có phần man rợ và tàn nhẫn.

Nhật Bản vốn nổi tiếng với nền ẩm thực cầu kỳ, đa dạng và cự kỳ dinh dưỡng. Tuy nhiên, ẩm thực xứ sở hoa anh đào cũng có những món ăn với cách chế biến khiến thực khách không khỏi rùng mình. Một trong số những món ăn như vậy là món đậu hũ địa ngục. Món ăn đầy tai tiếng này đã bị phản đối kịch liệt bởi sự tàn nhẫn trong quá trình tạo nên món ăn.

Khám phá món đậu hũ địa ngục với cách chế biến “rợn người” tại Nhật Bản

Không ai biết chính xác thời gian xuất hiện của món ăn này, người ta cho rằng món tàu hũ địa ngục bắt nguồn từ truyền thuyết xa xưa của người Nhật Bản, người ta sẽ tạo ra một cánh cửa địa ngục để làm đông cứng mọi sinh vật bên trong đó.

Nhiều thực khách khi nghe đến tên món ăn đã rất tò mò và hứng thú được nếm thử. Tuy nhiên, sau khi nghe câu chuyện về món ăn này, rất nhiều người đã từ chối thưởng thức vì sự tàn nhẫn của nó.



Đậu hũ địa ngục, món ăn có cách chế biến tàn nhẫn ở Nhật Bản

Cách chế biến món đậu hũ địa ngục
Món đậu hũ địa ngục được chế biến từ hai nguyên liệu chính là đậu hũ (đậu phụ) tươi và những con cá chạch vẫn còn sống. Sau khi sơ chế nguyên liệu, người ta sẽ cho một nồi nước lạnh và thả những con cá chạch còn sống vào trong đó, cá gặp nước sẽ bơi lội tung tăng.




Cá chạch là một trong hai nguyên liệu chính tạo nên món ăn này

Tuy nhiên, sau đó người ta sẽ bật lửa lên và đun sống chúng. Khi nước bắt đầu hơi ấm, đầu bếp sẽ cho miếng đậu hũ vào giữa nồi. Theo bản năng, những con cá chạch sẽ chui vào trong miếng đậu hũ để tránh cái nóng dữ dội từ bên dưới. Tuy nhiên, đó chỉ là một cách bẫy tàn nhẫn.

Chúng tưởng sẽ thoát khỏi nồi nước sôi khi chui vào miếng đậu hũ, nhưng nước trong nồi sẽ ngày càng sôi ở nhiệt độ cao và miếng đậu phụ tươi cũng bắt đầu nóng dần lên. Những con cá bị mắc kẹt trong miếng đậu hũ chỉ sẽ giãy giụa trong vô vọng và chết một cách tức tưởi.



Những con cá chạch sống sẽ được đem đun nóng sau đó cho miếng đậu hũ vào giữa nồi

Khi thưởng thức, người ta sẽ ăn những con cá còn mắc trong miếng đậu hũ. Đôi khi, người ta không cần đợi nó chín mà cứ thế ăn sống những con cá vẫn còn thoi thóp.

Với cách chế biến món ăn như vậy, những con cá chạch tội nghiệp đã phải trải qua đến 3 tầng địa ngục, đó chính là bị đun trong nước nóng, bị mắc kẹt trong miếng đậu phụ và thậm chí bị ăn khi vẫn còn thoi thóp.


Những con cá sẽ chui vào miếng đậu hũ trốn nóng và chết tức tưởi

Với nhiều người, việc tận mắt nhìn thấy quá trình chế biến món đậu hũ địa ngục và thưởng thức chúng chẳng hề dễ dàng khi họ phải chứng kiến những con cá giãy giụa trong tuyệt vọng và chết ngay trước mắt. Món ăn này thậm chí đã bị phản đối rất nhiều, bất chấp hương vị và cách chế biến độc đáo.

Nhiều thực khách đã chia sẻ rằng đây là một món ăn quá tàn nhẫn, những con cá chạch tưởng chừng như thoát khỏi tử thần khi chui vào miếng đậu nhưng thật sự chúng lại đến với một địa ngục đáng sợ hơn.



