Tôi sắp bước sang tuổi bảy mươi mốt nên thường nghĩ suy về đời người, thân phận con người mà chủ yếu là bản thân mình và bạn hữu. Khi có người gọi mình bằng bố hay ông là mình biết mình đã già. Biểu hiện dễ thấy nhất của tuổi già là sức khỏe giảm sút. Tất cả hệ thống tuần hoàn, tiêu hóa, bài tiết… đều “có vấn đề”. Ngoài chuyện tóc bạc răng long lại còn đau xương nhức khớp, ôi thôi lắm cái khổ.. Đa phần đến tuổi nầy không ai còn ham muốn gì ngoại trừ sức khỏe tốt, không bệnh tật và rà soát lại quảng đời đã trải qua.
samedi 7 novembre 2020
8 Giai Đoạn 'HỒI' Của Đời Người
vendredi 6 novembre 2020
NGƯỜI KHÔN KẺ DẠI
NGƯỜI KHÔN KẺ DẠI
Tỉnh thức trong tình yêu
Chắc chắn rằng dụ ngôn mười trinh nữ hướng tới thời cuối cùng, tương tự như các dụ ngôn trong đoạn trước và tiếp liền sau dụ ngôn này (chủ nhà, người đầy tớ trung tín, những nén vàng). Các dụ ngôn này có một ý nghĩa rõ ràng và được nhắc đi nhắc lại, đó là sự tỉnh thức. Người ta không biết giờ nào Chúa sẽ đến, và rất có thể Người sẽ "đến trễ", nên phải chuẩn bị sẵn sàng và kiên trì trước mọi tình huống.
Riêng về dụ ngôn mười trinh nữ, có lẽ không nên để ý đến những chi tiết có vẻ như giả tạo của câu chuyện: dụ ngôn không phải là một phóng sự hay một bài mô tả phong tục đám cưới, đúng và đủ mọi tình tiết. Trái lại, nên chú ý đến bài học của dụ ngôn, đó là sự khôn ngoan, biết phòng xa.
Điều dễ nhận thấy trong dụ ngôn này là bài học về sự "tỉnh thức." Bài học này làm người đọc liên tưởng đến lời cảnh giác của thánh Phao-lô: "ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5,2). Trong mười trinh nữ đi đón chàng rể, có năm cô khôn và năm cô dại.
Các cô khôn là những người biết phòng xa và chuẩn bị đầy đủ, cũng giống như người xây nhà trên đá (Mt 7,24), hay người quản gia biết chăm sóc gia nhân lúc vắng chủ (Mt 24,45). Các cô là hình ảnh của những người biết "lắng nghe và thi hành" những lời Đức Giêsu nói, những người có óc phê phán đúng đắn và tế nhị về thực tại của cuộc sống, kèm theo một ý chí cương quyết hành động.
Ngược lại, các cô dại là những cô không biết dự trữ phòng xa, không biết trù liệu trước hoàn cảnh bất trắc. Các cô là hình ảnh tiêu biểu cho những người lơ là, thiếu đầu óc thực tế, thiếu phán đoán, gây ảnh hưởng tai hại đến cuộc sống, nhất là đời sống vĩnh cửu.
Quả thật, các cô khôn đã chuẩn bị dầu đèn đầy đủ, lại còn mang theo bình dầu dự trữ, đề phòng trường hợp phải chờ đợi lâu. Các cô đã được vào dự tiệc cưới, như là phần thưởng cho thái độ sẵn sàng của mình. Trong khi đó, các cô dại, đã không mang dầu, lại còn mất thời giờ chạy đi mua, nên trở về quá trễ và không được vào dự tiệc cưới. Các cô đã bị ngăn lại, vì đèn của các cô hết dầu, và các cô đến quá trễ: dựa theo lời thánh Âu-gút-ti-nô, các cô đã thiếu điều quan trọng là dấu chỉ tình yêu và đã không sẵn sàng đáp ứng trước tình yêu.
Người ta có thể ngạc nhiên và đặt câu hỏi: Tại sao các cô khôn lại xử sự có vẻ như thiếu đức ái, đó là không giúp đỡ chị em mình đang gặp khó khăn. Thật ra, ở đây không chú trọng đến đức bác ái, nhưng muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa mỗi người phải chịu trách nhiệm về tự do và hạnh kiểm của mình, không được nông nỗi nhẹ dạ. Hơn nữa, sự kiện các cô trinh nữ phải chờ đợi lâu và chú rể chậm đến có thể cho thấy rằng lòng thương xót được gia hạn thêm một thời gian dài, rất dài, và đến một ngày, giai đoạn này sẽ chấm dứt. Thời gian chờ đợi có kéo dài thêm gợi lên tính cách nghiêm trọng của lời mời, đồng thời cũng bao hàm ý nghĩa: Đấng Cứu Thế không phải là sản phẩm theo sự suy đoán của con người. Đàng khác, nên hiểu thời gian này như một hồng ân được ban tặng để mỗi người kịp sửa chữa những thiếu sót và sai lầm của mình. Mỗi người đều có cơ hội để đáp ứng bằng chính tình yêu của mình.
