vendredi 2 juillet 2021

CUỐN NHẬT KÝ CỦA BÀ NGÔ ĐÌNH NHU

 Trần Giao Thủy

 …cuốn nhật ký này là tài liệu mang tính lịch sử của Việt Nam; nó thuộc về toàn dân Việt Nam và là một tài liệu quan trọng cần được phổ biến khắp nơi, cho tất cả những ai quan tâm đến giai đoạn đó trong lịch sử Việt Nam cận đại. Cuốn nhật ký không thể chỉ là hàng mẫu trưng bày trong viện bảo tàng và nó cũng thể bị cắt xén, chỉnh sửa để xuất bản.

Gia đình bà Nhu (Từ trái): Trần Văn Chương, Thân Thị Nam Trân, Trần Thị Lệ Chi, Trần Thị Lệ Xuân, Trần Văn Khiêm. Nguồn OntheNet

Gia đình bà Nhu (Từ trái): Ô. Trần Văn Chương, B. Thân Thị Nam Trân, B. Trần Thị Lệ Chi, B. Trần Thị Lệ Xuân, Ô. Trần Văn Khiêm. Nguồn OntheNet

Chương 9 – Tháng 4, 1955 ông Nhu dọn nhà và đưa ba người con vào sống trong Dinh Độc Lập khi bà Nhu vẫn đang ‟an trí” ở một nhà dòng và học tiếng Anh ở Hong Kong. Trở lại Việt Nam, có lẽ đó là lần đầu tiên sau khi lập gia đình, bà Nhu hy vọng sẽ được thường xuyên ‟thấy” chồng. Sự thực không phải như thế trong những năm gia đình bà sống ở Dinh Độc Lập.

Những năm đầu chính phủ Ngô Đình Diệm đã gặt hái rất nhiều thành quả lớn. Từ việc ổn định đời sống cho gần 1 triệu người di cư miền Bắc, nâng cao mức sản xuất gạo, cao su, điện, cải cách điền địa, xây dựng hạ tầng cơ sở, lập đại học, xây xí nghiệp sản xuất, v.v. qua chương trình viện trợ của chính phủ Mỹ. Cuốn ‟Misalliance, Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam” của Edward Miller là một nghiên cứu, phân tách rất chi tiết giai đoạn này trong lịch sử Việt Nam cận đại.

4/3/1956 bà Nhu đắc cử cùng 122 dân biểu khác vào quốc hội lập hiến. Thành phần nhân sự quan trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm đã là nguyên nhân thành hình cụm từ ‟gia đình trị”; Ông Trần Văn Chương là bộ trưởng kinh tế và tài chánh trước khi nhậm chức Đại sứ tại Mỹ; mẹ bà Nhu, bà Nam Trân, được cử làm Đại diện thường trực tại Liên Hiệp Quốc; anh rể bà Nhu, chồng bà Lệ Chi, luật sư Nguyễn Hữu Châu, một thời gian ngắn là cố vấn tín cẩn của Tổng thống Diệm; ông Trần Văn Khiêm học hành dang dở, đang lang thang sống đời lãng tử với vợ người Đức ở ven biển Algeria được bà Nhu gọi về làm phát ngôn nhân của Dinh Độc Lập; chú bà Nhu, ông Trần Văn Đỗ trở thành Ngoại trưởng VNCH [thực ra bác sĩ Trần Văn Đỗ đã bị loại từ 1955 vì chính quyền cho rằng ông ủng hộ Bình Xuyên]; và không thể quên ông Ngô Đình Nhu, không có chức vị chính thức ngoài danh xưng ‟ông cố vấn” của anh mình. Đó là chưa nói đến những than phiền quần chúng về sự phân biệt đối xử vì tôn giáo của chính` quyền Ngô Đình Diệm. Bà Nhu nói, ‟Nếu chúng tôi mở toang cửa sổ, không những chỉ có ánh sáng mà còn bọn xấu cũng bay vào theo.”

Theo một cận vệ của Tổng thống thì ông Diệm không chỉ trích bà Nhu vì không muốn ông Nhu bị phiền. Tổng thống Diệm coi bà Nhu như ‟một phụ nữ đẹp nhưng to mồm”; tính khoa trương của bà Nhu trái ngược với phong cách điềm tĩnh của Tổng thống Diệm. Và cũng theo viên cận vệ này thì bà Nhu ‟luôn luôn muốn quá nhiều và quá sớm”. Mặt khác, ông Nhu cũng dù không bằng miệng nhưng đã không bằng lòng khi bà Nhu phô trương nhan sắc, duyên dáng, và khả năng (nói) tiếng Anh với chính khách, phần lớn là người Mỹ.

Dù có muốn bà Nhu đã không thể là một người phụ nữ của quần chúng được. Vì quần chúng phụ nữ Việt Nam thời đó đa số là những người đàn bà đầu tắt, mặt tối, chân lấm tay bùn, là những sóng sót sau nạn đói, và chiến tranh. Tuyệt đại đa số phụ nữ Việt Nam không nói tiếng Pháp ở nhà hay có tài xế đánh xe Mercedes đưa đi phố. Nhưng để chứng tỏ mình là người bảo vệ quyền phụ nữ, bà dân biểu đã làm luật gia đình áp dụng từ sau tháng 6, 1958 cấm đàn ông đa thê, hay có hầu thiếp, đàn bà có quyền có tài sản… Nhưng luật gia đình, bảo vệ quyền phụ nữ, còn cấm ngoại tình, cấm cả việc li dị trừ trường hợp đặc biệt được phép của Tổng tống. Đây là luật của thần quyền hay của thế quyền? Và như thế là bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ? Sắc luật này có hiệu quả thế nào khi áp dụng vào thực tế?

Tiếng đồn thời đó cho rằng luật cấm li dị nhằm bịt miệng ông Nguyễn Hữu Châu không thể nói xấu chế độ và li dị bà Trần Lệ Chi được. Thực ra cả hai vợ chồng ông Châu đều muốn li dị. Bà Lệ Chi muốn thoát khỏi một cuộc hôn nhân không hạnh phúc để sống với người yêu, một thợ săn voi bắn hổ chuyên nghiệp người Pháp tên là Etienne Oggeri. Kết quả, luật sư Châu đang là một cố vấn được tín cẩn của Tổng thống Diệm bị mất hết danh tiếng và ảnh hưởng, trở thành một công chức tầm thường. Sau khi luật gia đình ban hành, bà Lệ Chi cắt cổ tay đến Dinh Độc Lập để phản đối; bà Nhu cho lính bắt chị mình nhốt ở bệnh viện.

Bà Nhu xác nhận đã làm thế để bảo vệ bà Lệ Chi và bảo vệ danh giá gia đình. Theo Lệ Chi thì bà đã viết điện từ nhà thương nhờ một y tá cảm thông đánh đi cầu cứu. Bà Nam Trân từ Mỹ về Sài Gòn cứu con gái lớn ra khỏi bệnh viện nhà giam.

(Trái) Bà Lệ Chi bên xác con hổ (Gần Dalat, 1957). (Phải) Hình vẽ của họa sĩ Lechi Oggeri tại Cape Fear Studios. Nguồn: animalsversesanimals.yuku.com và capefearstudios.com

(Trái) Bà Lệ Chi bên xác con hổ (Gần Dalat, 1957). (Phải) Hình vẽ  Etienne Oggeri của họa sĩ Lechi Oggeri tại Cape Fear Studios. Nguồn: animalsversesanimals.yuku.com và capefearstudios.com

Luật sư Nguyễn Hữu Châu bỗng dưng được chuyển đi Paris. Trong hồi ký viết sau này, Oggeri nói bà Nhu đã cho người tiêm vi-rút dịch tả vào người ông. Sau một thời gian ngắn trong tù, Oggeri đã bị đuổi về Pháp. Từ đó ông sang Mỹ tìm người yêu. Etienne và Lệ Chi lập gia đình và nay, có lẽ tóc đã bạc màu, hai người vẫn sống đời hạnh phúc ở Fayetteville, North Carolina.

1959, sau 16 năm lập gia đình, từ một tiểu thư danh gia thế phiệt, bà Nhu là mẹ của bốn người con, là một mệnh phụ đầy danh vọng và quyền lực. Đó có phải là một cuộc đời hạnh phúc? Theo một cuốn nhật ký của bà Nhu thì không.

Cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960 tình cờ là một cơ hội khác để bà Nhu xác định khả năng chính trị của mình. Sau cuộc đảo chính hụt, trong các cuộc phỏng vấn, bà Nhu cho rằng ông Diệm ứng xử như trẻ con khiến bà muốn tát Tổng thống Diệm. Ba năm sau tờ St. Louis Post Dispatch đưa tin bà Nhu thực sự đã tát tai ông Diệm. Và ngay cả Tổng thống Diệm, khi trả lời báo chí cũng đã xác định cuộc đảo chánh thất bại là ‟nhờ bà Nhu” (‟C’est grâce à madame.”)

Đoàn viên Thanh nữ Cộng hòa Ngô Đình Lệ Thủy.Nguồn: Larry Burrows/Time Life Pictures/Getty Images

Đoàn viên Thanh nữ Cộng hòa Ngô Đình Lệ Thủy.Nguồn: Larry Burrows/Time Life Pictures/Getty Images

Chương 10 – Sau cuộc đảo chánh hụt năm 1960, Tổng thống Diệm ra lệnh miệng cho các tư lệnh quân đội không mở các cuộc hành quân có thể gây thương vong lớn cho phía VNCH vì ông nghĩ lính nhảy dù muốn đảo chánh vì không chấp nhận thương vong lớn ở chiến trường. Tổng thống Diệm không thể thấy hay không muốn thấy nguyên nhân của cuộc đảo chánh là chính sách gia đình trị và sự thiên vị Ki-tô giáo. Cố vấn Mỹ ở Việt Nam cũng biết lệnh miệng của Tổng thống Diệm nhưng điều đó không ngăn họ gởi báo cáo thổi phồng về con số thương vong của cộng quân. Cùng lúc, Việt cộng nằm vùng gia tăng khủng bố ở miền Nam.