Bất chấp hương vị, nhiều người đã phản đối món ăn quá tàn nhẫn này

Bởi cách chế biến quá tàn nhẫn, nên món ăn tai tiếng - đậu hũ địa ngục của Nhật Bản đã bị phản đối khá nhiều. Thậm chí có một chương trình truyền hình đã thực hiện món ăn này trên sóng nhằm mang đến sự chân thực nhất. Tuy nhiên khi phát sóng, cảnh tượng những chú cá chạch liên tục bị nấu sống đã khiến người xem vô cùng phẫn nộ và chương trình đó đã phải tạm dừng.

Vẫn biết thế giới ẩm thực đa dạng và sự sáng tạo trong cách chế biến là không thể thiếu, nhưng cách chế biến quá đáng sợ của món đậu hũ địa ngục vẫn khiến người ta phải rùng mình và không còn đủ dũng khí thưởng thức món ăn.

Lành Trần

Theo Báo Du Lịch

lundi 9 décembre 2019

Những tác phẩm đoạt giải cuộc thi ảnh quốc tế

Những tác phẩm đoạt giải cuộc thi ảnh quốc tế

Tác phẩm "Vượt qua đồi cát" của nhiếp ảnh gia Việt Nam Lê Minh Quốc giành chiến thắng tại hạng mục khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của cuộc thi ảnh CGAP .
Ảnh: Lê Minh Quốc
Nhiếp ảnh gia Lộc Mai, Việt Nam, “Hành trình tiếp theo”. Những phụ nữ trong ảnh sống trong một làng chài ở Nha Trang. Họ đang sửa lưới đánh cá để chồng của họ sử dụng trong chuyến ra khơi tiếp theo. 
Ảnh: Lộc Mai
Tác phẩm “Thu hoạch trứng vịt” của nhiếp ảnh gia Trần Văn Túy ở Việt Nam . “Bức ảnh khiến bạn thực sự thấy rằng chương trình tài chính có thể giúp cuộc sống của bạn trở nên tốt hơn”. 
Ảnh: Trần Văn Túy

Tác phẩm “Buổi sáng” của tác giả Đỗ Hiếu Liêm, Việt Nam. CGAP cho biết, khoảng 10% dân số thế giới sống dựa vào nghề đánh bắt, sản xuất thủy sản và hải sản. Ở Việt Nam, công việc này mang lại một nguồn thu nhập đáng kể. 
Ảnh: Đỗ Hiếu Lâm

Ngô Quang Phúc, một nhiếp ảnh gia Việt Nam, với bức ảnh những người làm nghề đẩy xiệp tại thị trấn ven biển Bạc Liêu. Dù lao động rất vất vả, thu nhập của họ rất thấp.
 Ảnh: Ngô Quang Phúc

Tác phẩm “Trồng lúa” của tác giả Sujan Sarkar, Ấn Độ. Nó mô tả cảnh một gia đình làm việc trên ruộng lúa ở Tây Bengal, Ấn Độ. 
Ảnh: Sujan Sarkar

Tác phẩm “Làm việc trên núi” của tác giả Tatiana Sharapova, Nga, khắc họa một bà lão người làm việc tại một cánh đồng trên núi ở Ấn Độ. Bà trồng rau để bán ở chợ. 
Ảnh: Tatiana Sharapova

 Nhiếp ảnh gia Li Ming Cao của Trung Quốc với bức ảnh ngư dân quăng lưới đánh cá vào sáng sớm. Sau đó, ông lão bán cá ở chợ để kiếm tiền. 
Ảnh: Li Ming Cao

M.Yousuf Tushar, nhiếp ảnh gia người Bangladesh, chụp một người đàn ông làm hạt trầu để bán tại khu vực Teknaf, Bangladesh. 
Ảnh: M.Yousuf Tushar

 Tác giả Bulent Suberk, Thổ Nhĩ Kỳ, với tác phẩm “Cà chua”. Ảnh mô tả một gia đình nông dân ở làng Bursa Aksu, Thổ Nhĩ Kỳ đang làm bột cà chua. 
Ảnh: Bulent Suberk

Hailey Tucker, một công dân Mỹ, với bức ảnh người nông dân thu hoạch ngô tại Tanzania. 
Ảnh: Hailey Tucker