Và như vậy, dụ ngôn không chỉ nói đến sự tỉnh thức. Hay nói cách khác, tỉnh thức chính là phải chuẩn bị đầy đủ cho cuộc lữ hành “trên mặt đất đầy đau thương, bi tráng và kỳ diệu này” (Chúc thư của ĐGH Phao-lô VI). Mỗi người phải mang theo đèn, và phải dự trữ dầu, nguồn đem lại ánh sáng, tức là phải có lòng hiếu khách, phải có tình yêu và niềm vui (ý nghĩa của dầu theo Kinh Thánh). Không có dầu, ngọn đèn sẽ tắt, người ta sẽ chìm trong tối tăm, và không được vào dự tiệc cưới.
Giữ ngọn đèn luôn cháy sáng
Nếu có ai được mời đi gặp một nhân vật họ vẫn mong đợi, hẳn là họ sẽ chuẩn bị rất kỹ càng, có khi tỏ ra nóng nảy, bồn chồn. Nếu họ vốn là người thờ ơ, hẳn họ sẽ phải thu xếp để có mặt đúng giờ, có khi còn đến sớm hơn giờ hẹn. Nếu nhân vật được mong đợi lại là người có khả năng làm thay đổi cuộc đời, thì người ta lại càng náo nức chờ đợi, và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn.
Chàng rể trong dụ ngôn chính là Đức Giêsu. Với lòng yêu thương vô bờ, Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Người trọn vẹn vận mạng của tất cả nhân loại cũng như của mỗi người. Người đã đến trần gian để dẫn đưa nhân loại đến tham dự sự sống và niềm vui vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Chính Người đang đến gặp nhân loại và nhân loại phải tiến về với Người, bởi vì Người là sự sống, sự sống đời đời. “Mà sự sống đời đời chính là nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Chàng rể có thể đến trễ, nhưng người ta vẫn phải chờ đợi, vẫn phải sẵn sàng. Ngọn đèn của mỗi người luôn phải có đủ dầu để đi đón chàng rể. Người ta có thể ngủ quên, nhưng vẫn có thái độ sẵn sàng: khi nghe tiếng kêu vào lúc nửa đêm, họ cũng đủ dầu đèn để đi đón chàng rể và dự tiệc cưới.
Như thế, dầu đèn chính là khát vọng tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng này cần được nuôi dưỡng để khỏi phai tàn trong cuộc chờ đợi. Các cô trinh nữ đi đón chàng rể, lúc khởi đầu tất cả đều vui mừng. Nhưng trong lúc chờ đợi, năm cô đã để cho lòng nhiệt thành của mình nguội dần, và khi chàng rể đến, các cô đâm bối rối, khát vọng của các cô đã tắt lịm. Có biết bao cuộc gặp gỡ đã bị vỡ tan bởi vì ngọn đèn khát vọng đã tắt ngúm.
Đúng vậy, đôi khi cuộc chờ đợi có thể kéo dài và biến thành một thử thách khắc nghiệt, nhất là với những người phải bước đi trong đêm tối, tiến bước rất lâu với cảm tưởng rằng không bao giờ gặp được chàng rể mình vẫn ước mong. Thật ra, tình trạng này là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn khoét sâu tâm hồn con người, để rồi ngày mai hay một lúc nào đó, Người sẽ bước vào. Phần con người, họ phải nuôi dưỡng lòng nhiệt thành bằng lòng tin, bằng việc cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ không để cho kẻ chờ đợi Người phải thất vọng.
Sự nghèo khó nội tâm
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.”
Đây là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong suốt diễn từ loan báo ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Ở đây, Đức Giêsu đã bày tỏ rõ ràng Người là Đấng Cứu Thế trước khi Người chịu khổ nạn và phục sinh.
Người mong muốn chúng ta chờ đón Người, và không được bỏ cuộc; Người mong muốn chúng ta chuẩn bị dầu đèn để khi Người trở lại, mặc dù bất thình lình, và chúng ta đang thiếp ngủ, chúng ta sẵn sàng đến gặp Người như Người cũng nhận ra chúng ta.
Phải chuẩn bị dầu đèn! Đây là một trách nhiệm nhưng chúng ta hãy yên lòng: Nếu Thánh Thần sử dụng dầu, thì chính Người cũng sẽ quan tâm không để chúng ta thiếu dầu.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện bà goá ở Xa-rơ-phát: “vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán” (1 V 17,16). Bà goá này đã đặt tất cả niềm tin vào vị sứ giả của Thiên Chúa, nên vò dầu của bà đã không cạn.
Thật vậy, khi phục vụ Thiên Chúa và người khác, chúng ta vẫn phải khôn ngoan, dự phòng, nhưng cũng cần phải nhớ rằng sự khôn ngoan đích thực và cao cả nhất chính là sự nghèo khó trong tâm hồn, là lòng tin tuyệt đối, là xác tín rằng Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh chúng ta và nâng đỡ sự yếu hèn, sự mỏi mệt của chúng ta. Chính Người vẫn bao bọc chúng ta trong tình yêu thương của Người để chúng ta luôn trở thành ánh sáng cho thế giới, thành anh em của mọi người, thành người cứu vớt những gì đã hư mất và thành chứng ta sống động của niềm vui.
Giếng nước trong khu vườn,
ngọn đèn tạo ánh sáng,
kho báu trong ngăn tủ,
Man-na trong Hòm Bia.
Lạy Chúa, Ngài là Chúa của con. H. Suso.