1961, bà Nhu tự tin hơn bao giờ. Ba năm trước, bà cho thành lập Phong trào Phụ nữ Liên đới (1958) mục đích để phụ nữ Việt Nam tham gia vào các công tác xây dựng xã hội chứ không chỉ là người nội trợ trong nhà. Ngoài ra bà Nhu còn là thủ lãnh của Đoàn thanh nữ Cộng hòa một tổ chức bán quân sự mà cô Lệ Thủy là một đoàn viên.

Theo chính phủ thì Phong trào Phụ nữ Liên đới có trên 1 triệu đoàn viên(19) nhưng dường như ở ngoài Sài Gòn, phụ nữ Việt Nam không biết đến phong trào của những bà mệnh phụ tham gia để giữ ghế cho chồng trong quân đội hay chính phủ.

Tiệp tục sự nghiệp làm luật “bảo vệ thuần phong mỹ tục và năng lực của dân chúng…”, bà Nhu cho ra đời “Luật Bảo vệ luân lý”. Đó là Luật số 12/62 ngày 22/2/1962. Luật 12/62 có nhiều điểm tích cực như cấm người dưới 18 tuổi không được uống rượu (trên 12 độ cồn), cấm đồng bóng, phù phép (cầm hành nghề gây mê tín dị đoan), cấm mua bán dâm. Tuy nhiên cũng có những mục khác của sắc luật bị dân chúng chỉ trích: cấm khiêu vũ, cấm thi hoa hậu, cấm tuyên tuyền khuyến khích ngừa thai và phá thai.(20)

27 tháng 2, 1962 hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc lái máy bay khu trục Skyraider oanh tạch cánh phải Dinh Độc Lập, nơi gia đình bà Nhu trú ngụ. Lệ Thủy, 16 tuổi bình tĩnh cứu hai em nhỏ, Lệ Quyên và Quỳnh. Bà Nhu rơi hai tầng lầu xuống đất, bị ba vết phỏng nặng và 1 vết cắt sâu ở cánh tay. Bà vú người Hoa trông nom Lệ Quyên và hai người khác tử thương. Bà Nhu mất gần hết của cải vật chất, kể cả những tấm da hổ trong phòng ngủ, trừ vài cái áo ở tiệm may.

Dinh Độc Lập sau khi bị oanh tạc phá vỡ cánh phải. Nguồn: LIFE

Dinh Độc Lập sau khi bị oanh tạc phá vỡ cánh phải. Nguồn: LIFE

Chương 11 – Demery viết về quan điểm của những ký giả Mỹ, đã từng viết về cuộc chiến Việt Nam cũng như chính phủ Ngô Đình Diệm: David Halbertstam, Malcolm Browne, Stanley Karnow, những người bạn Mỹ như Clare Booth Luce, Marguerite Higgins, Ann và Gene Gregory – hai vợ chồng phụ trách xuất bản tờ Times of Vietnam, tờ báo tiếng Anh được bà Nhu yêu chuộng nhất.

Đặc biệt, vào năm 2007, khi được Demery cho hay tin David Halberstam, người ký giả trẻ của tờ Thời báo New York hồi nào đã chỉ trích bà Nhu nặng nề, tử nạn giao thông, bà Nhu nói, ‟Anh ấy thông minh, một trong những người hiếm có dám nói sự thật.” Khác với nguồn tin 44 năm trước cho rằng bà Nhu đã nói về người ký giả của tờ New York Times, ‟Halberstam đáng đem đi nướng, và tôi sẽ hân hoan đưa xăng và diêm quẹt.”

Chương 12 – Nhất định phần đúng về mình, bà Nhu đã đem nhiều rắc rối cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Biến động Phật giáo miền Trung bắt đầu với việc giám mục Ngô Đình Thục nhận tiền ‟đóng góp” xây thánh địa La Vang của các viên chức chính phủ, từ Phó tổng thống trở xuống; chưa đủ, giám mục Thục còn chuyền tiền, bất động sản, ruộng đất, v.v. từ công quỹ quốc gia sang cho giáo hội, làm mờ ranh giới giữa giáo hội và chính quyền. Giám mục Ngô Đình Thục tham nhũng cho giáo hội.

7 tháng 5, về Huế sau khi thăm viếng La Vang, giám mục Thục ra lệnh hạ cờ ngũ sắc của Phật tử đón mừng Phật Đản lần thứ 5257. Ở Sài Gòn ông Nhu phản ứng, ‟Tại sao anh tôi nhất định ra một cái lệnh ngu như thế về những lá cờ. Có ai quan tâm về những lá cờ họ treo đâu.” Sau đó là biểu tình phản đối, vụ nổ ở đài phát thanh Huế làm thiệt mạng 2 trẻ em, 7 người lớn và 14 người khác bị thương. Áp dụng chiến thuật đã thành công với Bình Xuyên năm 1955, đã thành công với lính nhảy dù năm 1960, chính phủ Ngô Đình Diệm gán cho Việt Cộng đã gây ra vụ nổ chết người ở đfi phát thanh Huế, nhất định không thỏa hiệp và tiếp tục làm áp lực với phe Phật giáo đấu tranh.

11 tháng 6, 1963 Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ỏ Sài Gòn; tấm hình Malcolm Browne chụp đăng trang nhất trên báo chí Hoa Kỳ và thế giới. Tiếp theo là những thách đố, nhạo báng của bà Nhu – nướng sư, vỗ tay – nổi tiếng không thua gì bức ảnh của Malcolm Browne. Rồi, thiết quân luật và cảnh sát dã chiến, lực lượng đặc biết tấn công chùa, bắt sư sãi, từ Sài Gòn ra Huế, ngày 21 tháng 8, 1963. Bà Nhu so sánh vụ tấn công đè bẹp ‟sư cộng sản” như vụ chiến thắng Bình Xuyên tám năm trước đó và bà ‟quên” rằng những ‟sư cộng sản” bị bắt là những người không có vũ khí trong tay. Bà Nhu tuyên bố, ‟đây là ngày sung sướng nhất đời tôi.” Lại thêm một chiến công cho dòng họ Ngô Đình.

Đúng sinh nhật thứ 39, bà Nhu nhận được một điện tín từ Washington, D.C., ông bà Trần Văn Chương yêu cầu bà đưa bốn người con ra nước ngoài; đồng thời bà Nam Trân đích thân nhắn riêng với tân Đại sứ Mỹ, Henry Cabot Lodge, sắp lên đường sang Việt Nam rằng

‟Trừ khi họ rời Việt Nam, không có quyền lực nào trên thế giới có thể chận cuộc ám sát Tổng thống Diệm, Nhu em ông ấy, và bà Nhu, con gái của tôi.”

Bức điện thứ hai cùng ngày sinh nhật bà Nhu, ông Đại sứ VNCH tại Mỹ và bà Đại diện thường trực của VNCH tại LHQ đồng loạt từ chức.

Ngầm đồng ý với yêu cầu của chính phủ Mỹ bịt miệng bà Nhu, Tổng thống Diệm đã cho bà Nhu đi dự phiên họp của Liên minh Liên Nghị viện tại Belgrade vào trung tuần tháng 9, 1963.

Chương 13 – Đầu tháng 10, 1963 bà Nhu và Lệ Thủy đến Mỹ – không phải là khách mời của chính phủ Hoa Kỳ. Xuất hiện ở đại học, trên đài truyền hình và báo giới từ Đông sang Tây, cuộc Mỹ du của bà Nhu chỉ được công nhận chính thức bằng nhận định của một Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ ở Ohio, Stephen Young nói, bà Nhu ‟quá kiêu ngạo và tự phóng đại tầm quan trọng của mình quá mức,” và nên được gởi trả về Việt Nam.

Trước khi rời Sài Gòn và cả lúc ở Paris – tháng 8, 9/1963 – bà Nhu đã biên thư hỏi Phó Tổng thống Johnson xem bà sẽ có thể được chào đón ở Mỹ hay không. Johnson hỏi ý và được Kennedy hiệu đính lá thư, yêu cầu bà Nhu nghĩ ‟một cách hết sức khách quan nếu có thể, rằng bà đến đây có ích hay bất lợi.” Johnson ký lá thư đã hiệu đính và gởi đi. Bà Nhu trả lời, ‟Tôi từ chối ngồi yên làm đồng lõa trong một vụ giết người dễ sợ.”

Đại học Columbia, Princeton, Havard, tạp chí Time, Thời báo New York cùng biết bao đài truyền hình tranh nhau để gặp được bà, cùng lúc chính phủ Mỹ cố gắng xua bà đi cho thấy bà Nhu là một nhân vật chính trị đáng quan tâm. Và vài tuần trước đó, ở Rome, bà Nhu nói lính Mỹ ở Việt Nam cư xử như ‟những thằng lính đánh thuê”.

Chương 14 – Trung tuần tháng 10, bà Nhu đến Washington D.C., dự tính sẽ ở lại miền Đông Hoa kỳ thêm 1 tuần nữa trước khi đi Chicago; toàn bộ chính phủ Mỹ cũng như nội các Kennedy vẫn không có bất kỳ một nhận xét nào.

Cùng lúc đó cựu Đại sứ Trần Văn Chương trả lời phỏng vấn với đài truyền hình CBS cho biết Tổng thống Diệm, xếp của ông 9 năm qua, thực sự chỉ là hình nộm; thực quyền nằm trong tay ông Ngô Đình Nhu, con rể của ông. Bà Nhu có thể nhiễm bệnh ‟cuồng vì quyền lực” như chồng nhưng ‟chỉ là cái bóng”. Ông cựu Đại sứ cố gắng làm giảm ảnh hưởng của bà Nhu, nhưng đã thất bại. Ông xác định nỗi ngờ của người Mỹ rằng vợ chồng bà Nhu quả thực có nhiều quyền lực hơn Tổng thống Diệm.