Người phụ nữ trong ảnh đang phơi khô nguyên liệu làm mũ Panama ở Ecuador. 
Ảnh: Luis Sanchez Davilla

Bức ảnh một chàng trai trẻ làm việc cùng cha trong một cửa hàng của Subhasis Sen, một người Ấn Độ. 
Ảnh: Subhasis Sen

Ảnh “Chăn gia súc vào buổi sáng” của Li Ming Cao tại Trung Quốc. 
Ảnh: Li Ming Cao 

Nhiếp ảnh gia Pranab Basak, Ấn Độ, một thiếu nữ đang giúp cha sản xuất đồ gốm. 
Ảnh: Pranab Basak

T.ANH chuyển

vendredi 6 décembre 2019

Người lớn tuổi sử dụng computer tốt cho trí nhớ chứ không có hại.

Nghiên cứu cho thấy người cao niên sẽ cải thiện trí nhớ, nếu chịu khó lên mạng Internet.


Theo kết quả nghiên cứu được trình bày tại cuộc Hội thảo thường niên của Hội Society for Neuroscience thì người cao niên có thể cải thiện tình trạng minh mẫn, và tránh được bệnh hay quên ngắn hạn của tuổi già, nếu chịu khó làm việc tìm tòi trên Internet.

Một toán Chuyên gia của Đại học Los Angeles đã “scan” não bộ của 24 cụ cao niên (một nửa những cụ thường xuyên lên internet, còn nửa kia thì không) với mục đích tìm xem Internet tác động ra sao lên não bộ các người già.





Nhóm cao niên “lười lên internet” được chỉ dẫn cách sử dụng máy điện toán căn bản rồi được yêu cẩu khi về nhà vào internet trung bình mỗi ngày 7 tiếng trong suốt 2 tuần lể liên tục. Khi họ quay trở lại, các Chuyên gia đã sử dụng máy MRI để “scan” não bộ của họ thì thấy lượng máu đổ dồn nhiều hơn vào các mạch máu nhỏ của não bộ. Có nhiều vùng của não bộ đã được tiếp máu nhiều hơn so với trước khi làm thí nghiệm.

Các nhà Khoa học nói về não bộ của các cụ cao niên trước đây “lười lên internet” giống như một máy xe hơi được nhấn ga tăng tốc độ chỉ sau 2 tuần lễ “lượn ngang dọc” trên mạng (Net). Các cụ thuộc nhóm nay có tuổi trung bình là 66.8 tuổi.

Trước đây, não bộ cũa các cụ này sử dụng đến nhiều vùng có liên kết với thị giác, phán xét, nhận thức không gian trong cuộc sống hàng ngày. Sau 2 tuần lễ các cụ đọc tin và làm việc với máy điện toán, các nhà Nghiên cứu nhận thấy ngoài các vùng nói trên, những vùng khác trong não bộ của các cụ cũng bừng sáng. Đặc biệt vùng não gọi là hồi trán (frontal gyrus) phía trước, và trung bộ đã được kích động mạnh mẽ. Đó là những vùng được biết là có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định, trí nhớ, và các giải quyết cấp thời. Chúng có thể giúp các cụ cao niên tập trung mạnh mẽ hơn.





Các nhà Khoa học còn nhận thấy là sau cuộc thí nghiệm não bộ của các cụ trước “lười lên internet” nay đã có sức sống giống như não bộ của các cụ thường xuyên sử dụng internet. Ngoài ra, khi yêu cầu nhóm sau này cũng làm các thao tác giống như nhóm thứ nhất, các nhà Khoa học nhìn thấy não bộ của họ đã “sử dụng trí sức mạnh hơn”, có vẻ như tại vì não “đã nhận ra các thao tác quen thuộc” khi lên internet, và cảm thấy các thao tác đó dễ dàng hơn rất nhiều.

Bác sĩ Thần kinh Gary Small, người tham gia vào công cuộc nghiên cứu, nhận định như sau: Kết quả cho thấy là những cao niên nào muốn trí nhớ của họ sắc bén trở lại, thì không gì hơn là mở “dụng cụ ở trong tầm các ngón tay của họ”. Ông cũng nói có vẻ như xã hội văn minh với nhiều thao tác kỹ thuật phức tạp đã làm trí não con người trẻ lại theo những cách mà “ngay cả khoa học cũng chưa hiểu tường tận”.


