Kỳ án ấn và kiếm tại lễ thoái vị của vua Bảo Đại (Kỳ 1)
02/09/2020Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ
Trong những ngày này tại Hà Nội, Viện bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam mở triển lãm “Cách mạng tháng Tám - Mốc son lịch sử” với hơn 300 tư liệu, hình ảnh, hiện vật về sự kiện diễn ra cách đây tròn 75 năm dẫn tới thiết lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nền Cộng hòa đầu tiên ở Việt Nam.
Trong số các ảnh trưng bày có bức “Ấn kiếm của vua Bảo Đại bàn giao lại cho chính quyền Cách mạng trong buổi lễ thoái vị 30/8/1945”. Bức ảnh cho thấy một nhóm quân nhân với mũ ca lô, quân hàm, quân hiệu, giây biểu chương, thắt lưng da trắng, súng tiểu liên, một người bưng một khay đựng một ấn bằng vàng, thường gọi là "kim bửu tỷ" hay "kim tỷ", một người khác hai tay nâng một thanh kiếm. Đây hai vật tượng trưng cho vương quyền của Nhà Nguyễn (1).
Thế nhưng tôi khẳng định rằng đây không phải là ảnh chụp tại lễ thoái vị của vua Bảo Đại được tổ chức theo yêu cầu của đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Phó Chủ tịch Chính phủ Trần Huy Liệu và Bộ trưởng không bộ Cù Huy Cận, cha tôi, sự kiện diễn ra tại lầu Ngũ Phụng phía trên Ngọ Môn, cổng chính của Hoàng thành Huế.
Trước hết, mũ ca lô, quân hàm, quân hiệu, giây biểu chương, thắt lưng da trắng, súng tiểu liên mà các quân nhân mang trên người không phải là trang phục và vũ khí của quân đội Nhà Nguyễn nói chung, quân đội dưới triều Bảo Đại nói riêng.
Tiếp theo, có một bức ảnh khác trên internet thể hiện các quân nhân nói trên, với kiến trúc phía sau không phải của Hoàng thành Huế, mà là khán đài của Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
Vậy các bức ảnh trên được chụp trong khung cảnh nào?
Nhằm đối phó với ảnh hưởng chính trị không ngừng tăng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Việt Minh do người cộng sản Hồ Chí Minh lãnh đạo cũng như tranh thủ viện trợ quân sự của Mỹ trong bối cảnh quân viễn chinh Pháp ngày càng đuối sức trong cuộc tái chiếm Việt Nam, Pháp buộc phải tính lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp do Bảo Đại đứng đầu, được gọi là “giải pháp Bảo Đại”. Ngày 8/3/1949, tại Paris, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại ký Hiệp định Élysée thành lập Quốc gia Việt Nam. Ngày 24/4/1949, Bảo Đại từ Pháp về nước. Gần hai tháng sau, vào ngày 14/6, Bảo Đại ra tuyên bố chấp chính. Trong hồi ký chính trị “Con Rồng Việt Nam” (2), Cựu hoàng nhớ lại: “Tôi ra một sắc lệnh tự đảm nhiệm làm Quốc trưởng…Để có tư thế trước bình diện quốc tế , một thông điệp nhấn mạnh rằng chức vụ của tôi được gọi là “Hoàng đế, Quốc trưởng”. Vị trí này cũng có giá trị cho đến lúc mà đất nước có được một quốc hội lập hiến”.
Ngày 28.2.1952, theo loan báo của tướng Pháp François Jean Antonin Gonzalez de Linares, trong khi đào đất để xây đồn bốt ở Nghĩa Đô thuộc ngoại thành Hà Nội, lính Pháp thấy một thùng dầu hỏa 20 lít bằng sắt tây bên trong có một ấn vàng và một thanh kiếm bị gẫy đôi. Mười ngày sau, ngày 8/3/1952, tròn ba năm sau Hiệp định Élysée, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Tướng François Jean Antonin Gonzalez de Linarès long trọng tổ chức lễ trao lại cặp ấn, kiếm cho Bảo Đại trong cương vị Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam. Vậy là rõ, bức ảnh các quân nhân người Việt nâng ấn và kiếm mà Viện bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam đang trưng bày là được chụp tại lễ này cũng như các quân nhân này thuộc Ngự lâm quân của Bảo Đại.