Lm. G. Nguyễn Cao Luật
jeudi 5 novembre 2020
TÁI KHÁM PHÁ MỌI SỰ THEO LOGIC CỦA TIN MỪNG
TÁI KHÁM PHÁ MỌI SỰ THEO LOGIC CỦA TIN MỪNG
“Ai đến với Tôi mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em
và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Tôi”.
Kính thưa Anh Chị em,
Chúa Giêsu có nhầm khi thốt lên những lời đó không? Không, thực sự, Ngài đã nói như thế. Đó là một tuyên bố mạnh mẽ, dứt khoát; một tuyên bố cần thiết cho những ai muốn xây dựng một toà nhà thánh thiện, toà nhà ân sủng bền vững muôn đời. Vậy những lời đó thực sự có ý nghĩa gì? Nó có ý nghĩa rằng, mỗi người phải ‘tái khám phá mọi sự theo logic của Tin Mừng’.
Mọi điều Chúa Giêsu nói phải được đọc trong bối cảnh toàn bộ Tin Mừng. Ngài từng nói đến giới răn thứ nhất, trọng nhất, “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng”, cùng lúc, “Hãy yêu người thân cận như chính mình”; điều này hẳn bao gồm gia đình, cha mẹ, anh chị em… Tuy nhiên, qua Tin Mừng hôm nay, Ngài muốn nói rằng, bất cứ điều gì cản trở tình yêu đối với Chúa, kể cả mạng sống, chúng ta phải loại bỏ nó; phải “ghét” nó. Người môn đệ Chúa Giêsu phải từ bỏ hết mọi sự một khi đã tìm thấy ‘Điều Tốt Đẹp Nhất’ là chính Thiên Chúa; vì chính trong Thiên Chúa, mọi điều tốt lành khác mới nhận được đầy đủ giá trị và ý nghĩa nhất của nó, từ quan hệ gia đình đến các quan hệ khác như tri thức, công việc, của cải, văn hoá và kinh tế… Như vậy, người môn đệ Chúa phải giũ bỏ tất cả để ‘tái khám phá mọi sự theo logic của Tin Mừng’, logic của tình yêu, logic của phục vụ.
Để có thể ‘tái khám phá mọi sự theo logic của Tin Mừng’, Chúa Giêsu nói đến sự cần thiết phải ngồi xuống để hạch toán mọi chi phí, ước tính mọi vật liệu cần có cho một dự án xây dựng, dù ở đây là xây dựng một ‘toà thánh thiện’, ‘toà ân sủng’. Đó phải là một “nghiên cứu khả thi” cũng là bước đầu tiên của bất kỳ kế hoạch huy động vốn nào, một kế hoạch đòi hỏi nhiều tâm lực, trí lực và dũng lực; nhờ đó, mới có thể đạt được mục tiêu. Kế hoạch huy động vốn cho dự án này là phải hy sinh, từ bỏ và vác thập giá. Điều này nghe có vẻ gây sợ hãi; thế nhưng, sự sợ hãi đó sẽ như cảm giác hồi hộp khi cắt băng khánh thành, khi chi phí tòa nhà đã được thanh toán và giờ đây, toà nhà đã sẵn sàng để đưa vào sử dụng. Cũng thế, mọi nỗ lực để nên thánh cũng có một kết quả tương tự vốn dẫn đến một vĩnh cửu tuyệt đẹp là sở hữu một toà nhà thiêng liêng, chính Thiên Chúa!
Một sự trùng hợp đến thú vị khi Thánh Phaolô hôm nay đôn đốc tín hữu Philipphê hãy khát khao Thiên Chúa, Đấng là ánh muôn ngàn đời rực rỡ. Phaolô nói, “Anh em phải kinh hãi run sợ mà lo cho mình được ơn cứu độ”; ơn cứu độ của Chúa là chính Chúa; đó chính là ‘tái khám phá mọi sự theo logic của Tin Mừng’. Có Thiên Chúa, sẽ có tất cả; bước trong ánh sáng Chúa, sẽ không bao giờ sai lầm. Đó cũng là tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca hôm nay, “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi”.
Chúa Giêsu còn nói đến một vị vua tính toán trước khi đi giao chiến; Ngài nói đến chiến lược cho cuộc chiến đấu vì sự thánh thiện. Chiến lược đó thật đơn giản: ‘Đừng để bị đánh bại’. Chiến trận sẽ rất cam go, và nếu khả năng bị đánh bại là một viễn cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu phải tìm một chiến thuật khác. Trong cuộc chiến nên thánh, một số trận sẽ thắng dễ dàng; một số trận khác cần phải tránh hoàn toàn. Vì vậy, đừng chủ quan đánh giá cao năng lực của mình một cách ngu ngốc; điều này đặc biệt xảy ra khi chúng ta không chịu tránh xa các dịp tội, vì nghĩ rằng bản thân đủ mạnh. Vậy mà đôi khi, chiến lược ‘Đừng để bị đánh bại’ tốt nhất không phải là chiến đấu, mà là ‘chạy trốn!’.