Trả lời một ký giả Ý về nhận xét của bố vợ mình, ông Nhu để rơi mặt nạ, trả lời cho cả cho cả hai vợ chồng, ông Nhu nói, nếu ông Chương cố trở lại Saigon,

‟Tôi sẽ cho chặt đầu ông ấy. Tôi sẽ treo đầu ông ta lủng lẳng giữa quảng trường. Vợ tôi sẽ buộc cái nút dây treo vì bà ấy hãnh diện là người Việt Nam và bà ấy là một người yêu nước.”

Cùng Lệ Thủy đến nhà ông bà Trần Văn Chương, bà Nhu để cô con gái lên gõ cửa nhà ông bà ngoại; bà chống nạnh đứng chờ. Cửa không mở; Hết kiên nhẫn, bà Nhu đến gõ cửa nhà cha mẹ; cửa vẫn đóng, không có tiếng trả lời. Bà Nhu cũng biết khoảng hai mươi ký giả đẫ đi theo và đang đứng đợi xung quanh. Căm phẫn vì bị coi như không có trước đám đông, bà Nhu đi vòng ra phía vườn sau, phóng lên vài bực thang, nhìn qua của sổ. Bà Nhu nói như phân trần với đám đông, ‟Tôi không hiểu. Tôi đã gọi và nói chuyện với một người ở đây cách đây không lâu.”

Không nhìn mặt là một chuyện. Khi bà Nhu còn ở châu Âu, bà Chương đã mời một phụ tá tín cẩn của Kennedy đến nói chuyện tại nhà. Bà Chương nói thẳng với phụ tá của Tổrng thống Mỹ: nói Kennedy loại gia đình nhà Ngô ngay đi. Ông Diệm thì bất lực; ông Nhu là tên man rợ; phần con gái, bà Chương đã yêu cầu cộng đồng người Việt ở New York và Washington lấy xe cán bà Nhu đi; nếu không được thì ít nhất cũng phải ném cá chua, trứng thối. Bà Chương thề với viên phụ tá của Kennedy, nếu Nhà Trắng không làm gì hết để bịt miệng bà Nhu thì chính bà, bà Chương, sẽ thừa khả năng tổ chức ‟cái gì đó để chống lại con quái vật này.” Câu chuyện giữa hai người được đưa vào hồ sơ ‟kín” và người cất tại liệu đã ghi trên tập hồ sơ, ‟tình yêu của mẹ”.

Chương 15 – Demery viết về cuộc đảo chánh 1/11/1963. Cũng ở chương này tác giả cho biết đã nhận được tập hồi ký ‟Le Caillou Blanc” của bà Nhu sau gần 5 năm trông đợi, cùng một số hình ảnh. Bà Nhu nói,

‟Tôi hoàn toàn tin cô với tập hồi ký này. Cô hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nhưng không được hiệu đính. Không được thay đổi. Chúng phải được ấn hành như đã viết; Tập I trước, tập II sau. Và, tôi nóng lòng thấy tập sách in, càng sớm càng tốt. Tôi không còn nhiều thời gian.”

Tác giả Demery tin chắc đây không phải là tập hồi ký bà Nhu định bán cho báo Saturday Evening Post sau cuộc đảo chánh năm 1963; nó cũng không phải là tập hồi ký bà Nhu quá bận viết hồi những năm 60, 70 bỏ qua những cuộc phỏng vấn giá gần 1000 đô-la một lần. Demery cũng không tin là hai tập hồi ký này có bản viết trên giấy và dường như tập bản thảo điện tử này mới soạn trong những tháng sau này.

Tướng Nguyễn Khánh là người đưa, Trác, Quỳnh và Lệ Quyên, ba người con nhỏ của ông bà Nhu về Sài Gòn bằng máy bay riêng sau khi tìm được họ đang trốn trong rùng ở Đà Lạt. Fred Flott, tùy viên ngoại giao tòa Đại sứ Mỹ, đại diện chính phủ Mỹ phụ trách đưa con bà Nhu qua Rome bằng máy bay quân sự C-54 sang Thái rồi từ đó bằng máy bay của Pan Am. Fred Flott cũng là người đã bỏ túi vài cái gạt tàn thuốc lá ở Dinh Gia Long ‟làm kỷ niệm”.

Chương 16 – Đời lưu vong. Trong những ngày cuối cùng ở khách sạn Beverly Wilshire trước khi bà Nhu rời Mỹ, ông Trần Văn Chương đã leo cầu thang lên lầu tám gặp con gái của ông. Cha con ông Chương đoàn tụ trong phòng riêng. Với báo chí, sau đó, ông cựu Đại sứ tuyên bố ‟không cần phải hòa giải”; trước bi kịch gia đình hai người đã dẹp qua những bất đồng từ trước. Bà Nhu kể cho Clare Booth Luce một kịch bản khác. Bà Nhu nói ông Chương tìm đến gặp bà vì ông muốn trở về Việt Nam tham gia chính phủ mới; nhưng dĩ nhiên ông không thể nào làm như thế nếu không có sự đồng ý của bà Nhu. Ông Chương khó có thể bắt tay với phe đảo chánh ngay sau khi họ vừa giết chết con rể của ông, nếu không có sự giải thích hay giúp đỡ nào đó từ phía bà Nhu.

Bà Nhu đã không tha thứ cho ông Chương như ông yêu cầu. Bà Nhu không tha thứ vì ông bỏ chế độ hồi tháng 8; bà Nhu không tha thứ cho ông vì ông đóng cửa không tiếp bà và Lệ Thủy ở nhà. Và bà Nhu cũng không khi nào tha thứ cho cha mẹ đã cho bà một tuổi thơ như một đứa con gái thứ hai vô hình. Và cũng có thể bà Nhu đã biết cha mẹ của bà là kẻ phản phúc đối với chế độ, nhưng có lẽ bà không rõ chi tiết. Wesley Fishel, Trưởng nhóm Cố vấn Việt Nam tại đại học Michigan, trở thành bạn thân của Tổng thống Diệm ngay từ những năm 55-56. Năm 1960, Fishel đã viết cho Tổng thống Diệm về ‟tham vọng chính trị” của ông Trần Văn Chương. Fishel nói với Tổng thống Diệm là ông Chương ‟gần như đã phá hủy toàn bộ tổ chức thân hữu của ông (tổng tống Diệm) tại Hoa Kỳ” từ khi ông đến làm Đại sứ Việt Nam tại Wshington, D.C. Đến nay, không ai hiểu hay có câu trả lời lý do nào Tổng thống Diệm vẫn giữ ông Chương trong chính phủ cho đến khi ông từ chức.

Một trục trặc nhỏ bà Nhu không giải quyết được trước khi rời Los Angeles đi Rome gặp lại những người con nhỏ là tiền. Một nguồn thân cận với bà Nhu cho The New York Times biết bà Nhu đem theo 5000 đô-la cho chuyến Mỹ du trong 3 tuần. Trong thời gian suy nghĩ phải làm gì sau cuộc đảo chánh, bà Nhu vẫn không ngưng mang nợ nhưng không còn một chính phủ ở Sài Gòn để thanh toán những món nợ đó cho bà. Một số người Mỹ đã cho bà tạm trú ở tư gia sau khi ra khỏi khách sạn. Những người bạn thuộc đảng Cộng hòa, Clare Booth Luce, Richard Nixon cũng không thể giúp bà Nhu mãi. Bà còn nợ một nửa chi phí, 1000 đô-la, của bà tại khách sạn Beverly Wilshire. Nhưng Bradley O’Leary ở chương 9 trong cuốn Triangle of Death: The Shocking Truth About the Role of South Vietnam and the French Mafia in the Assassination of JFK nói bà để lại món nợ khổng lồ ở khách sạn Beverly Wilshire (‟leaving a collosal unpaid bill at the Beverly Wilshire Hotel”). Báo Daily Herald ngày 9 tháng 12 và báo Hillsdale Daily News ngày 27/12/1963 đều đăng lời của Douglas H. Boone, Giám đốc khách sạn Sheraton-Blackstone ở Chicago, than mất 200 đô-la với bà Nhu, ‟Chúng tôi may mắn. Nhiều khách sạn khác bị nặng hơn rất nhiều.”

Cuộc chiến Việt nam leo thang và sau cùng đã chấm dứt. Kết quả là Việt Nam đã thống nhất vê mặt địa lý và đã phải trả một giá kinh hoàng: 2 triệu người dân hai miền đã thiệt mạng, hơn 1 triệu người lính cộng sản hai miền tử thương cùng 250000 binh sĩ VNCH. Hơn 58.200 tên người lính Mỹ bỏ mạng hay mất tích ở chiến trường Việt Nam khắc đậm trên bức tường tưởng niệm ở Washington, D.C.

Người đàn ông thứ ba của dòng họ Ngô-Đình bị phe đảo chánh giết sau đó là ông Ngô Đình Cẩn. Mỹ giao ông Cẩn cho phe đảo chánh giam ông trước khi đem xử, rồi bắn.

Sau khi bà Nhu vội vã cho thuê rẻ căn apartment ở Paris, giám mục Ngô Đình Thục đã thu xếp cho bà ở lại trên một mảnh đất của Giáo hội Rome trước ông khi đi nhận nhiệm vụ mới ở miền Nam nước Pháp. Năm 1981 giám mục Ngô Đình Thục bị giáo hội rút phép thông công. Năm 1984, ông Ngô Đình Thục chết trong nghèo khó tại một tu viện ở Carthage, Missouri.

12 tháng Tư, 1967, con gái yêu của bà Nhu, Lệ Thủy, mới 22 tuổi, tử nạn giao thông ở ngoại ô Longjumeau, Pháp. Lệ Thủy chết không làm trọn lời thề đã viết trong nhật ký: giết những người đã hại nước Việt Nam và đã giết cha cô. Đến khi qua đời bà Nhu vẫn không tin là con bà tử nạn giao thông. Ba người con còn lại, học hành, thành đạt, trưởng thành, sống đời bình thường như những công dân của châu Âu. Bà Lệ Quyên tử nạn giao thông trên đường đi làm vào ngày 16 tháng 4, 2012.