Mộng Điệp, thứ phi của Bảo Đại, thuật lại chuyện này với Nguyễn Đắc Xuân vào năm 1996 khi nhà nghiên cứu này “qua Pháp tìm Huế xưa”. Bà kể: “Họ trả lại ấn, kiếm cho nhà Nguyễn nhưng ông Bảo Đại lúc ấy đang nghỉ mát ở bên Tây, không ai đủ tư cách để nhận lại cả. Ông Lê Thanh Cảnh làm việc cho Pháp thấy thế gọi dây nói lên Buôn Mê Thuột gặp tôi. Nhưng tôi chưa thấy những báu vật ấy bao giờ, không biết có đúng hai cái ấn kiếm mà ông Bảo Đại đã trao cho ông Trần Huy Liệu năm 1945 hay không (!). Tôi phân vân nên đã mời Đức Từ Cung ở Huế đi tàu bay lên. Hôm đón ấn kiếm, Đức Từ Cung bắt phải đặt lên một cái bàn ở sân bay Buôn Mê Thuột, phủ khăn đỏ, lạy ấn và kiếm năm lạy rồi mới được phép đưa về Dinh”.”Chính tay tôi đã lau chùi cặp ấn kiếm khi ông Lê Thanh Cảnh đi tàu bay từ Hà Nội đem lên Ban Mê Thuột giao cho tôi – bà nhấn mạnh. Cái kiếm bị gãy làm đôi. Tôi nhờ hai người hầu cận là anh Tứ Lang và anh Thừa Tể đi hàn lại. Hai anh đem cái kiếm đi hàn rồi nhờ người ta mài để không còn thấy dấu vết gãy. Còn cái ấn bằng vàng, chính tay tôi cân nặng 12,9 kg. Cái núm ấn hình con rồng. Con rồng uốn cong và ngóc đầu lên. Con rồng không được sắc sảo lắm, có đính hai hạt ngọc đỏ, trông giống như con rắn”.
Mộng Điệp kể tiếp: “Sau đó ông Bảo Đại về, tôi nói: “Ấn kiếm Ngài đã trao cho phái đoàn ông Trần Huy Liệu, không hiểu sao lại rơi vào tay người Pháp. Vừa rồi họ gọi trả lại cho Ngài”. Ông Bảo Đại đến giật cái khăn đỏ ra và bảo: “Ờ! Đúng rồi.. Ngày xưa những thứ nầy ra đi nó cứu mạng anh. Bây giờ tự nhiên nó lại về có lẽ mình sắp chết rồi!”. Tôi nói:” Sao lại chết? Đáng lẽ Ngài mừng mới phải?”. Ông nói đùa với tôi: “Mừng vì nó gần 13 ký lô vàng chứ gì? Bởi thế em mới cho người canh gác cẩn thận!”.
Vẫn theo bà thứ phi này, năm 1953 chiến tranh trở nên ác liệt, Bảo Đại không dám đem ấn và kiếm về Huế. “Cuối cùng ông viết giấy giao cho tôi mang sang Pháp cùng với một số tư trang. Sau đó tôi giao hai báu vật ấy lại cho Hoàng hậu Nam Phương và Hoàng tử Bảo Long. Khi tôi đem sang giao có mặt các ông Nguyễn Đệ, Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Tiến Lãng, Phạm Bích (con ông Phạm Quỳnh). Bốn người bưng hai cái ấn kiếm lên và giúp bà Nam Phương đưa vào tủ sắt”(3).
