jeudi 25 janvier 2018

Dấu hiệu bị tai biến mạch máu não


Khi tôi viết những dòng này còn đúng 10 ngày nữa là đến ngày giỗ đầu của mẹ. Từ ngày mẹ mất đến nay tôi luôn sống trong nỗi ám ảnh dằn vặt đến ngạt thở, hình ảnh giọt nước mắt mẹ trào ra khóe mắt khi tôi gào lên gọi mẹ lần cuối cứ ám ảnh từng giấc ngủ.

Năm ngoái tôi mới ra trường chưa có việc làm, nên về nhà một thời gian. Vào 1 ngày cuối năm định mệnh, khi 2 mẹ con vừa ngồi ăn khuya với nhau xong, mẹ bảo thấy mệt nên đi ngủ trước. Ba tôi ngủ ngoài cửa hàng, nhà anh trai cách 1 con hẻm nhỏ, còn chị gái chỉ cách 1 con đường.
Lúc mẹ đi ngủ được hơn nửa tiếng, tôi còn ngồi xem tivi ngoài phòng khách, nghe tiếng mẹ la ú ớ trong phòng, tôi nghĩ không biết mẹ nằm mơ gì mà la dữ vậy. Rồi 5 phút sau mẹ hét lên 1 tiếng thật to, tôi chạy vô phòng xem thấy mẹ đang nằm dưới đất, còn thấy quần ướt nhẹp. Tôi hơi bực, trong đầu nghĩ sao mẹ lớn rồi còn lại ghê thế này.
Rồi tôi bật đèn sáng hơn, vì mẹ để đèn phòng ngủ màu đỏ nên tôi chỉ thấy mờ mờ, khi bật đèn sáng hơn, tôi lại định đỡ mẹ lên giường.
Tôi lấy quần định thay cho mẹ, nhưng khi sờ vào người mới thấy mẹ lạnh ngắt thế này, tôi vội gọi:

– Mẹ, mẹ bị sao vậy mẹ ơi.

Mẹ dường như vẫn còn nghe được tiếng nên ráng nhướng mắt lên và thều thào ờ, ờ mấy tiếng rồi nín bặt.
Tôi thấy không yên, nên gào lên, rồi gọi điện thoại cho ba, anh trai và chị gái.
Ba và các anh chị đến, nhìn thấy mẹ anh trai bảo chắc trúng gió rồi, sắp lập đông mà.
Anh bảo tôi lấy đồ cạo gió, nhưng tôi nhất quyết không lấy, đòi anh kêu taxi đưa mẹ đi cấp cứu.
15 phút sau xe đến, dù đoạn đường từ nhà tôi đến bệnh viện khoảng 5 phút. Đưa mẹ vào phòng hồi sức cấp cứu các bác sĩ dùng tháy thở, rồi dùng 2 cái gì ấn vào người để điều hòa nhịp tim. Tôi không biết gọi là gì nhưng xem phim thấy người ta hay làm vậy.
Qua khe cửa tôi thấy các bác sĩ chạy rần rần lại và 1 bác sĩ trực tiếp cứu mẹ, miệng la hét gì đấy rồi ông đứng thẫn người xuôi tay và lắc đầu. Biết có điềm không lành nhưng tôi cũng ráng cố gắng chờ tin.


1 phút sau bác sĩ báo tin mẹ tôi đã qua đời trước khi đưa vô đây, dù hy vọng chết lâm sàng và sẽ cứu được nhưng quá trễ, đã qua thời gian vàng cứu chữa rồi.

– Nhưng mẹ em bị sao mà chết vậy bác sĩ – Tôi hỏi trong nước mắt.
– Bà bị tai biến mạch máu não, dẫn đến xuất huyết não, máu tràn qua cả màng não rồi không cứu được. Đáng lẽ em phải đưa bà vô bệnh viện sớm hơn sau để muộn dữ vậy.
– Em không biết, khi em nghe mẹ la gì đó, chạy vô phòng, thấy mẹ nằm dưới đất còn ướt quần nữa, em còn thay quần cho mẹ xong rồi mới gọi điện cho ba và anh trai về nhà.
Bác sĩ lại hỏi tiếp:
– Vậy trước đó bà có biểu hiện gì khác thường không, chẳng hạn như bà có mắc cao huyết áp không, cách đây vài ngày giọng nói của bà có thay đổi gì không, bà ăn cơm có khó nuốt không, có bị rơi ra ngoài như em bé không, tay chân có khó điều khiển không?