Bà Nhu qua đời vào Lễ Phục sinh năm 2011, không phải một lần nữa đau lòng vì mất con, người con gái sau cùng.

Gặp ông Đại úy

1959, sau 16 năm lập gia đình, từ một tiểu thư danh gia thế phiệt bà Nhu đã là mẹ của bốn người con, và cũng là một mệnh phụ đầy danh vọng và quyền lực. Đó có phải là một cuộc đời hạnh phúc? Theo một cuốn nhật ký của bà Nhu thì không.

Đây không phải là cuốn hồi ký ‟Le Caillou Blanc” mà là một quyển nhật ký viết từ năm 1959 đến năm 1963. Một cuốn sách ghi lại các sự kiện, những suy nghĩ mỗi ngày, ngay sau đó. Một cuốn sách không có hiệu đính hay sửa đổi của người thứ hai.

Đúng vậy; bà Nhu có viết nhật ký trong 5 năm sau cùng ở Dinh Độc Lập, trung tâm quyền lực của chính phủ Ngô Đình Diệm. Đây có lẽ là cuốn nhật ký bà Nhu không muốn ai biết đến. Trong thời gian làm việc với tác giả Demery bà Nhu không khi nào đề cập đến quyển nhật ký 59-63 đó. Tuy nhiên, khi còn sống, bà Nhu đã nhờ người quen ở Mỹ tìm xem có biết cuốn nhật ký của bà hiện ở đâu hoặc ai đang giữ nó. Thế cuốn nhật ký bà Nhu hiện ở đâu? Và ai hay cơ quan nào đang giữ nó?

Cuốn nhật ký 59-63 hiện đang ở trên đất Mỹ.

Người giữ quyển nhật ký 59-63, qua Google, đã tìm được và liên lạc với tác giả Demery. Tác giả cuốn Finding the Dragon Lady ngờ rằng một người Mỹ trẻ tuổi đang giữ nhật ký bà Nhu là chuyện xa vời. Gặp nhau ở New York, người giữ nhật ký 59-63 không muốn nói hay không thể nói rõ với tác giả Demery tại sao ông có được có cuốn nhật ký trong tay. Là người có người thân trong quân lực và cảnh sát VNCH, ông nói với Demery, ‟Tôi lớn lên, rồi tôi có quyển sách đó.”

Demery được cho xem qua cuốn nhật ký bà Nhu ở một tiệm cà phê Starbuck. Cuốn sách khổ 12 cm x18 cm, bìa đã cũ, có vết ố, dán keo dính ở gáy; những trang trong đầy nét chữ nghiêng bên phải, viết bằng bút mực nâu, mực xanh, có khi bằng bút xáp màu đỏ.

Trước khi vào sơ lược nội dung cuốn nhật ký, mời bạn đọc gặp người giữ cuốn nhật ký 59-63.

Nếu người giữ quyển nhật ký 59-63 đã tìm gặp tác giả Demery qua Google thì người viết đã gặp ông trên Facebook và sau đó trao đổi với nhau qua điện thoại và Skype. Người đó là ai?

Đại úy James Van Thach vf cuốn nhật ký 59-63của bà Nhu. Nguồn Capt. JVT

Đại úy James Van Thach với cuốn nhật ký 59-63 của bà Nhu. Nguồn Capt. JVT

Đó là Đại úy (nghỉ hưu) James Van Thach. Đại úy James là con của Trung tá John W. Peterkin (nghỉ hưu), một cựu sĩ quan Hoa Kỳ đã phục vụ trong Thế chiến thứ II, chiến tranh Đại Hàn, cố vấn ở chiến trường Việt Nam và bà Thạch Thị Ngọc, nữ lực sĩ giữ kỷ lục nhảy cao của Việt Nam từ 1966-1968. Đại úy James sinh năm 1976 lớn lên ở Bellerose, Queens, New York, tốt nghiệp Cử nhân khoa Sử tại St. John’s University (1998) và Juris Doctor tại Touro College Jacob D. Fuchsberg Law Center (2002).

Thay vì làm luật gia cho quân đội hay mở văn phòng tư vấn dân sự, ông đã xung phong ra trận dưới màu áo của một sĩ quan bộ binh. Đại úy James đã phục vụ ở chiến trường Iraq 24 tháng. Tại đây, ông bị trọng thương hai lần, và đã giải ngũ vào năm 2009 mang theo những chấn thương tinh thần và thể chất. Năm 2008 chính phủ Iraq trao tặng ông cấp bậc Chuẩn Tướng Tham mưu Danh dự. Đầu năm 2013, Đại úy James đã tình nguyện sang Afghanistan để nói chuyện với các binh sĩ tại đây về kinh nghiệm chiến trường và các nỗ lực hàn gắn chấn thương tâm lý.(21)

Trao đổi với James, người ta có thể thấy ngay sự say mê cháy bỏng tìm hiểu lịch sử Việt Nam của ông. Một người tuổi chưa đến 40, sinh trưởng tại Hoa Kỳ, không thạo tiếng Việt nhưng ông có kiến thức và ý thức sâu sắc về lịch sử cận đại cũng như tình hình xã hội, kinh tế, chính trị của Việt Nam hiện nay.

Trả lời câu hỏi từ đâu ông có cuốn nhật ký 59-63, James nói, như đã nói với tác giả Demery, ông có bà con phục vụ dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa, trong quân đội và cảnh sát. Vì là thế hệ kế thừa của gia đình nên ông được trao lại cuốn nhật ký này.

Nếu tra cứu tài liệu liên quan đến giai đoạn lịch sử Việt Nam ở những thập niên 50-60 người ta có thể biết rằng chính phủ VNCH đã tịch thu tài sản của toàn gia đình Quốc trưởng Bảo Đại và của những người liên hệ với ông bằng đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958.(22)

Sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, cũng thế, Hội đồng Quân nhân Cách mạng cũng có Ủy Ban Tịch Thu Tài Sản Gia Đình Họ Ngô.(23)

Hơn nữa sau cuộc chỉnh lý 30/1/1964, chính phủ của Tướng Nguyễn Khánh đã tổ chức triển lãm ‟tội ác nhà Ngô”. Trong cuộc triển lãm được ký giả David Horowitz đài NBC tường thuật trong chương trình phát hình ngày 28 tháng 3, 1964 người ta thấy một tấm bảng lớn ghi ‟Sự thật về ngày 11.11.1960. Tài liệu tối mật trích nhật ký của bà Ngô Đình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân” bên dưới là ảnh chụp nhật ký của Bà Nhu được phóng lớn trưng bày bên cạnh các sơ đồ tham nhũng của chính phủ Ngô Đình Diệm.(24)

Tài liệu tối mật trích nhật ký của bà Ngô Đình Nhu. Nguồn: NBC News

Tài liệu tối mật trích nhật ký của bà Ngô Đình Nhu. Nguồn: NBC News

Trong ‟Tuyên bố của Bà Ngô Đình Nhu nhân dịp kỷ niệm Đệ nhị Chu niên Chương trình Ấp Chiến lược và Đệ nhị Chu niên Chính sách Chiêu hồi” ngày 17 tháng 4, 1964, ở cuối trang 3 và đầu trang 4, bà Nhu xác định bà cũng đã biết về cuộc triển lãm trưng bày một vài đoạn trong ‟cái gọi là ‘nhật ký riêng tư’ được xem là của tôi” viết về ngày 11/11/1960. Bà Nhu phản đối những người tổ chức triển lãm vì họ đã không được phép của bà, tác giả giữ tác quyền (‟…they have never obtained my author’s rights which South Vietnam has recognized in the signing of the international copyright agreement.”)(25)

Từ tháng 11, 1963 đến khi cuốn nhật ký của bà Nhu đến tay Đại úy James, không ai biết nó đã từng được bảo quản thế nào, ở đâu, từng do ai cất giữ trong suốt gian đoạn hỗn loạn 1963-1967, rồi suốt những năm của đệ nhị Cộng hòa đến ngày 30 tháng 4, 1975.

Trả lời câu hỏi ông có dự định thế nào với cuốn nhật ký 59-63, Đại úy James cho biết trong thời gian qua có một số người quan tâm đã liên lạc với ông về vấn đề này.

Trước nhất là gia đình bà Nhu; ông Olindo Borsoi, chồng của bà Ngô Đình Lệ Quyên, đã liên lạc với Đại úy James để tìm hiểu về cuốn nhật ký đó và muốn ông giao nó lại cho gia đình họ Ngô Đình để đưa vào một viện bảo tàng (sắp thành lập) trưng bày cùng với tất cả hình ảnh, tư liệu, thư từ như một khối di sản của dòng họ Ngô Đình để lại cho hậu thế.

Thứ hai là một trong những văn khố nghiên cứu lớn hàng đầu trên thế giới lưu trữ các ấn phẩm, tác phẩm hiếm về những sự kiện chính trị, xã hội và kinh tế trong thời kỳ hiện đại.

Thứ ba là một cơ quan truyền thông Việt ngữ. Cơ sở này muốn đứng ra phát hành cuốn nhật ký 59-63 và muốn giữ quyền lựa chọn và hiệu đính nội dung.

Cả hai đề nghị của gia đình bà Nhu và của cơ sở truyền thông tiếng Việt vừa kể không thích hợp với quan điểm và dự tính của người đang giữ cuốn nhật ký. Đại úy James mong muốn cuốn hồi ký được phát hành bằng nguyên bản tiếng Pháp, như bà Nhu đã viết, không hiệu đính, chỉnh sửa cùng lúc với hai bản dịch chuyên nghiệp sang tiếng Việt và tiếng Anh, sát với nội dung của nguyên bản.

James cho rằng cuốn nhật ký này là tài liệu mang tính lịch sử của Việt Nam; nó thuộc về toàn dân Việt Nam và là một tài liệu quan trọng cần được phổ biến khắp nơi, cho tất cả những ai quan tâm đến giai đoạn đó trong lịch sử Việt Nam cận đại. Cuốn nhật ký không thể chỉ là hàng mẫu trưng bày trong viện bảo tàng và nó cũng thể bị cắt xén, chỉnh sửa để xuất bản.