Sử dụng internet có thể cải thiện chức năng nhận thức của não





Các nhà Nghiên cứu tại Đại học UCLA (California) đã chứng tỏ là trong khi bạn sử dụng internet để tìm kiếm các tin tức, gởi thư điện cho con cháu, mua sách trên mạng … bạn đã gia tăng khả năng nhận thức của não mà không hay biết.

Cho tới nay người ta vẫn thường khuyên các người lớn tuổi nên chơi ô chữ, các trò chơi đố (puzzles), các trò đố vui (quizzes), sodoku … tất cả chỉ với mục đích giữ cho chất xám trong não hoạt động tốt. Nhưng từ nay trở đi, chúng ta cũng còn có thể khuyến khích các người lớn tuổi nên “bay lượn” trên mạng.





Thật vậy, Tạp chí Khoa học uy tín American Journal of Geriatric Psychiatry vừa đăng tải một báo cáo của các nhà Nghiên cứu thuộc Đại học UCLA cho biết là đối với các cao niên thường xuyên tìm kiếm tin tức trên internet, một số trung tâm chủ yếu trong não của họ có chức năng kiểm soát tiến trình quyết định, và suy luận phức tạp đã được kích thích. Nói một cách cụ thể hơn thì kết quả nghiên cứu trên đây chứng tỏ là các hoạt động tìm kiếm trên mạng có thể đóng góp vào việc kích thích – và ngay cả cải thiện các chức năng của não.

Trong thí nghiệm, các nhà Nghiên cứu đã quan sát 24 người có tuổi từ 55 tới 76. Phần não những người này có thói quen tìm kiếm tin tức trên internet, còn phân nửa kia thì không. Cả hai nhóm đều giống nhau về tuổi tác, trình độ học vấn, và phái tính.

Tất cả số người trên đây đều được scan não với máy chụp cộng hưởng từ (RMI) trong khi họ đọc sách, hoặc tìm kiếm tin tức trên mạng. Máy RMI ghi các biến đổi trong các mạch não hay nói rõ hơn, máy này dò tìm cường độ phản ứng của các tế bào não bằng cách đo sức chảy của các luồng máu. Kết quả cho thấy là:





· Trong thí nghiệm đọc, não của tất cả các cao niên đều hoạt động mạnh, nhất là tại những trung tâm ngôn ngữ, đọc, trí nhớ, và thị giác nằm ở các thùy thái dương (temporal), thùy đỉnh (parietal) và thùy chẩm (occipital) của não.


· Trái lại, trong thí nghiệm Internet, các nhà Nghiên cứu đã phát hiện một sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm đọc và sử dụng internet. Đó là nếu não của nhóm người đọc sách hoạt động mạnh thì não của nhóm “internet” lại hoạt động mạnh hơn ở các vùng thùy trán (frontal) và thùy thái dương (temporal) cũng như ở các hổi chẫm não (circonvolutions cingulaires) kiểm soát tiến trình quyết định và lý luận phức tạp.

Giáo sư Gary Small, Trưởng nhóm Nghiên cứu, nói: “Điều đáng chú ý trong phát hiện của chúng tôi là các hoạt động tìm kiếm tin tức trên mạng đã kích động các mạch neuron mà việc đọc sách không gây ra được.” Ông nói tiếp: “Một hoạt động hàng ngày đơn giản như tìm kiếm tin tức trên mạng dường như có thể cải thiện sự hoạt động của não. Điều nay chứng tỏ là tuy già, người ta vẫn có thể tiếp tục học hỏi được“..

Giáo sư Gary Small cho biết thêm là nhóm của ông sẽ còn tiếp tục nghiên cứu thêm.