Tôi lục lại trí nhớ của mình thì hầu như có triệu chứng đó, còn về cao huyết áp thì mẹ đã bị nhiều năm nay rồi. Có lẽ vì vậy dạo gần đây tôi thấy mẹ nói chuyện mà giọng cứ run run, ăn cơm thì đổ cả bàn, tôi còn đùa sao mà mẹ cứ như con nít ấy, ăn rơi đầy kìa.
Bác sĩ giải thích thêm, đó là dấu hiệu sớm nhận biết mẹ tôi bị tai biến mạch máu não. Nếu gia đình biết sớm đưa bà đến bệnh viện trong giai đoạn này thì còn cứu được, lúc đó 1 trong những mạch máu trong não đã bị vỡ rồi, tuy nhiên vẫn chưa xuất huyết nặng, chỉ cần phẫu thuật và nối lại là mẹ tôi sẽ không sao.
Nghe bác sĩ giải thích xong tự nhưng lòng tôi quặn lại, tôi không còn đứng vững được nữa, thì ra sự vô tâm của mình đã làm mẹ chết như vậy. Là 1 người kề cận bên mẹ vậy mà những thay đổi của mẹ như vậy mình chẳng thèm để ý. Bây giờ tôi có ăn chay cạo đầu sám hối cũng chưa hết tội. Khi y tá đẩy mẹ ra bảo mọi người nhìn mặt mẹ lần cuối, tôi gào lên, mẹ ơi.
Vậy nên khi thấy cha mẹ mình có những thay đổi này, nhất là cha mẹ có sẵn bệnh cao huyết áp lập tức đưa đi bệnh viện ngay.

Dưới đây là các triệu chứng tai biến mạch máu não cần phải cảnh giác:

– Nhức đầu dữ dội, đột ngột. Triệu chứng này có ở trên 50% số bệnh nhân.
– Đột nhiên thấy chóng mặt, ù tai, choáng váng. Một bên chân bị yếu hẳn, không vững.
– Đột nhiên một bên tay không cầm nắm chắc được đồ vật, dễ rơi thìa, đũa, bát. Nhặt lại vật dụng để rơi một cách khó khăn.
– Đột nhiên rối loạn ngôn ngữ: nói khó, nói ngọng, mọi người không hiểu được bệnh nhân nói gì. Triệu chứng này có thể chỉ diễn ra trong ít phút, nhưng cũng có thể kéo dài cả ngày trước khi tai biến nghiêm trọng xảy ra: bệnh nhân không còn khả năng phát ngôn.
– Đột nhiên bệnh nhân có cảm giác như kim châm, kiến đốt ở đầu chi tay, chân, một nửa bên trên người.
– Xuất hiện những “khoảng vắng”: thỉnh thoảng bệnh nhân như mất hẳn sự kiểm soát của chính mình. Đang nói bỗng mất ngang trong giây lát mới lại tiếp tục được câu chuyện. Để rơi vật dụng trong tay mà không biết để rồi vài giây sau mới sực nhớ ra và nhặt lên.
– Những rối loạn trí thức: bệnh nhân đột nhiên mất định hướng trong vài phút, vài giờ. Thoáng quên, thoáng điếc, mất định hướng về không gian và thời gian.
– Đột nhiên xuất hiện cảm giác như có ruồi bay trước mắt, mất thị lực hoàn toàn hoặc một phần, hoặc một hai bên trong giây lát.

T.Anh chuyển

mercredi 24 janvier 2018

Ở PARIS, NẾU LỠ MỘT CHUYẾN SUBWAY , BẠN SẼ BẮT GẶP MỘT... GIAI ĐIỆU DU DƯƠNG

Nước Pháp không chỉ được biết tới là kinh đô hoa lệ của những bộ váy kiêu sa và những tòa lâu đài lộng lẫy. Đến với nước Pháp, bạn sẽ còn phát hiện ra rằng đất nước này có cả những thứ nhỏ bé rất bình dị nhưng lại quá đỗi đáng yêu và đáng để chúng ta học tập. Những nét đẹp ấy không nằm ở đâu xa mà lại trong chính những ga tàu.
Nước Pháp có một hệ thống giao thông công cộng rất phát triển với hệ thống ga tàu điện ngầm được xây dựng và điều phối chuyên nghiệp. Tuy nhiên, khi đi tàu điện ngầm ở Pháp, bạn không chỉ thích thú bởi sự tiện ích, an toàn và thuận tiện của loại hình phương tiện giao thông này, những ga tàu điện ở đất nước này sẽ khiến bạn đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