Đại úy James nói, ‟Đây là vấn đề cần thời gian; không thể vội vã.”

Trả lời câu hỏi tài chính có phải là một động cơ khiến ông muốn xuất bản cuốn nhật ký 59-63, Đại úy James dứt khoát, ‟không phải thế”; ông nói, ‟Cuốn nhật ký này ‘not for sale’. Nó vô giá.” Một dự tính của ông sau khi phát hành cuốn nhật ký là dùng tiền thu được để giúp chỉnh trang, làm cỏ cho Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cũ(26), nay gọi là nghĩa trang Bình An. James nói đó là điều tối thiểu ông có thể làm, như một chiến sĩ Hoa kỳ, thế hệ hậu duệ của VNCH, để bày tỏ lòng kính trọng và ngưỡng mộ với tất cả tử sĩ đã hy sinh bảo vệ nước, nhà.

Đôi điều về cuốn nhật ký của bà Nhu

Gia đình ô.b. Ngô Đình Nhu (Từ trái): Lệ Thủy, Trác, Lệ Quyên, Bà Nhu, Ông Nhu, Quỳnh (c.1961). Nguồn: Madame Ngo Dinh Nhu Facebook

Gia đình ô.b. Ngô Đình Nhu (Từ trái): Lệ Thủy, Trác, Lệ Quyên, Bà Nhu, Ông Nhu, Quỳnh (c.1961). Nguồn: Madame Ngo Dinh Nhu Facebook

Trong cuốn Finding the Dragon Lady, tác giả Demery chỉ trích đoạn một phần rất nhỏ trong cuốn nhật ký dầy hơn 350 trang. Phần trích dịch đó chỉ minh hoạt một phần nhỏ cuộc sống không hạnh phúc, ngay giữa lòng quyền lực, của Đệ nhất phu nhân nền đệ nhất Cộng hòa.

Trong nhật ký bà Nhu ghi lại những một số sự việc rất bình thường, từ sở thích cá nhân như xem xi nê Mỹ, đọc tiểu thuyết Nga, đi nghỉ mát với các con ở bãi bể hay trên cao nguyên. Bà Nhu, có lẽ cũng như bao phụ nữ khác, sợ già, sợ thời gian trôi nhanh… và trên những trang nhật ký, bà cũng ghi lại cuộc đời đau khổ làm vợ ông Nhu.

Khi dọn về ở trong Dinh Độc Lập bà Nhu lần đầu tiên hy vọng, từ khi có chồng, là đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn, bà sẽ thấy ông Nhu ở ‟nhà” thường hơn. Bà hy vọng mọi chuyện sẽ thuận chèo xuôi mái vì ông Nhu đã dầy công giúp Tổng thống Diệm củng cố chế độ, và bà cũng xứng đáng với cái ghế dân biểu quốc hội, và vai trò Đệ nhất phu nhân, giúp Thống tiếp đón quốc khách. Bà sẽ được hỗ trợ về tinh thần cũng như được đền đáp tình yêu thể xác, ông Nhu sẽ bỏ thuốc lá và dễ thương hơn đối với bà.

Khi những mong đợi đó không đến, những trận cãi vã kịch liệt, những cánh cửa xập chặt là kết quả. Bà đã chán cảnh ngồi chờ hầu chồng vì ông Nhu chẳng khi nào cần bà hầu hạ. Ban đầu bà Nhu không hiểu tại sao thế. Bà vẫn trẻ, vẫn đẹp. Bà viết trong nhật ký, có lẽ, ông Nhu đã già quá rồi, không còn thích chuyện gối chăn nữa. Bà tội nghiệp cho chồng, mất đi niềm hưng phấn vì mớ tuổi đời; nhưng ở những trang nhật ký khác bà Nhu lại tội nghiệp cho số phận của mình, phải sống với một ông già bất lực và phải tự tìm cách thỏa mãn những ‟ham muốn trào dâng”. Đến 1959, bà Nhu mang thai người con út, ông Nhu không hoàn toàn lạnh cảm với bà. Cũng thời gian đó, bà Nhu khám phá ông Nhu chỉ bất lực với bà, nhưng với một người đàn bà khác thì không.

Trong nhật ký 59-63, bà Nhu ghi chi tiết chuyện hai vợ chồng to tiếng khi tranh cãi về chuyện ông ngoại tình. Nhưng bà Nhu nổi điên không hẳn vì sự ngoại tình của chồng mà vì ông Nhu ngoại tình với một người con gái ‟thấp hèn”, ‟nhơ nhớp”. Bà kinh thường tình địch đến nỗi chỉ gọi thiếu nữ đó là ‟con ấy” [nguyên văn ‟creature”] chứ không gọi bằng tên.

Ông Nhu biện hộ cho ông và người tình, ông nói đó là một cô gái ngọt ngào, dễ thương, ‟chỉ nghèo chứ không nhơ nhớp”. Và hơn hết, cô gái ấy không như bà Nhu; ông Nhu nói ‟em làm tôi sợ.” Chiến tranh bùng nổ. Thỏa ước hòa bình chỉ đến vài ngày sau đó. Hai người đồng ý rằng hôn nhân của họ sẽ tốt hơn nếu hai người ít sống gần nhau.

Bà Nhu nhiều đêm thao thức, cố ngăn dòng lệ, tự hỏi ai là người đàn ông xa lạ đang ngủ cạnh mình; tình yêu trong xi nê, hay như truyện trong sách không đến với bà. Bà từng nghĩ, với sắc đẹp của tuổi đang xuân, sự bặt thiệp ngoài xã hội, và là mẹ của những đứa con bà có thể giữ được chồng. Thế mà, với ông, bà vẫn là một kẻ vô hình trong Dinh Độc Lập.

Chắc chắn, là người quá mộ đạo, ông Nhu sẽ không li dị bà. Và bà không thể bỏ ông Nhu. Không có ông Nhu thì bà sẽ là ai?

Ngay trang đầu tiên của cuốn nhật ký viết ngày 28 tháng giêng năm 1958, người đàn bà 34 tuổi, trẻ đẹp viết về cái chết. Độ trầm cảm sâu thẳm đó hoàn toàn mâu thuẫn với ứng xử bề ngoài của một người đầy tự tin. Vài ngày sau đó bà đi đến quyết định bỏ đi ‟những giấc mộng hồng và những giấc mơ xanh”, bà chấp nhận rằng bà sẽ không thể nào là một cái gì đó hơn như bà đang ở thời hiện tại. Về tình chồng vợ, bà Nhu viết, ‟Anh ấy không còn trẻ để làm hơn thế nữa.” Nhưng đôi khi ông Nhu trỗi dậy thì lại không đúng lúc hay không như bà mong đợi. Bà chán nản với sự bất công: chồng bà có một thời son trẻ ong ướm huy hoàng, còn bà mới 34 mà chỉ được hưởng của thừa, của sót lại của ông Nhu. Không khó để đoán được bà Nhu chờ mong cái gì. Bà phải tìm những cách khác để ‟dập tắt ngọn lửa dục vọng của mình”.

Dù cố tình lẩn trách, cuốn nhật ký 59-63 đã cho thấy rõ nhu cầu tình cảm của bà Nhu chỉ được thỏa mãn khi bà xác định được vị trí ở chính trường. Bà từ từ bị bót ngạt và ngã quỵ vì cuộc hôn nhân không tình ái, chung quanh chỉ còn những người không có tâm hồn và những khát khao như bà.

Bà Nhu viết cho chính mình, ‟Càng ngày mình càng yêu anh ấy ít đi.”

Bà Nhu, dường như, cũng đã biết đến tình yêu một chốc bằng vài cuộc tình lẻ. Trong những trang nhật ký đó bà Nhu viết về ba người đàn ông, nhưng chỉ bằng tên tắt là L, K và H. Và bà cũng viết, ‟Hạnh phúc thay chưa gặp ai có tất cả”. ‟Tất cả” trong ngữ cảnh này là sự chân thành, kính trọng, và tình yêu tha thiết – những đức tính cần có để xứng với phẩm chất của bà. Dường như H là người gần có ‟tất cả” vì tính năng động, và cung cách lạ thường trong cuộc săn đuổi tình yêu của bà Nhu. Bà Nhu hỏi H, ‟Anh có thế này với tất cả đàn bà không?” Câu trả lời của H đã đưa bà lên mây xanh, ‟Em tưởng đàn bà ai cũng như em sao? Anh phải vượt biển mới tìm được em đó.”

Ông H đã hiểu bà Nhu. H yêu Lệ Xuân vì Lệ Xuân là Lệ Xuân: đẹp lộng lẫy, cao ngạo, ngang bướng, người đàn bà không chấp nhận vị trí đã được những người đàn ông xung quanh khoanh vòng, đặt chỗ.

Nhưng, cuốn nhật ký 59-63 của bà Nhu không chỉ là những trang giấy cũ ghi chép những cuộc tình thoáng chốc, những vụ cãi vã ghen tuông, hay mức trầm cảm của một thiếu phụ đời thường. Trong cuốn nhật ký đó ngoài những trang viết về gia đình, về chồng, về con, về chị, về em, bà Nhu còn ghi lại rất nhiều sự kiện quan trọng về Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính sách của ông, về những nhận vật quan trọng ở trung tâm quyền lực thời đệ nhất Cộng hòa, kể cả ông bà cựu Đại sứ Trần Văn Chương, hay những tướng tá và những người khác, và các sự kiện chính trị quan trọng.

Chỉ một thí dụ, trang nhật ký ngày 12 tháng 11, năm 1960 bà Nhu ghi lại những gì xảy ra ngày 11/11/1963, Vương Văn Đông đã làm gì, Nguyễn Khánh đã làm gì, Tổng thống Diệm ứng phó ra sao, và bà đã làm gì.