Ngày càng nhiều cao niên sử dụng internet





Theo cuộc thăm dò mới đây của CSA (Pháp) thì đã có 46 phần trăm những người trên 50 tuổi sử dụng internet để tiếp xúc với bạn bè và người thân, trau dồi kiến thức và quản lý đời sống hàng ngày. Một cuộc thăm dò tương tự tại Hoa kỳ cũng xác nhận là ngày càng có nhiều những người thuộc lứa tuổi 50/60 vào internet. Điều này sẽ tạo một cơ hội hết sức tốt đẹp cho ngành thương mại trên internet. Chỉ trước đây có bốn hay năm năm, phần lớn các cao niên đều không tưởng tượng là một ngày nào đó, họ sẽ có thể “bay lượn” trên internet. Tuy nhiên, sự phổ biến của internet cao tốc, sự hạ giảm giá cả các dụng cụ điện tử và khía cạnh “không thể tránh được” của kỹ thuật này đã lôi cuốn các người tuổi trên 50 vào mạng lưới điện tử.

Thật vậy, theo như cuộc thăm dò mới đây của CSA, đã có tới 46 phần trăm người trong lứa tuổi 50/60 sử dụng internet, và đại đa số (80 phần trăm) những người này coi mạng lưới là cửa ngõ đi vào thế giới bên ngoài.





Nói rõ hơn, mạng lưới là một cuốn tự điển bách khoa vĩ đại, một phương tiện kỳ diệu giúp chúng ta chu du khắp nơi trong khi vẫn ngồi nhà. Mạng lưới cũng còn là một trong những phương tiện tốt nhất để giữ liên lạc với gia đình, và nhất là với các cháu nội ngoại đôi khi sinh sống ở tận bên kia nước Pháp, hay ngay cả bên kia đại dương. Cụ Monique, 61 tuổi, tâm sự: “Đứa cháu tôi được tham gia chương trình trao đổi Sinh viên tại ngoại quốc. Cháu nó mở một trang blog về hành trình của nó, nên tôi có thể theo dõi sinh hoạt của nó, mà chẳng cần nó phải gọi điện thoại về cho tôi mỗi tuần. Thật là tiện lợi!”. Mặt khác, cụ Marie 58 tuổi rất vui mừng khi nhìn được những bức ảnh đầu tiên của cháu mình chỉ một ngày sau khi đứa cháu ra đời ở cách Paris cả ngàn cây số.

Một cuộc thăm dò khác tại Hoa kỳ do reserchandmarkets.com thực hiện đã cho biết là số người trên 60 tuổi sử dụng internet sẽ tăng trong những năm tới, và khuynh hướng này sẽ tạo một cơ hội rất lớn cho thị trường thương mại. Cuôc thăm dò cũng cho thấy là trong năm năm nữa, số người cao niên sử dụng internet ít nhất một lần mỗi tháng sẽ tăng từ 58.2 triệu lên tới 63.7 triệu.





Theo cuộc điều tra của grandparents.com thì hiện nay, tại Hoa kỳ đã có tới phân nửa các bậc ông bà sử dụng Internet từ 10 tiếng trở lên mỗi tuần để mua sắm (69%), so sánh giá cả (83%), theo dõi quảng cáo (38%), trao đổi hình ảnh (78%) v…v…

Tưởng cũng nên biết grandparents.com là nguồn tin trên mạng chính yếu dành cho các bậc ông bà tại Hoa kỳ. Trang web này tạo phương tiện duy trì các mối liên hệ, và thắt chặt tình cảm gia đình. Nội dung trang web này rất phong phú bao gồm: Các tin tức về hoạt động xã hội, các gợi ý tổ chức du lịch cho cả gia đình, hay mua quà tặng cho mọi lứa tuổi. Ngoài ra, sự trao đổi liên thế hệ giữa ông bà, cha mẹ, con cái cũng được dễ dàng hơn nhờ vào blog, diễn đàn, hình ảnh, và video…




Sau hết, một nghiên cứu do Demos thực hiện tại Anh nhấn mạnh là internet có thể trở thành một yếu tố giao tiếp xã hội hết sức quan trọng đối với người già, nhưng hiện nay hãy còn nhiều trở ngại. Các Chuyên gia đề nghị cần phải phát triển những thiết bị thích hợp cho người già cũng như tổ chức những lớp dạy dành riêng cho họ, vì nếu không thì một phần lớn lao dân số cao niên sẽ đương nhiên bị gạt bỏ. Hơn nữa, trong những năm tới, số dịch vụ được cung cấp chính yếu qua mạng lưới điện tử ngày càng nhiều.