Vậy mà chiến thắng khi giũ bỏ những gì bên ngoài hãy còn dễ, cuộc chiến bên trong mới là ác chiến, cuộc tử chiến với “thần tôi”. Carlo Acutis, vị thánh trẻ thời đại chí lý khi nói, “Ích gì khi con người chiến thắng trong ngàn trận chiến, nếu không chiến thắng bản thân mình”. Điều này đòi hỏi phải chết đi từng giây, từng phút; phải chọn Chúa Giêsu từng phút, từng giây. Giêsu trên hết, Giêsu trước hết, Giêsu là tất cả; nói cách khác, phải không ngừng ‘tái khám phá mọi sự theo logic của Tin Mừng’, dưới ánh sáng Tin Mừng; và đừng quên, chúng ta không thể làm được điều này nếu không cậy nhờ Mẹ Chúa Giêsu.
Tối hôm qua, sau giờ sám hối của linh mục đoàn Huế, đang tĩnh tâm tại La Vang, tôi đi xưng tội. Cha hưu trí giải tội cho tôi bất ngờ hỏi, “Cha có quý những ngày sống bên Đức Mẹ không?”, tôi ú ớ; “Mẹ là người đã đánh đổi tất cả để được Thiên Chúa, và với Thiên Chúa Mẹ có tất cả”, và ngài hỏi tôi, “Cha có tận hiến cho Đức Mẹ mỗi ngày không?”; tôi giật mình trả lời, “Con dâng ngày cho Chúa thì có, dâng mình cho Đức Mẹ thì thi thoảng”. Ngài trìu mến bảo, “Con tận hiến cho Đức Mẹ mỗi ngày, Đức Mẹ giữ gìn con tinh tuyền cho đến hôm nay, 82 năm cuộc đời; cũng thế, hãy bắt chước con, cha hãy tận hiến cho Đức Mẹ mỗi ngày; Đức Mẹ đầy Chúa, cha đầy Chúa, cha được thiên đàng”.
Anh Chị em,
Khi từ bỏ hay đánh đổi với ai một điều gì, chúng ta chịu thiệt thòi; nhưng với Thiên Chúa thì không, Người không để chúng ta chịu thiệt, Người sẽ đền bù gấp trăm, không chỉ ở đời sau nhưng ngay cả đời này, miễn là chúng ta dám sống những nghịch lý của tám mối phước thật để ‘tái khám phá mọi sự theo logic của Tin Mừng’, một logic người đời không thể hiểu nổi.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin cho con được nên giống Mẹ Maria, biết ‘tái khám phá mọi sự theo logic của Tin Mừng’; nhờ đó, con xin vâng, từ bỏ mỗi ngày đang khi xây dựng toà nhà thánh thiện, toà nhà ân sủng. Cũng cho con biết tháo chạy trước những dịp tội, một chiến lược tốt nhất. Lạy Mẹ, con tận hiến đời con cho Mẹ; con dốc lòng tận hiến ‘mạng con’ cho Mẹ, Mẹ hãy ‘liều mạng’ nạp con cho Chúa mỗi ngày”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
T.Anh chuyển
Cách Làm Nem Chua -Vành Khuyên
Các Địa Danh Gắn Với Lịch Sử Nước Mỹ
Các địa danh gắn với lịch sử nước Mỹ
Mỹ có hơn 2.600 di tích lịch sử quốc gia đóng vai trò như "chứng nhân", các địa điểm này có tác động đáng kể thông qua sự kiện, con người, mốc thời gian, phát hiện khảo cổ...Cầu Brooklyn, New York: Hoàn thành vào năm 1883, cầu Brooklyn là điểm tham quan nổi tiếng hàng đầu của New York. Cây cầu kết nối 2 khu Manhattan và Brooklyn bị chia cắt bởi sông East. Là một trong những cây cầu treo lâu đời nhất nước Mỹ, công trình này trở thành di tích lịch sử quốc gia kể từ năm 1964. Với trụ nhịp chính dài 486 m, Brooklyn cũng là cây cầu treo đầu tiên làm bằng thép. Ngày nay, hàng nghìn phương tiện và người đi bộ băng qua cây cầu mỗi ngày. Ảnh: TTstudio.
Old San Juan, Puerto Rico: Khu định cư lâu đời nhất ở Puerto Rico Old San Juan là một phần không thể thiếu của di sản Latino ở Mỹ. Khu San Juan đầy màu sắc, có kiến trúc Gothic, Baroque và Phục hưng. Ngoài việc là một quận trong danh sách các di tích lịch sử quốc gia, Old San Juan cũng là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận. Ảnh: Photo Spirit.
Taos Pueblo, New Mexico: Nằm gần thị trấn Taos, Taos Pueblo là một trong những cộng đồng Pueblo lâu đời nhất ở Mỹ. Taos Pueblo nổi bật với các tòa nhà nhiều tầng, theo phong cách gạch nung có niên đại từ thế kỷ 13 và 14. Địa điểm này vẫn là nơi sinh sống của các dân tộc Puebloan nói tiếng Taos bản địa. Ảnh: Vladislav Gajic.
Thư viện Quốc hội, Washington DC: Thư viện Quốc hội Mỹ là cơ quan văn hóa liên bang lâu đời nhất trong cả nước và cũng là thư viện lớn nhất thế giới. Tại nơi đây, du khách có thể tìm thấy văn phòng bằng sáng chế và thương hiệu của Mỹ. Bên cạnh việc trực tiếp đến tham quan, bạn cũng có thể trải nghiệm nơi đây trong dịch vụ chuyến đi ảo. Ảnh: Sean Pavone.