 

Nước Pháp không chỉ hoa lệ, kiêu sa mà còn bình dị và rất thơ mộng 

1. Nhà ga không chỉ có một màu

Đặc điểm nhận diện dễ dàng nhất của những ga metro tại Paris (một trong những thành phố có hệ thống tàu điện ngầm lớn nhất của Pháp) là những bức tường được ốp bằng những ô gạch trắng được sắp xếp tỉ mỉ, những tên bến thường được lắp ghép bằng những ô gạch xanh đậm theo phong cách mosaique, một phong cách trang trí được người Pháp rất yêu chuộng và không thể thiếu những băng ghế màu vàng nổi bật.


Nhưng khi những chuyến tàu đưa bạn đi khắp Paris, sẽ không ít lần bạn sẽ ồ lên ngạc nhiên và muốn có thêm nhiều thời gian để ngắm ga tàu. Bởi với những người Pháp yêu thích sự "tận dụng và kết hợp", bến tàu còn có thể là một "phòng trưng bày" lý tưởng để giúp du khách hiểu hơn về văn hóa và những điều mà người Pháp tự hào.
Bạn không nhầm đâu, đây là bến tàu có tên Art et Metier (tạm dich: Nghệ thuật và nghề nghiệp). Bến tàu có tên như vậy bởi nó nằm ngay phía dưới bảo tàng cùng tên rất được yêu thích tại Paris. Nơi đây, bạn có thể tha hồ khám phá lịch sử của những đồ cơ khí đầu tiên, tìm hiểu sự phát triển của chiếc điện thoại qua những hiện vật. Bạn sẽ bất ngờ về hình dạng của những đồ dùng rất đỗi quen thuộc ở thủa sơ khai của nó.


Ga tàu có tên Arts et Métiers (Nghệ thuật và nghề nghiệp)
Paris được mệnh danh là "kinh đô ánh sáng", có lẽ cũng bởi có những ga tàu như bến "La Cité" như thế này. Cả bến tàu trở nên lung linh và huyền ảo nhờ ánh sáng tỏa ra từ những cây đèn đầy chất thơ.


Bến tàu La Cité
Đi qua bến tàu điện Concorde, bạn đừng ngạc nhiên khi nhìn thấy du khách cứ dán mắt lên trần và tường, mồm lẩm nhẩm, tay chỉ chỉ như trong bức ảnh dưới nhé bởi bến tàu này được thiết kế phỏng theo một trò chơi ô chữ khổng lồ. Nhìn nhà ga này có lẽ bạn đã hiểu người Pháp thích chơi ô chữ như thế nào. Dường như không tờ báo giấy nào của Pháp thiếu trò chơi này.


Bến tàu điện Concorde
Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả những màu sắc của ga tàu điện ngầm ở Pháp. Phần còn lại đang chứa đựng rất nhiều điều thú vị chờ bạn khám phá.

2. Những nhà ga kể chuyện ngày xưa

Ở bất cứ nơi nào trên nước Pháp, với một chút hiếu kì và tò mò, bạn có thể bị đất nước này biến thành "một người ham mê lịch sử" từ lúc nào mà không hề hay biết. Những tên gọi của các bến tàu điện ngầm cũng sẽ góp phần tạo nên tình yêu ấy trong bạn.
Một người dân đang chăm chú đọc những câu chuyện lịch sử ở một bến tàu
Mỗi bến tàu sẽ mang tên của một danh nhân, một trận đánh lớn, một con phố ngay phía bên trên hoặc một sự kiện đã mãi lui vào quá khứ. Người Pháp luôn muốn nhắc nhở người dân của mình về những được và mất của lịch sử ngay trong cuộc sống thường ngày của mình.
Để giúp xây dựng tình yêu với lịch sử của người dân, ở rất nhiều những ga tàu, người ta đã trang bị những pa-nô lớn kể lại những câu chuyện gắn liền với tên gọi của bến, thậm chí những câu chuyện còn được tái hiện thành những tác phẩm nghệ thuật như ở bến tàu Parmentier trong bức ảnh dưới đây.


Bức tượng đặt tại bến tàu Parmentier nhằm tái hiện lại ký ức lịch sử 
Câu chuyện nổi tiếng được tái hiện trong bức tượng đặt tại bến "Parmentier" này kể về cuộc phiêu lưu của dược sĩ Parmentier – người được mệnh danh là "người sáng tạo ra món khoai tây". Ông đã vượt qua rất nhiều khó khăn và sự hiểu nhầm để đưa món ăn bổ dưỡng này lên bàn ăn của mọi gia đình ở Pháp..