Hồi ký và nhật ký khác nhau được sử đụng khác nhau trong các nghiên cứu lịch sử.

Nhật ký, trong nghiên cứu lịch sử, là một nguồn tại liệu khó sánh kịp về phẩm cũng như lượng. Nhật ký đã cung cấp cho sử gia và mọi người một cái nhìn sâu sắc về quá khứ. Nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử đã dùng nhật ký để ghi lại những gì đang xảy ra với họ và với đất nước của họ suốt dòng lịch sử. Nhiều cuốn nhật ký đã được công bố và có một số đã đi vào lịch sử lịch sử và trở thành những tài liệu văn học trên thế giới. Thí dụ cuốn nhật ký 1660-1669 của của Samuel Pepys trở thành nguồn sử liệu cho giới nghiên cứu về đời sống ở London trong những năm 1960. Nó ghi lại nhiều sự kiện quan trọng thời đó: bệnh dịch lớn ở London vào năm 1665, vụ hỏa hoạn ở London năm 1666. Cuốn nhật ký của Semuel Pepys đã cho sử gia thấy rõ những gì đã xảy ra ở London trong thời đó.

Quan trọng không kém, cuốn nhật ký của bà Nhu viết từ ngày 28 tháng giêng, 1959 đến ngày 7 tháng 6, 1963, khi xuất bản, sẽ trở thành chứng từ, tài liệu lịch sử giúp cho giới nghiên cứu hiểu rõ, hiểu thêm về chính phủ Ngô Đình Diệm, về các cuộc chính biến, về những nhân vật đã trực tiếp và gián tiếp viết lên những trang sử Việt Nam thời đó, v.v. Hơn nữa, cuốn nhật ký đó còn có thể là một tài liệu để giới phân tâm học, các chuyên gia tâm lý nghiên cứu và phân tích một cách khoa học để vẽ lại chính xác hình ảnh của nhân vật lịch sử đầy quyến rũ và mâu thuẫn.

Ngoài lời xác định của tác giả Demery, người đã liên lạc, làm việc với và biết nét chữ của bà Nhu, rằng quyển nhật ký đó do bà Nhu Viết, một chuyên viên lưu trữ tại Đại học Stanford đã được xem cuốn nhật ký nói rằng chữ viết tay trong đó ‟tương tự hoặc giống như” chữ viết tay trên lá thư giữa bà Nhu và các viên chức Hoa Kỳ trong cùng thời gian đó.(27)

Cuốn nhật ký 59-63 của bà Nhu, không còn nghi ngờ gì nữa, nó phải được xuất bản, công bố cho tất cả mọi người quan tâm đến lịch sử Việt Nam.

Trở lại cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu, qua những trang hồi ký gởi cho Demery, bà Nhu luôn luôn thần tượng hóa chính bà và lịch sử của gia đình bà. Sai sót duy nhất, nếu có thể xem là thế, một lần bà Nhu thì thầm qua điện thoại, ‟Có lẽ, tôi đã nên khiêm nhường hơn một chút về sự vĩ đại của gia đình tôi.” Demery cũng nhắc lại câu chuyện này trong chương trình ‟The Daily Show” với Jon Stewart hôm 6/11/2013. Bạn đọc cũng có thể theo dõi tác giả Demery trao đổi với ký giả Andrew Lam và khán giả trong chương trình  BookTV (C-SPAN2).(28)

Tác phẩm của Demery là một công trình nghiên cứu đáng chú ý không chỉ vì nó đã phác họa được cuộc đời của một nhân vật nhiều phức tạp và bí ẩn đã góp phần viết nên lịch sử Việt Nam mà còn phải kể đến sự kiên nhẫn, khéo léo của tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu đã làm việc với một chính khách lưu vong dù đã đi vào quên lãng như vẫn còn cái cao ngạo đáng ghét của một thời đầy quyền lực.

Là một độc giả, người viết cảm ơn tác giả Monique Brinson Demery đã viết cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu.

Sau cùng xin cảm ơn Đại úy James Van Thach đã thật chân thành, sốt sắng và xuyên suốt trong các cuộc trao đổi với người viết.

 

(18) David G. Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power, 1995, University of California Press, Ltd. London, England, pp116–8.
(19) Charles Mohr, The Queen Bee, Time, August 9, 1963, p. 24
(20) Trang Pháp Luật, Luật Bảo vệ Luân lý, 21/1/2014.
(21) – Captain James Van Thach as told to Jonathan Wei, The Many Sacrifices of Captain Van Thach New York Village Voice. May 8, 2013.
Wounded U.S. Army Captain Goes to War Zone in Afghanistan, New York City, NY (PRWEB) March 18, 2013;
- Đinh Yên Thảo, Đại úy James Văn Thạch, Trẻ Dallas 729, 26/5/2011, trang 28-33.
- Đinh Yên Thảo, Khi người thương binh trở lại chiến trường, Trẻ Dallas 834, 30/5/2013, trang 34-36.
- CBS News, Captain James Van Thach Iraq War Veteran Forms Extra-Special bond with Canine Companion, 2012.
- FOX News, Captain James Van Thach & Colonel Woycik talk about Service Dogs from CCI , 2012.
(22) Huy Phương/ Người Việt, Hoàng tử Bảo Ân: Từ truất phế đến tịch biên gia sản, Người Việt, April 08, 2013.
(23) Phạm Bá Hoa, Đôi dòng ghi nhớ. Houston, TX: Ngày Nay, 1994), tr. 80-81.
(24) NBC News, South Vietnamese attend exhibit of evidence for Nhu family political trials. March 28, 1964. Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm có thể trả lệ phí tham khảo 1 phút phim phóng sự này của đài NBC.
(25) Madame Ngo Dinh Nhu, Statement of Madame Ngo Dinh Nhu on the occasion of the second anniversary of the Strategic Hamlets Program and the second anniversary of the ‟Chieu Hoi” (Open Arms or Return of the Prodigal Children) Policy, 7 April, 1964. Samuel Tankersley Williams Papers, Box 21 Folder 14, Hoover Institution Archives, pp. 48-58
(26) South Vietnam National Military Cemetery (1994)
(27) Katie Baker, Searching for Madame Nhu, The Daily Beast, Sept. 24, 2013.
(28) Monique Brinson Demery, Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame NhuBookTV (C-SPAN2)

Hồng Công chuyển 

 

jeudi 1 juillet 2021

TÌNH VÀ NGHĨA



Trong tiếng Việt có chữ Tình 情 và chữ Nghĩa 義. Chữ Nghĩa rất là khó dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh. Chữ Tình mà viết ra chữ Hán thì có chữ tâm忄 tức là trái tim phía bên trái. Bên phải có chữ thanh 青 là màu xanh, trái tim màu xanh. Ban đầu thì màu xanh mà về sau nó có thể biến thành màu khác, nhưng làm sao đừng để nó thành màu đen.