Đồn điền Oak Alley, Louisiana: Khởi đầu là đồn điền trồng mía, Oak Alley đã tồn tại trong hơn 200 năm. Ngày nay, du khách đến đây để tìm hiểu về lịch sử của chế độ nô lệ. Bất động sản rộng hơn 11 ha có hàng sồi kép dẫn đến ngôi nhà chính. Cảnh quan và kiến trúc giúp Oak Alley có được danh hiệu di tích lịch sử quốc gia. Ảnh: FilippoB.
Biltmore Estate, North Carolina: Tọa lạc tại Asheville, Biltmore Estate mang đến du khách cái nhìn thoáng qua về cuộc sống sang trọng thuần túy. Nơi đây là dinh thự thuộc sở hữu tư nhân lớn nhất ở Mỹ với nội thất xa hoa và khu vườn tuyệt đẹp. Ngày nay, địa điểm này được vận hành như một điểm thu hút du khách với các chuyến tham quan có hướng dẫn viên. Ảnh: Thomas Kreulen.
Eastern State Penitentiary, Pennsylvania: Eastern State Penitentiary từng là nhà tù đắt nhất thế giới. Một trong những tù nhân nổi tiếng nhất trước đây là trùm gangster khét tiếng Al Capone. Sau gần 200 năm, khu phức hợp đồ sộ và đổ nát Eastern State Penitentiary trở thành bảo tàng lịch sử. Du khách tham quan nhà tù có thể đến thăm phòng giam của Al Capone. Ảnh: Conchi Martinez.
mercredi 4 novembre 2020
Du Lịch và Khám Phá 10 Kỳ Quan Thiên Nhiên Nổi Tiếng Nhất Thế Giới:
lundi 2 novembre 2020
La déclaration de Great Barrington
Trois épidémiologistes américains ont signé en octobre 2020 une déclaration sur l'état du Covid-19.
De nombreux autres scientifiques se sont joints à eux.
Disponible en page multilingue: Great Barrington Declaration
ici en version française
Ils expliquent pourquoi selon eux le confinement massif n'est pas une bonne solution, et les solutions qu'ils proposent.
Dominic Larkin
**********************************************************
La Déclaration De Great Barrington
Que nous soyons de gauche ou de droite, et quel que soit notre pays d’origine, nous avons consacré nos carrières à la protection des populations. Les politiques actuelles de confinement produisent des effets désastreux sur la santé publique à court, moyen et long terme. Parmi les conséquences, on peut citer, entre autres, une baisse des taux de vaccination chez les enfants, une aggravation des cas de maladies cardio-vasculaires, une baisse des examens pour de possibles cancers ou encore une détérioration de la santé mentale en général. Cela va engendrer de grands excès de mortalité dans les années à venir, notamment dans la classe ouvrière et parmi les plus jeunes. Maintenir les écoliers en dehors de l’école est une grande injustice.
Conserver ces mesures en attendant qu’un vaccin soit disponible causera des dégâts irréparables. Les couches sociales les moins favorisées seront les plus touchées.
Heureusement, notre compréhension du virus s’améliore. Nous savons que la vulnérabilité à la mort par le COVID-19 est plus de mille fois plus haute parmi les personnes âgées et infirmes que chez les jeunes. En effet, pour les enfants, le COVID-19 est moins dangereux que bien d’autres maux, y compris la grippe.
L’immunité grandissant dans la population, le risque d’infection baisse pour tout le monde, y compris les plus vulnérables. Nous savons que toutes les populations vont finir par atteindre l’immunité collective, c’est-à-dire le point où le nombre de nouvelles infections est stable, et que ce processus peut s’accompagner (sans pour autant dépendre) de l’existence d’un vaccin. Par conséquent, notre objectif devrait être de minimiser la mortalité et le mal fait à la société jusqu’à ce qu’on atteigne l’immunité collective.
Une approche à la fois compassionnelle et prenant en compte les risques et les bénéfices consiste à autoriser celles et ceux qui ont le moins de risques de mourir du virus de vivre leurs vies normalement afin qu’ils fabriquent de l’immunité au travers d’infections naturelles tout en protégeant celles et ceux qui ont le plus de risques de mourir. Nous appelons cela la Protection Focalisée (Focused Protection).
Le fait d’adopter des mesures pour protéger les plus vulnérables devrait être le but central des réponses de santé publique au COVID-19. A titre d’exemples, les résidences pour personnes âgées devraient être dotées de personnel qui a acquis l’immunité et qui réalise fréquemment des tests PCR pour les autres membres du personnel et les visiteurs. Par ailleurs, la rotation du personnel devrait être la plus faible possible. Les personnes retraitées qui vivent chez elles devraient se voir livrer leurs courses à domicile. Quand c’est possible, elles devraient rencontrer les proches en plein air plutôt qu’à l’intérieur. Une liste de mesure complète et détaillée, incluant des approches pour les foyers comprenant plusieurs générations, peut être mise en œuvre. C’est largement dans la capacité et les prérogatives des professionnels de la santé publique.
Ceux qui ne sont pas vulnérables devraient immédiatement être autorisés à reprendre une vie normale. Des mesures d’hygiène simples, comme se laver les mains et rester chez soi si l’on est malade, devraient être pratiquées par chacun pour réduire le seuil de l’immunité collective. Les écoles et les universités devraient rouvrir pour des enseignements en présentiel. Les activités extrascolaires comme le sport devraient reprendre. Les jeunes adultes qui présentent peu de risques devraient travailler normalement plutôt que depuis chez eux. Les restaurants et les commerces devraient ouvrir. Les arts, la musique, le sport et les autres activités culturelles devraient reprendre. Les personnes qui présentent plus de risque peuvent participer si elles le souhaitent à ce processus tandis que la société dans son ensemble bénéficie de la protection ainsi conférée aux plus vulnérables par ceux qui ont construit l’immunité collective.