Trở lại lời kể của Mộng Điệp, có một chi tiết mà theo tôi là không chính xác. Đó là “Họ (Pháp) trả lại ấn kiếm cho nhà Nguyễn nhưng ông Bảo Đại lúc ấy đang nghỉ mát ở bên Tây” trong khi trên thực tế vào thời điểm tháng 3/1952 Bảo Đại vẫn ở Việt Nam. Thực vậy, “Con Rồng Việt Nam” cho biết Bảo Đại sang Pháp ngày 20/6/1950 để theo dõi Hội nghị Pau bàn về chuyển giao các chức năng quản lý xuất nhập cảnh, quan hệ ngoại giao, ngoại thương, hải quan và tài chính từ Phăp cho Quốc gia Việt Nam theo Hiệp định Élysée và trở về Việt Nam vào ngày 20/10 cùng năm. Cụ thể, Bảo Đại trở về Đà Lạt nơi ông chọn làm tổng hành dinh sau khi về nước năm 1949 bởi Pháp từ chối trao lại Dinh Norodom, nơi làm việc và ở của Thống đốc Nam Kỳ và cũng là biểu trưng cai trị thực dân sau khi Pháp tái chiếm Việt Nam. Gần một tháng sau, Bảo Đại đi thăm Buôn Mê Thuột. Ông viết: “Tôi đến Buôn Mê Thuột ở mấy ngày, và có ý định lập ở đây một biệt điện thứ hai”. “Ngày 3 tháng 3 (1952) – ông viết tiếp - tôi bổ nhiệm Nguyễn Văn Hinh làm Thiếu tướng, Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam. Cũng trong thời gian ấy, tôi đặt ra bốn quân khu. Về sư đoàn thứ tư quân thổ, phụ trách giữ an ninh cho vùng cao nguyên, đã được thành lập xong và đặt bản doanh ở Buôn Mê Thuột…Trong dịp này tôi tiếp tướng Salan tại Buôn Mê Thuột”. Bất luận thế nào, hồi ký của Cựu hoàng cho thấy ông chỉ trở lại Pháp vào ngày 7/8/1952 để chữa bệnh.
Đến đây một câu hỏi được đặt ra là tại sao người đi nhận ấn và kiếm tại sân bay Buôn Mê Thuột là thứ phi của Bảo Đại chứ không phải chính Cựu hoàng đang có mặt tại cao nguyên Trung phần.
Không nghi ngờ gì nữa, việc Bảo Đại thiết lập biệt điện thứ hai tại Buôn Mê Thuột là để ông có “khoảng trời riêng” với Mộng Điệp vì biệt điện tại Đà Lạt đã là nơi ở của Nam Phương Hoàng Hậu (tên con gái là Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan) và các con. Điều này lý giải vì sao Mộng Điệp có mặt tại Buôn Mê Thuột. Đi nhận lại ấn và kiếm tại sân bay, chắc chắn thể diện nguyên thủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại đã không cho phép ông làm như vậy. Đó là chưa nói rất có thể Bảo Đại không muốn bị chơi khăm nếu đó không phải ấn và kiếm đích thực của Nhà Nguyễn. Với các lý do trên Bảo Đại hẳn đã ủy quyền cho thứ phi của mình tiếp nhận hai quốc bảo này. Đến lượt mình, do không chắc đó thật là ấn và kiếm của Nhà Nguyễn vì chưa một lần tận mắt thấy, Mộng Điệp đã mời Đức Từ Cung, mẹ Bảo Đại, lên Buôn Mê Thuột để làm cái công việc mà ngày nay gọi là “giám định”.
Năm 1980, khi xuất bản Le Dragon d’ Annam (Con Rồng Việt Nam – tiếng Pháp), Bảo Đại yêu cầu Bảo Long (Nam Phương Hoàng hậu đã mất 17 năm trước, vào năm 1963) cho mượn cái ấn để làm vi-nhét đặt vào cuối các chương của cuốn hồi ký nhưng Bảo Long không chịu. Sau khi tái kết hôn với Monique Baudot vào năm 1982, Bảo Đại kiện Bảo Long ra tòa để đòi lại ấn và kiếm. Toà xử Bảo Đại được giữ ấn và Bảo Long được giữ kiếm (4).