Tình ban đầu thường rất bồng bột, nóng bỏng, có tính đam mê. Khi con người bị năng lượng của tình chiếm cứ thì họ không được an ổn lắm. Ăn không an mà ngủ cũng không yên, họ như đang bị đốt cháy. Tình là ngọn lửa. Người nào qua cầu rồi thì mới hay. Vướng vào chữ tình rồi thì khó an trú trong hiện tại lắm. Cứ nghĩ tới giây phút mình sẽ được gặp người đó, được ngắm người đó, ngồi ngắm đủ no rồi, khỏi ăn. Càng nhiều trở ngại chừng nào thì đam mê đó càng lớn. Trở ngại là chất liệu làm cho tình càng lớn. Dễ dàng quá thì tình không lớn mạnh.
Ngày xưa khi chưa có e-mail, chưa có téléphone, đôi khi mình đợi một lá thư tình cả tuần này sang tuần khác. Đáng lý hôm qua lá thư tới rồi, nhưng sao nó chưa tới?
Mình đợi suốt hai mươi bốn giờ đồng hồ cho đến lúc ông phát thư đi ngang trước ngõ. Ông thường đến lúc mười giờ sáng, thì chín giờ mình đã bắt đầu đứng đợi. Ông phát thư sáng nay sao đi trể quá, đi chậm quá, mình đếm từng bước của ông đi. Nếu ông đi ngang mà không dừng lại thì mình buồn lắm, lại phải đợi thêm hai mươi bốn giờ đồng hồ nữa. Tây Phương họ ví khi yêu như bị té (tombé d’amour), đang đi bình thường tự nhiên té xuống. Người Việt Nam thay vì nói bị té thì nói ốm . Tây Phương cũng nói ốm. Nguyễn Bính có hai câu thơ :
Gió mưa là bệnh của trời.
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Trời đẹp thì không có bệnh mà hể có gió, có mưa là bị bệnh. Tương tư tức nhớ nhau, không làm ăn được gì hết. Tình thường thường không được thỏa mãn là tình sầu. Ốm là ốm tương tư, tương tư là nhớ nhau. Tình yêu là một cơn bệnh, ốm tương tư tức là nhớ quá. Nhưng nếu tình yêu đó được thỏa mãn dễ dàng, nó bùng lên rất nhanh nhưng rồi nó chết cũng rất mau. Đam mê nó lên như một ngọn lửa cao và khi rơi xuống thì cũng rất là mau, tình yêu tàn lụi rất là mau. Một cặp ở với nhau được lâu dài, cái đó không phải là nhờ tình yêu mà nhờ yếu tố thứ hai. Đó là nghĩa, tình nghĩa. Cái tình nó đưa tới cái nghĩa. Nếu cái tình đàng hoàng, nếu mình biết yêu cho đàng hoàng, thì tự nhiên nó đưa tới cái nghĩa. Chính nghĩa là keo sơn gắn chặt hai người, để hai người có thể sống được với nhau. Cho nên phải có cái nghĩa để bổ sung cái tình. Người ta không thể sống trăm năm bên nhau với tình được. Bởi tình là một ngọn lửa tàn rất mau, nghĩa trái lại nuôi dưỡng lửa tình âm ỉ cháy.
Chữ nghĩa thường đi đôi với chữ ơn: ơn nghĩa. Ơn đầu tiên mà mình nhận được là ý thức rằng : Có bao nhiêu người con gái, anh ấy không chọn mà anh chọn riêng mình? Biết bao nhiêu người con trai có bằng cấp, địa vị nàng không chọn mà nàng lại chọn mình? Ý thức đó là ơn. Tình yêu này nó không chỉ trong vòng nam nữ. Bạn bè cũng vậy, Cha mẹ cũng vậy, Thầy trò cũng vậy. Mình sinh ra một đứa con và đứa con đã chọn mình làm mẹ, chọn mình làm cha. Tại sao nó không sinh ra ở nhà khác? Cha mẹ có thể biết ơn đứa con, sự ra đời của đứa con có thể đem lại ánh sáng và hạnh phúc cho cuộc đời còn lại, nên cha mẹ yêu thương con. Cũng như thầy trò, tại sao có nhiều thầy, người đó có thể tới quy y mà người ta chọn thầy này. Người thầy cũng biết ơn người đệ tử. Ơn đó là yếu tố của hạnh phúc. Tại sao anh không chọn người khác? Sự lựa chọn đó là do đâu mà có? Nếu chỉ là sự ham muốn sắc đẹp thôi, không đủ, phải có cái gì đó.
Ở bên Mỹ có anh chàng đó rất đẹp trai, tài ba, tốt nghiệp đại học thuộc hàng ưu tú và có việc làm lương rất lớn lại có rất nhiều cô bạn gái thật là xinh đẹp. Bà mẹ rất là ngạc nhiên khi thấy anh thân với một cô gái không phải là đẹp nhất. Cô này hơi thấp và nước da hơi đen, mà sao con trai của mình có vẻ thích cô này hơn các cô khác. Hôm đó hai mẹ con ngồi với nhau, bà hỏi có bao nhiêu người con không chọn, mà sao con chọn con nhỏ này vừa đen vừa thấp. Anh chàng không biết trả lời làm sao hết, anh chàng chưa suy nghĩ nên khi bị hỏi bất ngờ, anh không trả lời mẹ được. Nhưng ít lâu sau anh ta quán chiếu và tìm ra câu trả lời, cô này mỗi khi anh nói chuyện thì cô lắng nghe. Anh là nhà khoa học nhưng anh cũng ưa làm thơ. Mỗi khi anh đọc thơ, cô lắng nghe và cô chứng tỏ hiểu được thơ của anh. Còn những cô gái kia cũng nghe thơ anh nhưng mà nghe do phép lịch sự thôi, bị nghe thơ chứ không thích. Cô này thì khác, cô thích thơ, cô thưởng thơ, cô tham gia thơ và cô trở thành tri kỷ của anh chàng. Trên cuộc đời này có thể tìm được một người có thể hiểu mình được thì mình là người có hạnh phúc. Món quà quý nhất mà người kia có thể tặng cho mình là hiểu được mình. Có những người sống trong cuộc đời này nhưng chưa bao giờ tìm được một người có thể gọi là hiểu mình cả. Mà nếu mình là một người con trai hay một người con gái và trong cuộc sống này mình có thể tìm được một người có khả năng lắng nghe mình, có thể hiểu được mình, hiểu những khó khăn những khổ đau những ước vọng của mình, thì mình tìm thấy nơi người đó một tâm hồn tri kỷ- như trong câu chuyện nổi tiếng Bá Nha, Tử kỳ ngày xưa.

Đời người mà tìm ra được một người hiểu mình, thật là hạnh phúc vô cùng. Con mà hiểu cha, đệ tử mà hiểu thầy cũng làm cho cha, cho thầy hạnh phúc. Người mà hiểu được mình thì mình biết ơn người đó. Cảm ơn em đã hiểu được anh, cảm ơn con đã hiểu được cha, cảm ơn cha đã hiểu được con. Tu tập là làm thế nào để có thể hiểu được người khác. Muốn hiểu thì phải lắng nghe, phải quan sát mới hiểu được. Khi sống với một người có khả năng hiểu mình thì hạnh phúc lắm, vì hiểu là nền tảng của thương. Không hiểu thì không thể nào thương được. Cho nên trong tình yêu đôi lứa phải cẩn thận. Mà tình yêu đôi lứa mình chỉ cần làm vài cái test thì mình biết là người đó hiểu mình hay là không. Nếu người đó không hiểu được mình thì dù người đó có bằng cấp cao, lương tiền lớn, ô tô đẹp, có nhà cửa, bảnh trai, hay là có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, cưới người đó mình cũng sẽ khổ suốt đời, gọi là khổ sai chung thân. Đó là một nhà tù, tình yêu là một nhà tù. Người nào mà khi mình mới nói đã cắt lời, thích khoe khoang cái riêng của họ, không có khả năng hiểu được những khó khăn, khổ đau của người khác, không biết lắng nghe mình, thì chỉ cần vài ba phút là mình có thể nhận ra được. Đừng để bị hấp dẫn bởi bề ngoài, những bóng sắc bên ngoài, địa vị danh lợi, xe hơi, nhà cửa, tiền lương, bằng cấp. Đừng để những cái đó làm mờ mắt mình.

Trong xã hội mới phát triển của chúng ta, một cô gái có thể đánh mất tiết trinh của mình để đánh đổi lấy một chiếc xe gắn máy. Thật là dễ sợ, đạo đức suy đồi đến như thế đó. Tại vì muốn thoát ra khỏi thân phận nghèo khổ, vì muốn có một chiếc xe giống như người khác họ đã đánh mất cái quý giá nhất của đời mình. Chuyện đó đã xảy ra, nó đang xảy ra.
Trong đạo Phật, cái thương đích thực nó được làm bằng cái hiểu, không hiểu thì không có thương. Cha mà nếu không hiểu con thì càng thương con, con càng khổ. Vợ không hiểu chồng càng thương chồng, chồng càng khổ. Hiểu là nền tảng của tình thương. Sống với nhau như thế nào để càng ngày mình càng hiểu được nhiều hơn và người kia càng ngày càng hiểu được mình nhiều hơn. Nếu cái hiểu không lớn lên, thì cái thương nó cũng không lớn lên, nó dẫm chân tại chỗ. Khi mà tình thương không lớn thêm thì từ từ nó co rút lại cho đến khi trở thành một cục cứng ngắt. Tình yêu có thể chết nếu mình không biết nuôi dưỡng nó bằng cái hiểu và cái thương. Còn khi người kia hiểu mình thì mình biết ơn người đó, biết ơn suốt đời. Chính cái ơn đó là chất liệu nuôi dưỡng mình và người đó cho đến suốt đời, cái đó là nghĩa. Không phải là cái bồng bột lúc ban đâu.
Ở Việt Nam ngày xưa người ta không nấu cơm bằng gas hay là bằng điện mà nấu bằng rơm và rơm cháy rất mau. Có cách để làm cho nó cháy chậm lại, mình cần một chiếc đủa. Đặt một nắm rơm vô bếp, lấy cái đủa đè xuống thì rơm sẽ cháy từ từ. Ngày xưa miền quê Việt Nam còn dùng trấu. Trấu tức là vỏ hạt lúa. Nhiều nhà không có hộp quẹt nên phải nuôi lửa. Muốn nuôi lửa lâu mình đổ vào bếp một ít trấu. Trấu cháy ngún, cháy lâu. Nó không cháy bùng như rơm mà cháy chầm chậm suốt đêm. Sáng mai mình khơi ra thì còn lửa ở trong đó, gọi là lửa trấu. Lửa rơm thì mau cháy, mau tàn-đó là ngọn lửa tình. Còn nghĩa là lửa trấu, nó cháy âm ỉ suốt đêm dài. Lửa trấu ngún cháy cả ngày đêm rất lâu. Lửa rơm được ví cho cho tình yêu. Lửa trấu tượng trưng cho nghĩa.

Ân nghĩa là cái tiếp nối của chữ tình. Cái tình bắt đầu cho khéo để từ từ nó đi tới cái nghĩa. Ân nghĩa là chất liệu nuôi dưỡng một cặp vợ chồng cho tới khi đầu bạc và răng long. Nghĩa là sự thực tập về tình yêu, mỗi ngày mình phải làm cho cái tình của mình lớn lên và nó biến thành nghĩa. Mỗi ngày mình phải xây dựng cái ơn và cái nghĩa. Mỗi lời nói mỗi cử chỉ săn sóc đều tạo ra ơn và nghĩa hết. Chính cái đó là keo sơn, nó giúp cho một cặp vợ chồng sống với nhau suốt đời. Tình bạn cũng vậy, tình bạn thì không có sự cháy bùng, không có sự đam mê như là tình yêu. Cho nên tình bạn nó dễ hơn nhiều. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói rất rõ là tình bạn lâu dài bền chắc, nó nuôi dưỡng mình nhiều hơn tình yêu. Vì vậy bí quyết là mình phải biến tình yêu lúc ban đầu trở thành tình bạn. Hai người ban đầu là hai người yêu nhưng mà từ từ sẽ trở thành hai người bạn. Khi trở thành hai người bạn thì đó là tình yêu đang còn. Còn nếu tình yêu không trở thành tình bạn được thì tình yêu sẽ chết. Mà sở dĩ tình yêu trở thành tình bạn được là vì mình phát khởi được cái ơn và cái nghĩa. Ơn nghĩa đó như đã nói ở trên, nó bắt đầu từ chỗ ý thức được rằng tại sao giữa bao nhiêu người con trai người đó lại chọn mình, nên mình biết ơn người con gái đó. Giữa bao nhiêu người con gái đẹp mà mình chọn một người thôi thì cái đó là bắt đầu từ chọn. Cái chọn này không phải là nhất thời, cái chọn này là phải xãy ra trong một quá trình nào đó với trí tuệ của mình chứ không phải chỉ với đam mê mà thôi. Nếu tình chỉ chỉ có đam mê thì mình sẽ hối hận, phải có trí tuệ và phải biết lắng nghe. Lắng nghe bạn bè, lắng nghe cha mẹ, lắng nghe các em của mình. Tại vì họ cũng có cái thấy mà cái thấy của họ đôi khi khách quan hơn mình. Mình đam mê rồi thì mình không còn thấy được sự thật rõ ràng bằng những người khác.