Cette déclaration a été rédigée et signée le 4 octobre 2020 à Barrington, aux Etats-Unis, par :
Le Dr. Martin Kulldorff, professeur de médecine à l’université Harvard, un biostatisticien et épidémiologiste spécialisé dans la détection et la surveillance du déclenchement des maladies infectieuses et l’évaluation de la sécurité des vaccins.
Le Dr. Sunetra Gupta, professeure à l’université d’Oxford, une épidémiologiste spécialisée en immunologie, dans le développement de vaccins et la modélisation mathématique des maladies infectieuses.
Le Dr. Jay Bhattacharya, professeur à l’Ecole Médicale de l’université de Stanford, un médecin, épidémiologiste, économiste de la santé et expert en santé publique spécialiste des maladies infectieuses et de leurs effets sur les populations vulnérables.
SIGNER LA DÉCLARATION
Translated by Mathias Delori
Nhật Ký Sau Khi Con Người Chết
NHẬT KÝ SAU KHI CON NGỪƠI CHẾT
dimanche 1 novembre 2020
HẠCH TỘI CHÚA
“Hạch tội” Chúa
Từ lâu tôi đã dẹp bỏ được thái độ bất mãn của mình và lên tiếng trách móc Chúa trước một hoàn cảnh tang thương, khi chợt nhận ra rằng mình là ai mà dám phán xét Chúa và tưởng mình yêu thương người khác hơn Chúa yêu thương họ. Nhưng mới đây, khi thấy hình ảnh của hai mẹ con ôm nhau chìm trong bùn vì lũ lụt, rồi hay tin người bị giết vô tội vạ vì kẻ cuồng tín, tôi lại không khỏi “hạch tội” Chúa sao không cứu lấy họ.
Nhưng tôi liền được Chúa trả lời khi cho thấy Chúa cũng đã không cứu ngay cả Con của mình khỏi cái chết vì tay loài người, trong khi Con Chúa xuống thế chính là để cứu chuộc họ. Vậy chính Chúa cũng đã phải chịu cảnh tang thương đó, để không ai có thể nghĩ rằng Thiên Chúa ở trên cao, không biết đến cảnh khổ của con người nên không động lòng để cứu họ. Rồi tôi liền nhớ lại lời Chúa trong Isaia 55,8-9: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta... Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy”.
Tôi lại phải xin lỗi Chúa và xin Người tăng thêm đức tin cho tôi. Há chẳng phải Chúa Giêsu đã nói: “Thầy đã thắng thế gian” (Gioan 16,33) và sự phục sinh của Người là một bằng chứng sao? Để bước vào đời sống đích thật vĩnh cửu, ai lại chẳng phải qua cái chết? Nhưng dù chết cách nào đi nữa, cũng không ai chết cách oan ức, đau đớn, nhục nhã, tắt một lời, thảm thương cho bằng Chúa Giêsu. Và phải chăng những ai càng yêu mến Chúa và càng chết thảm lại là những người càng được đồng hình đồng dạng với Chúa, cả trong cái chết? Và cũng chính vì vậy mà những người tử vì đạo không cần phép lạ cũng được phong thánh?
Vậy, trong cái chết của Chúa Giêsu, Người đã ôm lấy mọi cái chết của loài người chúng ta, để khi Người được phục sinh từ cõi chết, Người cũng sẽ làm cho chúng ta được phục sinh cùng với Người. Và điều này mới là quan trọng, chứ không phải cái chết, và tôi đã “hạch tội” Người cách bất công. Xin Chúa tha tội cho con!
LỄ CÁC ĐẲNG : Ra Đi Cũng Là Trở Về
Ra đi cũng là trở về
(Suy niệm Tin Mừng Gioan (14, 1-4) trích đọc vào
Lễ các đẳng linh hồn)
Đối với những ai không tin có sự sống đời sau thì cái
chết là thảm hoạ khủng khiếp nhất trên đời, vì khi chết đến, nó sẽ cướp đi tất
cả, không những là tất cả tài sản, của cải tiền bạc, công danh sự nghiệp của
một đời người, mà còn cướp luôn mạng sống của họ.
Tuy nhiên, đối với các Ki-tô hữu, cái chết không
còn bi đát hãi hùng, không phải là một mất mát, nhưng là một sự trở về: chết là
về nhà Cha.
Xin mượn câu chuyện sau đây để minh họa cho chân
lý nầy :
Năm người con đưa tiễn người mẹ yêu quý xuống tàu
vượt biển đến một bến bờ xa cách vạn dặm nằm bên kia bờ đại dương bát ngát.
Tàu rời bến, họ vẫy tay tiễn biệt mẹ mà lòng tê
tái buồn đau. Họ đứng lặng trên bờ, đăm đăm nhìn con tàu rẽ sóng đưa mẹ ra khơi
cho đến khi con tàu chỉ còn là một đốm trắng li ti và mất hút ở cuối chân trời.