Ấn mà Bảo Đại giữ mặt dưới khắc 皇帝之寶 - Hoàng Đế Chi Bảo kiểu chữ triện, mặt trên hai bên núm hình con rồng khắc “Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo” (Ấn được thực hiện vào giờ tốt ngày mùng 4 tháng 2 Minh Mạng thứ IV (15/3/1823) và “Thập thành hoàng kim trọng nhị bách bát thập lạng cửu tiền nhị phân” (Ấn đúc bằng vàng 10 tuổi nặng 280 lạng 9 chỉ 2 phân (tượng đương 10,5345kg) kiểu chữ khải.
Thanh kiếm mà Bảo Long giữ có vỏ bọc vàng, chuôi bằng ngọc thạch, có khắc hai dòng chữ “Khải Định niên chế” (Chế vào thời Khải Định) và “Trọng kim tứ lạng thập thất phân” (hàm lượng vàng gồm 4 lạng 7 chỉ 17 phân - tương đương 178,125g vàng).
Theo danh mục các ấn Nhà Nguyễn bảo quản tại điện Càn Thành do Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương Paul Boudet lập ra sau khi được Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh, với sự đồng ý của vua Bảo Đại, cho xem thì có 46 chiếc. Còn trong danh mục Kim bảo tỷ triều Nguyễn hiện do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam bảo quản chỉ có 44 chiếc. Nếu kể cả ấn "Hoàng hậu Chi Bửu" của Nam Phương Hoàng hậu bị kẻ gian lấy trộm từ Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam và sau đó cắt nhỏ để tiêu thụ vào năm 1961 (5) thì số lượng ấn Nhà Nguyễn do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tiếp đó Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sở hữu và quản lý là 45, tức chỉ kém có một ấn so với danh sách của Paul Boudet.
Việc không có bất cứ ấn và kiếm nào được Nhà nước Việt Nam trưng bày như là vật chứng có một không hai của lễ thoái vị của vua Bảo Đại rõ ràng là một sự thừa nhận chính quyền này đã để thất lạc ấn và kiếm mà ông vua cuối cùng của Nhà Nguyễn trao cho đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Do đó về nguyên tắc, “Hoàng Đế Chi Bảo” và thanh kiếm được tìm thấy cùng với nó phải là cặp ấn, kiếm hiện diện tại sự kiện lịch sử đó. Vậy hồi ức của bên thoái vị và bên tiếp nhận thoái vị hay những “người trong cuộc” và các nhân chứng khác có thuận cho việc xóa bỏ khoảng cách giữa nguyên tắc và cái có thật?
(Còn tiếp)
Chú thích:
“Cách mạng tháng Tám - Mốc son lịch sử, Dân trí 19/08/2020”
Con Rồng Việt Nam, Bảo Đại, Nguyễn Phước tộc xuất bản 1990, (dịch từ Le dragon d'Annam, Bao Dai, Plon, 1980).
Cặp ấn kiếm của vua Bảo Đại giờ ở đâu? Tiền phong 03/09/2015
“Khám phá vụ trộm ấn vàng tại bảo tàng lịch sử năm 1962”, An ninh thế giới, 05/09/2007”.
Sau khi Bảo Đại qua đời vào năm 1997, “Hoàng Đế Chi Bảo” nằm trong tay Monique Baudot. Còn thanh kiếm, có thông tin Bảo Long đã bán.
Tác giả là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân chính trị Việt Nam.