Pháp thoại làng Mai Thích Nhất Hạnh
Minh Phượng chuyển



KHÁC BIỆT VÀ TƯƠNG ĐỒNG


Một bài viết trên tạp chí công giáo Aleteia nhận xétMẹ Têrêsa và công nương Diana có hai cuộc sống rất khác biệt; một bên là vị thánh chấp nhận cuộc đời hàn vi để phục vụ “những người nghèo nhất trong số người nghèo”, bên kia là công nương kiều diễm của hoàng gia Anh. Tuy nhiên, cả hai người phụ nữ này có điểm tương đồng là, họ đều mở rộng tấm lòng nhân hậu cho những người khốn khó, và đây cũng chính là cầu nối để xây dựng một tình bạn vong niên.

Kính thưa Anh Chị em,

Như tính cách của Mẹ Têrêxa và công nương Diana, Lời Chúa ngày lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô hôm nay là ngày lễ nhớ đến hai vị thánh của những khác biệt và tương đồng. Chính qua hai tính cáchnày, Chúa Kitô sẽ đặt nền móng cho toà nhà Giáo Hội.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trực tiếp trao chìa khoá Nước Trời cho Phêrô, một biểu tượng của thẩm quyền, thì Phaolô chưa một lần gặp Chúa Giêsu trước khi Ngài qua đờiPhêrô chỉ là một ngư phủđánh cá  vùng quê Galilê, Phaolô là một biệt phái uyên bác từ thành phố đại học Tarsus; ngôn ngữ đầu tiên của Phêrô là tiếng Aram, ngôn ngữ đầu tiên của Phaolô là tiếng Hy Lạp; Phêrô biết Chúa Giêsu sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan, Phaolô chỉ gặp Chúa Phục Sinh ở một vùng lân cận thành Đamas; và trong khi Phêrô được gọi là đá, tâm điểm của sự hợp nhất Hội Thánh, thì Phaolô được gọi làm tông đồ dân ngoạiMỗi vị đều có những kinh nghiệm rất khác nhau về Đấng đã kêu gọi mình và mỗi người nhận một sứ mệnh cũng rất khác biệt từ Ngài; thế nhưng, chung quy, họ đã cùng nhau xây dựng Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô.

Bên cạnh đó, Phêrô và Phaolô cũng có những điểm rất tương đồng. Nếu Phêrô đã chối Thầy, thì Phaolô cũng đã bách hại Thầy khi bắt bớ Hội Thánh; và một trong những nét tương đồng nhất của hai ngài, là cùng bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá và cả hai đều được đỡ nâng.

Bài đọc thứ nhất hôm nay tiết lộ cho chúng ta điều đã xảy ra với Phêrô. Sách Công Vụ Tông Đồ ghi nhận, “Thấy việc giết Giacôbê đẹp lòng người Do TháiHêrôđê cho tống ngục Phêrôgiao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ”; cũng thế, bài đọc thứ hai, từ trong ngục thất, Phaolô viết cho Timôtê với ý thức rằng, cuộc đời ngài sắp kết thúc, “Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồiVậy mà khi hai ngài đi theo con đường thập giá của Thầycác ngài đều khám phá ra rằng, Chúa đang nâng đỡ các ngài, nâng đỡ một cách đặc biệtCông Vụ Tông Đồ tiếp tục cho biết, Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội Thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho ngài”; chính thiên thần Chúa đã vào tận ngục giải thoát Phêrô, khiến ngài tưởng như mơ, “Thiên thần lại bảo Phêrô, “Hãy khoác áo vào mà theo ta; để cuối cùng, Phêrô kết luận, “Bây giờ, tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do Thái!”. Cũng thế, qua thư Timôtê, Phaolô lại tuyên bố, “Có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn.Như thế, Chúa đã ở cùng hai ngài, giải thoát hai ngài, đúng như Thánh Vịnh đáp ca tuyên tín, “Chúa đã giải thoát tôi khỏi mọi nỗi kinh hoàng!”.

Một trong những tương đồng nổi bật nhất chính là triều thiên tử đạodành cho hai ngài; có khác chăng là Phêrô chịu đóng đinh ngược, Phaolô bị chặt đầu; Phêrô trong thành, Phaolô ngoại thành. Vậy mà thật lạ lùng, hai con người ‘khác biệt và tương đồng’ này đã hợp tác với nhau để sau hơn 2000 năm, Tin Mừng Chúa Kitô được rao giảng khắp cùng thế giới.

Anh Chị em,

Dù ở bậc sống nào, ơn kêu gọi của mỗi người chúng ta vẫn là duy nhất.Chúa làm việc qua chúng ta với tất cả sự độc đáo và khác biệt của mỗi người; Chúa không tìm kiếm sự đồng nhất nhưng tìm kiếm sự hợp nhất trong đa dạng. Chúng ta ‘khác biệt và tương đồng’ với nhau vì chúng ta cùng đi trên một con đường Chúa đã đi“Đường Thập Giá”. Như hai thánh tông đồ, khi cố gắng trung thành với ơn gọi của mình, chúng ta cũng sẽ khám phá ra sự hiện diện bền vững và sự đỡ nâng đặc biệt của Ngài trong cuộc sống. Ngày lễ hôm nay cũng trấn an chúng ta rằng, bất xứng của chúng ta không là trở ngại cho công trình Chúa đang thực hiện; những thất bại của chúng ta không xác định chúng ta là ai. Phaolô sẽ tiếp tục nói, Ân sủng của Thiên Chúa đối với tôi không hề vô íchCũng thế, âsủng của Chúa đối với chúng ta trong tình trạng yếu đuối cũng không bao giờ là vô ích nếu chúng ta tiếp tục mở lòng đón nhận công việc của ân sủng như hai thánh tông đồ.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

Lạy Chúa, Chúa đã làm những việc cả thể, lạ lùng trên hai con người yếu hèn và mỏng dòn này; xin hãy cứ làm điều tương tự trên con”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)


T.Anh chuyển


CHẤP DÍNH LÀ GỐC KHỔ ĐAU



( Thiền Quán trong Kinh Điển Đạo Phật)

1. Sở dĩ người ta đau khổ là do đeo đuổi những thứ sai lầm.

2. Nếu bạn không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho bạn. Tất cả do nội tâm bạn. Chỉ do bạn không chịu buông xuống.

3. Bạn hãy luôn cảm ơn những ai tạo ra nghịch cảnh cho bạn.

4. Bạn phải luôn thật sự mở lòng khoan dung, lượng thứ cho người khác, cho dù họ xấu bao nhiêu, thậm chí họ đã làm tổn thương bạn. Bạn phải buông bỏ để có được niềm vui đích thực.

5. Khi đang vui, bạn nên nghĩ rằng niềm vui này không vĩnh hằng. Khi đau khổ, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.

6. Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho ngày mai.

7. Bạn có thể có tình yêu nhưng đừng nên dính mắc, vì chia ly là lẽ tất nhiên.

8. Đừng lãng phí mạng sống mình tại những nơi mà nhất định bạn sẽ ân hận.

9. Khi nào bạn thật sự buông xuống thì lúc ấy bạn sẽ hết phiền não.

10. Mỗi một vết thương đều là một sự trưởng thành.

11.Người cuồng vọng còn cứu được, người tự ti thì vô phương. Chỉ khi nhận thức được mình, hàng phục chính mình, tự sửa đổi mình, bạn mới có thể
thay đổi người khác.

T.Anh chuyển

dimanche 27 juin 2021

Chìa khóa vạn năng

 


(Suy niệm Tin mừng Mác-cô (5, 21-43) trích đọc vào Chúa Nhật 13 thường niên) 

 

Có một ông vua rất giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, rất nhiều người không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng. 

Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết. 

 

Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Ngài là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng kiếm chác được gì.  

Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy: 

 

Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết 

Một phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giê-su, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao.   

Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác[1] nên bà không dám công khai gặp Chúa Giê-su, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Ngài, tự nhủ lòng rằng: "Mình chỉ cần sờ được vào áo Ngài thôi là sẽ được cứu." Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giê-su thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành. 

Chúa Giê-su biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giê-su bảo:  "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh." 

Chính Chúa Giê-su xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y. 

  

Trường hợp ông trưởng hội đường 

Ông trưởng hội đường đang cùng Chúa Giê-su tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối, thì người nhà của ông này chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.  

Nghe vậy, Chúa Giê-su động viên ông ta: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi." Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.  

Một lần nữa, Tin mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống! 

  

Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin thì mới đạt được điều mong muốn và không tin thì chẳng được gì[2]. Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta làm được tất cả như lời Chúa Giê-su dạy: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được"[3] 

 

Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.  

Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.  

 

Lạy Chúa Giê-su, 

Chúng con tạ ơn Chúa đã trao vào tay mỗi người chúng con chìa khóa thần kỳ để mở kho tàng ân sủng vô biên của Chúa. Xin cho chúng con biết sử dụng chìa khóa kỳ diệu này để chiếm hữu được những điều chúng con hằng khao khát đợi trông. 

 

Linh mục I-nha-xi-ô Trần Ngà 

 

Tin Mừng Mác-cô (5, 21-43) 

21 Đức Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ.22 Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người,23 và khẩn khoản nài xin: "Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống."24 Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. 

25 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm,26 bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác.27 Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.28 Vì bà tự nhủ: "Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu."29 Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh.30 Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: "Ai đã sờ vào áo tôi? "31 Các môn đệ thưa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi? "32 Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó.33 Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người.34 Người nói với bà ta: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh." 

35 Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa? "36 Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: "Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi."37 Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an.38 Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ.39 Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! "40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.41 Người cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha-kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! "42 Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ.43 Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn. 



[1] Lv 15, 25

[2] Mt 13, 58

[3]Xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22. 


T.Anh chuyển