Mắt mỗi người đều ngấn lệ vì mẹ đã đi xa, tưởng như không bao giờ trở lại.
Mấy ngày sau đó, ở bờ bên kia của đại dương, ông
bà ngoại, cậu, dì và nhiều người thân yêu đang tụ tập trên bến chờ đón mẹ về. Và
khi thấy thấp thoáng từ xa con tàu buồm trắng mà họ tin là có mẹ trên đó, thì họ
cảm thấy tâm hồn nao nức mừng vui. Đến khi mẹ vừa ra khỏi tàu, thì ông bà
ngoại, cậu dì chạy ra ôm choàng lấy mẹ, mọi người rất vui mừng hân hoan vì đã
chờ đợi mẹ rất lâu mà mãi tới hôm nay mới có ngày sum họp.
Thế là việc ra đi của mẹ ở bờ bên nầy lại là sự
trở về của mẹ ở bờ bên kia. Sự vĩnh biệt đau thương bên nầy được tiếp nối với
cuộc đoàn tụ hân hoan hạnh phúc ở bờ bến khác.
Chúa Giê-su dạy ta biết sự chết như là con tàu
buồm trắng trong câu chuyện trên đây, đưa người ta rời khỏi bến nầy để đưa họ
sang bờ bến khác, giúp con người từ giã thế giới tạm bợ đời nầy để bước vào thế
giới vĩnh cửu, để được đoàn tụ với Thiên Chúa, với ông bà tổ tiên và thân nhân
đã lìa đời trên thiên quốc.
Chính vì thế, qua trích đoạn Lời Chúa trong Tin mừng
hôm nay, Chúa Giê-su an ủi những ai còn ở bờ bên nầy, nghĩa là những người còn
sống trên dương gian rằng: “Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy,
có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho
anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với
Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3).
Như thế, ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì
đối với người tin Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy. Ngày đó, chúng ta sẽ được
“đồng hưởng sự sống đời cùng với Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa; Thánh Giu-se
bạn trăm năm Đức Trinh nữ; các Thánh Tông đồ và toàn thể các Thánh đã sống đẹp
lòng Chúa qua mọi thời đại[1]”,
nếu hôm nay ta sống theo Lời Chúa dạy.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đi trước để dọn chỗ cho đoàn con và mai đây Chúa sẽ trở lại để đưa
đoàn con về với Chúa.
Xin cho anh chị em tín hữu đã ly trần nhưng còn đang được thanh luyện,
sớm thoát khỏi chốn luyện hình để đến nơi Chúa đã dọn sẵn cho họ trên thiên
quốc và được đồng hưởng hạnh phúc cùng với ba ngôi Thiên Chúa và triều thần
thánh đến muôn đời. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Tin mừng: Gioan 14, 1-4
1
Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.2
Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì
Thầy đi dọn chỗ cho anh em.3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì
Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.4
Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi." (Ga 14,1)
samedi 31 octobre 2020
HALLOWEEN
Trang trí nhà trong ngày Halloween. Hình: Wikipedia.
Halloween (rút gọn từ “All Hallows’ Evening”) là lễ hội được tổ chức vào ngày 31-10 hàng năm tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Mùa hè kết thúc!
Lễ Halloween bắt đầu từ buổi chiều tối của ngày 31-10 cho tới 12 giờ đêm.
Halloween có xuất xứ từ Thiên Chúa Giáo. Đó là từ viết tắt trong “All Hallows’ Evening” (buổi tối của Lễ Chư Thánh) diễn ra vào ngày đầu tiên của tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn đã qua đời.
Thế nhưng cũng có tài liệu cho rằng, lễ hội Halloween ngày nay chịu ảnh hưởng nhiều từ lễ Samhain của dân tộc Celt, một dân tộc sống cách đây hơn 2000 năm trên các vùng đất bây giờ là Anh quốc, Ireland, và miền Bắc nước Pháp.
Vào ngày 1-11 hàng năm, người Celtic sẽ tổ chức lễ hội Samhain để đánh dấu cho sự kết thúc của mùa hè và thời tiết chuyển sang đông, đây cũng là thời điểm để khởi đầu một năm mới. Họ tin rằng khi mùa hè kết thúc và mùa đông lạnh lẽo, tràn đầy bóng tối bắt đầu thì vào đêm trước của năm mới (tức ngày 31-10) ranh giới giữa sự sống và cái chết trở nên mờ nhạt.
Vào thời gian này vị thần của mùa xuân và mùa hè không còn ngự trị và nhường chỗ cho thần Chết. Lễ hội bắt đầu vào ngày 1-11, khi linh hồn của người chết quay trở lại nhà người thân để xin thức ăn và nước uống. Trong suốt thời gian đêm 31-10, các xác chết đi lại tự do.
Trong suốt thời gian đêm 31-10, các xác chết đi lại tự do. Hình minh họa. Hình: NeONBRAND-Unsplash
Theo truyền thuyết, vào ngày lễ Samhain linh hồn của người chết trong năm trước sẽ tìm đến một thể xác khác để bắt đầu cuộc sống mới trong năm tiếp theo. Tuy nhiên, người sống không muốn linh hồn người chết nhập vào mình nên dập tắt lửa trong nhà để làm cho nhà cửa lạnh lẽo và tẻ ngắt. Sau đó họ hoá trang thành ma cà rồng và lặng lẽ đi vòng quanh nhà hàng xóm với vẻ hăm doạ để xua đuổi những hồn ma tìm thể xác.