“An Dân Bảo Kiếm” của vua Khải Định trưng bày tại Bảo tàng Guimet, Paris, 2014. (Hình: Phạm Cao Phong, đăng trên BBC)
Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà VũTrong Con Rồng Việt Nam, Bảo Đại viết về việc trao ấn và kiếm cho Đoàn đại biểu Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như sau: “Trong một bầu không khí bực dọc, tôi trao nhanh ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho Trần Huy Liệu, mà chính ông ta cũng có cảm tưởng như tự trên mây mà lại…Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tiễn tôi phía sau”. Việc Cựu hoàng không mô tả ấn và kiếm là hoàn toàn dễ hiểu vì mối bận tâm của bậc quân vương là quyền bính quốc gia chứ không phải tài sản cụ thể. Thực vậy, nắm được vương quyền là có hết. Ngược lại, Phạm Khắc Hòe, Ngự tiền Văn phòng Đổng lý của Bảo Đại, người đã tham gia vận động ông thoái vị cũng như là người đã chuẩn bị ấn, kiếm cho lễ thoái vị và sau này phụ trách kiểm kê tài sản của hoàng gia để giao lại cho chính quyền mới, đi vào chi tiết của những quốc bảo ấy trong hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc. Ông Hòe viết: “Tiếng súng lệnh chấm dứt. Bảo Đại hai tay đưa lên trao cho ông Trưởng đoàn Đại biểu chính phủ quốc ấn bằng vàng nặng gần mười ki lô gam và chiếc quốc kiếm để trong vỏ bằng vàng nạm ngọc.” (1).
Về phía tiếp nhận thoái vị, Trưởng đoàn Trần Huy Liệu viết trong Hồi ký (2) như sau: ”Bảo Đại chít khăn vàng, mặc Hoàng bào đứng chực sẵn ở cửa. Phái đoàn bước lên Ngọ Môn, dân chúng hoan hô sôi nổi. Đến lượt Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Đọc xong, Bảo Đại hai tay dâng chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn hình vuông. Tôi thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận hai vật tượng trưng cho chế độ phong kiến… Khi tiếp nhận thanh kiếm của Bảo Đại dâng lên thì không có gì đáng kể. Nhưng khi tiếp nhận chiếc ấn vàng, tôi đã phải chịu đựng sức nặng bất ngờ của chiếc ấn. Chiếc ấn nặng tới 7 ký-lô-gam vàng! Thú thật với các bạn, khi giơ hai tay đỡ chiếc ấn, tôi có ngờ đâu nó nặng đến thế nên không chuẩn bị tư thế từ trước. Tuy vậy, khi chiếc ấn nặng trĩu đã nằm trong tay tôi, tôi phải cố gắng vận dụng hết sức bình sinh để chống đỡ, không để nó trĩu xuống, nhất là đừng để người tôi khỏi nghiêng ngả, vì tư thế của tôi lúc ấy có phải thuộc riêng của tôi đâu, mà là tư thế của một vị đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đương làm một việc rất quan trọng trong giờ phút lịch sử. Cũng may là tôi đã làm tròn trách nhiệm ‘nặng nề' ấy”.
Về phần mình, trong Hồi ký Song Đôi, Huy Cận nhớ lại: “Bảo Đại trao quốc ấn bằng vàng, đúc từ đời Minh Mạng, nặng gần 10kg và quốc kiếm, vỏ bằng vàng nạm ngọc nhưng lưỡi đã gỉ. Anh Liệu chuyển lại cho tôi và các đồng chí trong Uỷ ban nhân dân cách mạng ấn và kiếm rồi đọc bản tuyên bố của đoàn đại biểu của Chính phủ lâm thời” (3).
Trong một dịp khác, Huy Cận thuật tỷ mỷ hơn về hai vật biểu trưng cho vương quyền ấy: “Sau khi Bảo Đại đọc lời tuyên bố thoái vị, tới nghi thức trao ấn kiếm. Chiếc kim ấn truyền quốc làm bằng vàng ròng, nặng dễ đến ngót 10 kilôgam, anh Trần Huy Liệu vốn sức yếu phải gồng lên mới cầm nổi, còn tôi dĩ nhiên với cái tuổi 26 thì mươi cân cũng nhẹ nhàng thôi. Thú vị nhất là khi cầm cây kiếm, thấy vỏ ngoài dát vàng nạm ngọc rất đẹp, tôi thuận tay rút kiếm ra xem, ai dè bên trong lưỡi kiếm đã bị rỉ, tôi hồn nhiên nói ngay vào micro: “Thưa đồng bào, kiếm nhà vua rỉ hết rồi !…” Mọi người cười ồ. Bảo Đại cũng cười. Ông ta nói: “Thưa phái đoàn, từ nay tôi là một người dân bình thường của nước độc lập, xin phái đoàn cho tôi một vật gì để kỷ niệm cái ngày này”. Ý kiến bất ngờ. Chúng tôi hội ý và tôi nhanh tay rút chiếc huy hiệu cờ đỏ sao vàng mà Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên Huế tặng các thành viên của phái đoàn và cài lên ngực Bảo Đại, đoạn nói to: “Xin đồng bào hoan nghênh công dân Vĩnh Thụy”. Nhiều tiếng vỗ tay vang lên. Bảo Đại thực sự cảm động và lặng lẽ rút lui” (4).
Vẫn theo Huy Cận, tại buổi hội kiến với ông Trần Huy Liệu và ông tại điện Kiến Trung chiều 29/8/1945 Hoàng đế Bảo Đại không chỉ đồng ý tổ chức lễ thoái vị vào ngày 30/8 mà còn thống nhất chuyển giao toàn bộ tài sản quý giá của vương triều cho chính quyền cách mạng, chỉ yêu cầu được giữ lại cung An Định (là cung điện riêng do vua Khải Định xây dựng bên bờ sông An Cựu) và các lăng tẩm của tổ tiên. Chính vì vậy sau lễ thoái vị, phái đoàn của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho chuyển gần 3.000 món bảo vật (ấn tín bằng vàng, bạc, ngọc ngà, cổ vật quý giá, tặng phẩm ngoại giao…) ra miền Bắc (5).
Nguyễn Hữu Đang là một nhân chứng quan trọng khác của cặp ấn, kiếm lịch sử ấy. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao làm Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập 2/9/1945 trong đó có việc dựng Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Trong hồi ký Ấn kiếm vương quyền nhà Nguyễn trên lễ đài ngày Độc lập (6), Nguyễn Hữu Đang kể: "Trở về phòng thường trực Ban Tổ chức, tôi yêu cầu Trần Lê Nghĩa, cũng là Phó Ban Tổ chức sửa soạn ngay một chiếc bàn con kiểu trang nhã có kèm theo một khăn phủ bằng nỉ hay lụa màu xanh lá cây và dặn: "Ấn, kiếm sẽ để trên bàn ấy kê trước mặt Cụ Hồ”. Ông mô tả: “Lưỡi kiếm cũng bằng vàng như vỏ kiếm nhưng dày hơn, chỉ ngắn bằng hai phần ba vỏ kiếm, chỗ bản rộng nhất độ hai phân, vuốt nhọn như lá lúa. Vỏ kiếm chạm nổi tỉ mỉ…Còn ấn, theo một nhà nghiên cứu sử, nó được đúc vào quãng năm 1744, Đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Trên ấn hình vuông (núm to cũng hình vuông) Nguyễn Phúc Khoát cho khắc bốn chữ Hán “Vương Quốc Chi Ấn"
Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập kể tiếp: "Đến lượt Trần Huy Liệu báo cáo. Tôi đứng sẵn trên chiếc bàn con để ấn, kiếm. Ông Liệu nói đến chỗ Bảo Đại trân trọng nộp ấn, kiếm, tôi sẽ bấm cánh tay ông để ông tạm ngừng lại. Rồi tôi, tay phải cầm lấy thanh kiếm, tay trái thản nhiên dùng năm đầu ngón tay nhón cái núm chiếc ấn, định cứ thế cùng một lúc giơ cả hai thứ lên cao để đồng bào thấy. Chẳng ngờ thanh kiếm tương đối nhẹ, một tay tôi thừa sức điều khiển, còn chiếc ấn bướng bỉnh cứ ỳ ra, không nhúc nhích – nó nhỏ thôi mà sao nặng quá thế! (sau này tôi mới biết nó nặng trên 5 kilôgam). Tôi vội buông thanh kiếm, dùng cả hai tay lấy hết sức lôi chiếc ấn lên cách mặt bàn độ ba mươi phân, luồn tay phải xuống phía dưới, lựa cho nó nằm trên cùi bàn tay để ngửa rồi cúi mình co cánh tay từ từ nâng thẳng nó lên như lực sĩ cử tạ. Trong khi tay trái với thanh kiếm giơ lên ngang chiếc ấn… Tôi cố đứng vững, hai tay dựng thẳng như thế bốn năm phút liền”.