Theo giải thích khác thì vào đêm Samhain, người Celtic dập tắt lửa không phải để xua đuổi những linh hồn mà để sau đó họ cùng nhau đi lấy lửa tại nguồn sáng gọi là Druidic, liên tục cháy ở Usinach thuộc miền trung Ireland.
Về sau này, người La Mã đã biến những tục lệ trên của người Celtic thành tục lệ của mình. Vào thế kỷ thứ nhất Trước Công nguyên, họ bỏ tục lệ hiến người sống và thay vào đó là hiến hình nộm. Theo thời gian, do người ta không còn tin vào linh hồn nữa nên tục lệ hoá trang thành ma quỷ hay phù thuỷ chỉ còn là hình thức.
Cùng với phong trào di cư của người Ireland sang Mỹ những năm 1840, lễ hội Halloween được du nhập vào Mỹ.
‘Bánh cầu hồn’
Lễ hội Halloween còn được cho là bắt nguồn từ một phong tục gọi là tục “cầu hồn” của người Châu Âu ở thế kỷ thứ 9.
Ngày 2-11 hàng năm, người Thiên chúa giáo đi từ làng này sang làng khác xin “bánh cầu hồn”. Đây là những chiếc bánh hình vuông làm từ bánh mỳ và nho Hy Lạp. Người đi xin nhận được càng nhiều bánh thì càng cầu được cho nhiều linh hồn người thân của gia chủ siêu thoát.
Ở Anh trước đây, đêm Halloween từng được gọi là Nutcrack Night hay Snap Apple Night tức là một đêm dành cho gia đình ngồi bên đống lửa hồng để nghe kể chuyện, ăn trái cây. Những người nghèo đi ăn xin thường được cho một thứ bánh gọi là “bánh linh hồn” với điều kiện họ phải cầu nguyện cho người chết.
Như vậy có thể thấy lịch sử ngày lễ Halloween có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa lâu dài trên lãnh thổ nhiều quốc gia.
Snap Apple Night. Hình: Wikipedia.
Mang niềm vui đến mọi người
Bên cạnh nguồn gốc, lễ hội Halloween có nhiều ý nghĩa giáo dục, không phải ai cũng biết.
Theo truyền thuyết của người Ireland, một kẻ nghiện rượu tên là Sting Jack ăn trộm đồ trong ngôi làng và bị người dân đuổi đánh.
Jack chạy trốn, trên đường, hắn gặp một con quỷ được sai đến để bắt linh hồn của hắn đi. Tuy nhiên Jack đã lừa con quỷ leo lên cây táo cổ thụ và không cho nó xuống bằng cách khắc dấu thánh giá vào vỏ cây.
Con quỷ van xin và Jack bắt con quỷ phải thề rằng sẽ không bao giờ tước đi linh hồn của hắn.
Sau này, Jack chết nhưng linh hồn của hắn không được lên thiên đàng vì những tội lỗi khi còn sống. Địa ngục cũng không có chỗ cho linh hồn hắn dung thân vì lời thề của con quỷ. Vì thế linh hồn của Jack phải lang thang nơi trần gian.
Jack xin quỷ chút lửa để soi đường. Cuối cùng quỷ thương tình ném cho hắn hòn than lấy từ bếp lửa địa ngục không bao giờ tắt. Jack lấy củ cải đỏ đem khoét rỗng thành hình mặt quỷ, đặt hòn than bên trong.
Một cảnh trong bộ phim The Legend of Halloween Jack (2018). Hình chụp qua YouTube. Credit: 4DigitalMedia.
Từ đó, cứ mỗi mùa Halloween về, người nông dân ở các ngôi làng Ireland lại khắc những chiếc đèn lồng bằng củ cải để xua đuổi linh hồn của Jack và cả những bóng ma lang thang khác.
Sau này khi nhập cư vào Mỹ, người Ireland đã biến quả bí ngô thành chiếc đèn lồng Jack-O-Lantern khắc hình mặt người rùng rợn với ngọn nến được thắp sáng bên trong như chúng ta vẫn thường thấy.
Hơn nữa khi thắp đèn trong trái bí ngô họ thấy sáng hơn là thắp đèn bên trong củ cải, khoai tây hay bí đao nên quả bí ngô trở thành biểu tượng cho ngày lễ Halloween.
Theo thời gian, lễ hội Halloween đã trở thành lễ hội truyền thống ở nhiều quốc gia trên thế giới. Người ta tin rằng những chiếc lồng đèn làm từ trái bí ngô sẽ xua đuổi ma quỷ và mang lại nhiều niềm vui cho mọi người.
Hình: Colton Sturgeon/ Unsplash
Thông qua lễ hội này, người ta cũng đưa ra một số ý nghĩa mang tính chất giáo dục, đặc biệt là với trẻ em:
Thứ nhất, không nên sống tham lam, ích kỷ như chàng Jack.
Thứ hai, khi sống cần phải có hàng xóm, láng giềng, phải có niềm tin vào cuộc sống, tôn kính tổ tiên và các tiền nhân.
Thứ ba, cuộc sống là một vòng tuần hoàn, luôn có sự cho đi và nhận lại, chúng ta cần phải cho đi để được nhận lại …
Đ.T. (Tổng hợp)