Và đây là điều bất ngờ trong bài viết trên của Nguyễn Hữu Đang: “Trần Huy Liệu báo cáo xong, tôi vẫn đứng cạnh micrô để tiếp tục điều hành buổi lễ. Quay về phía Nguyễn Lương Bằng, đại diện Tổng bộ Việt Minh ngồi ở hàng ghế đầu, tôi sẽ cúi đầu, lùi lại một bước để nhường chỗ, tỏ ý mời ông đến phát biểu ý kiến như đã ghi trong chương trình. Bỗng Cụ Hồ đứng phắt dậy, nhanh nhẹn cầm lấy thanh kiếm, thong thả bước tới micrô, rút mạnh lưỡi kiếm ra khỏi vỏ rồi vừa giơ nó lên cao hết tầm tay, vừa thét lớn đến làm rung động không gian quảng trường, chậm rãi dằn từng tiếng: “Thanh kiếm này là để chặt đầu những tên phản quốc".
Từ những hồi ức và hồi ký trên của các nhân chứng hàng đầu, tôi rút ra những nhận định sau đây.
Một là, mô tả của Huy Cận theo đó “quốc ấn bằng vàng, đúc từ đời Minh Mạng” khớp với nguồn gốc của “Hoàng Đế Chi Bảo”. Cũng cần nói thêm rằng “Vương Quốc Chi Ấn", mà theo Nguyễn Hữu Đang được Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho đúc vào quãng năm 1744, đương nhiên không phải là ấn của Triều Nguyễn (bắt đầu năm 1802 với việc Chúa Nguyễn Phúc Anh lên ngôi Hoàng đế, lấy Gia Long làm niên hiệu) và do đó không thể được Bảo Đại sử dụng để đóng lên các văn bản của bản thân trong tư cách Hoàng đế Đại Nam (1825 -1945) và tiếp đó Hoàng đế Đế quốc Việt Nam (1945).
Hai là, trọng lượng “gần 10 kg” của ấn theo ước lượng của Phạm Khắc Hòe và Cù Huy Cận (7) hầu như không sai lệch với trọng lượng 10,5345 kg của “Hoàng Đế Chi Bảo”.
Ba là, lưỡi kiếm rỉ theo mô tả của Huy Cận lý giải được vì sao lưỡi kiếm bị gẫy theo mô tả của thứ phi Mộng Điệp (kiếm rỉ thì dễ gãy). Lưỡi kiếm rỉ của “An Dân Bảo Kiếm” của vua Khải Định được Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam trưng bày tại Bảo tàng Guimet, Paris vào năm 2014 (8) cho thấy tính xác thực của các mô tả trên. Nhận định này cũng nhằm bác bỏ suy diễn theo đó người chôn giấu đã bẻ thanh kiếm làm đôi để dễ cho vừa thùng dầu hỏa. Thực vậy, nếu nhằm mục đích này thì người dấu cũng đã bẻ vỏ kiếm làm đôi trong khi trên thực tế vỏ kiếm vẫn còn nguyên vẹn.
Mặc dầu vậy, cũng cần lý giải tại sao “lưỡi kiếm rỉ” tại lễ thoái vị của Bảo Đại theo mô tả của Huy Cận lại thoắt biến thành “lưỡi kiếm bằng vàng” (không thể rỉ) tại Lễ Độc lập như mô tả của Nguyễn Hữu Đang. Trong một lần thăm Nguyễn Hữu Đang tại một căn hộ nghèo nàn trên tầng 2 một khu tập thể tại Nghĩa Đô, Hà Nôi vào tháng 4/2004, tôi đã hỏi nhiều chuyện về cuộc đời “bão táp” của ông, từ chuyện về Lễ Độc lập 2/9/1945 đến 15 năm tù mà ông đã trải sau khi bị quy đứng đầu nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm phản Đảng” và bị xử về tội “làm gián điệp” vào năm 1958. Tôi nói: “Bác nói cái ấn nặng trên 5 kg còn bố cháu, nhà thơ Huy Cận nói cái ấn nặng gần 10 kg. Trên thực tế, ấn “Hoàng Đế Chi Bảo” mà Bảo Đại giữ tại Paris cũng nặng khoảng 10 kg. Về lưỡi kiếm, bác nói nó bằng vàng còn bố cháu khẳng định bị rỉ. Phải chăng bác nhớ nhầm?” Ông Đang chậm rãi: “Lưỡi kiếm đó làm bằng vàng mà. Làm thế nào tôi có thể nhìn sắt rỉ ra vàng được!” Tôi tin Nguyễn Hữu Đang là người trung thực, có thể ông ước lượng sai trọng lượng của ấn nhưng không thể bịa ra lưỡi kiếm bằng vàng, nhất là liên quan đến sự kiện quan trọng nhất của chế độ chính trị Việt Nam hiện hành. Như vậy, việc đánh tráo lưỡi kiếm chỉ có thể là một quyết định chính trị và người ra quyết định tày đình này không thể là ai khác ngoài Hồ Chí Minh. Thực vậy, nếu là ”lưỡi kiếm rỉ” thì “Cụ Hồ” không thể sử dụng để thể hiện cái uy, sự không nương tay của Cách mạng, của chính thể Cộng hòa lần đầu xuất hiện ở Việt Nam trước các phần tử đối địch - “để chặt đầu những tên phản quốc"!
Với những nhận định và lý giải trên, tôi kết luận rằng ấn “Hoàng Đế Chi Bảo” và kiếm mà người Pháp đã trao lại cho Bảo Đại trong tư cách Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam chính là ấn và kiếm mà vị này trong tư cách hoàng đế cuối cùng của Việt Nam đã trao cho hai ông Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại lễ thoái vị của mình cách đây tròn ba phần tư thế kỷ.
Vấn đề còn lại là bao giờ “Châu về Hợp Phố”, hai “quốc bảo” có giá trị bậc nhất này trở về tay Nhà nước Việt Nam?!
Chú thích:
Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Phạm Khắc Hoè, Nhà xuất bản Thuận Hóa 1987.
Hồi ký Trần Huy Liệu, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1991.
Hồi ký Song Đôi, Huy Cận, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2005.
Chuyện thoái vị của vua Bảo Đại qua lời kể của Huy Cận, Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, 14 Tháng 8 2012.
Lễ thoái vị của Hoàng đế Bảo Đại qua lời kể của nhà thơ Huy Cận, Vnexpress, 30/8/2015
Ấn kiếm vương quyền nhà Nguyễn trên lễ đài ngày Độc lập, Xưa Và Nay số 31, 9/1996.
Huy Cận cha tôi có sức khỏe và khả năng ước lượng trọng lượng các đồ vật rất tốt. Ông tự tay xách vali mỗi khi ra nước ngoài, kể cả khi tuổi đã ngoài 70. Trước khi ra sân bay, ông bao giờ cũng sắp xếp để vali không vượt quá 20 kg, giới hạn không phải trả phụ phí mà sân bay quy định cho đồ đạc mang theo. Tôi đã nhiều lần chứng kiến vali của ông được nhân viên sân bay cân vừa xoẳn 20 kg. Bản thân Huy Cận luôn tự hào về khả năng ước lượng chính xác trọng lượng này của ông.
Bảo Đại trao kiếm giả cho 'cách mạng'? Phạm Cao Phong, BBC Tiếng Việt, 4/9/2015.
Tác giả là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân chính trị Việt Nam.