3. Hướng dẫn viên du lịch không lời nhưng thân thiện

Những tấm bản đồ ở đây được mệnh danh là Những hướng dẫn viên không lời nhưng thân thiện.
Các biển chỉ dẫn lộ trình của tàu điện ngầm ở Paris luôn có ghi chú rõ ràng các trạm dừng mà bạn có thể xuống để thăm quan các địa điểm du lịch nổi tiếng của thành phố. Những địa điểm này cũng được ghi chú rất rõ trên bản đồ hệ thống tàu điện ngầm – chiếc bản đồ có thể khiến bạn sợ hãi khi lần đầu tiên nhìn thấy nhưng một khi đã nắm được logic của nó, bạn sẽ tự tin khám phá thành phố mà không lo chuyện sẽ bị lạc đường.


Thật tuyệt vời khi được ngắm nhìn tháp Eiffel hay dòng sông Seine thơ mộng qua ô cửa sổ của tàu điện
Thêm vào đó, chiêm ngưỡng Tháp Eiffel hay hoàng hôn trên sông Seine từ cửa sổ của tàu điện ngầm, điều đó hoàn toàn có thể và chắc chắn sẽ là một trải nghiệm tuyệt vời. Hãy bắt ngay tuyến tàu số 1 – tuyến tàu có màu vàng rực rỡ trên bản đồ.

4. Âm nhạc vang khắp không gian trong lòng đất

Đến với những nhà ga ở Paris, bạn sẽ được sống trong một không gian âm nhạc thực thụ bởi những ke tầu, những đường hành lang nối nhau đều có thể trở thành… sân khấu để hơn 300 nhạc sĩ, ca sĩ thể hiện niềm đam mê. 


Ở đây bạn có thể tìm thấy tất cả từ những giai điệu sôi động của một nhóm nhạc trẻ tuổi cho tới những bản ghi-ta trữ tình, đằm thắm của một nghệ sĩ già.


Hay một giọng ca ngọt ngào, dịu dàng đầy đam mê.


Ở nơi tưởng chừng không mấy liên quan ấy, âm nhạc của Bethoven, của Bach, của Mozart hay Vivaldi cũng đang ngân lên và theo những ke tàu đến với tất cả mọi lớp người.


Và không thể không kể đến những chiếc piano nối kết những trái tim yêu nhạc được đặt tại các nhà ga lớn để bất kì ai cũng có cơ hội được sống với tình yêu của mình và mang lại những phút giây thư thái cho những người xung quanh.


5. Với người Pháp, sách là một phần cuộc sống, tàu điện ngầm chính là "thư phòng di động"

Đến Pháp và bắt một chuyến tàu điện ngầm để di chuyển, bạn sẽ vô cùng ấn tượng với niềm đam mê đọc của người Pháp. Bất kể tàu đi hay dừng, người Pháp vẫn say mê với những con chữ.


Bạn sẽ dễ dàng bắt gặp trên ke tàu, phòng chờ và trên những khoang tàu những hình ảnh thật đẹp như thế này. Người Pháp yêu sách và đặc biệt là sách giấy. Tại đất nước của Molière, ngành xuất bản đã sáng tạo ra một loại sách in được gọi là "Livre de poche" (Sách bỏ túi) với kích cỡ chỉ nhỏ như lòng bàn tay, giấy in nhẹ giúp người mua dễ dàng mang cuốn sách đi bất cứ nơi đâu để đọc trong bất kì hoàn cảnh nào..


Hiện nay, với sự phát triển của công nghệ hiện đại, điện thoại hay máy đọc sách vẫn không thể chiếm được trái tim của những người Pháp. Bởi với họ, những cuốn sách đã cũ với những trang giấy ngả màu thời gian vẫn luôn mang đến sự thích thú khi thưởng thức.


Sách giúp cho những chuyến tàu đêm không còn buồn hay cô đơn bởi khi ấy, tàu điện ngầm lại là nơi thích hợp nhất cho người Pháp quên bớt ưu tư để tận hưởng cuốn sách của mình.


Tới cả những người vô gia cư, không có nhà và phải xin ăn từng bữa, họ vẫn có những cuốn sách làm bạn đồng hành.

Ở các ga tàu, luôn có sẵn những tờ nhật báo miễn phí dành cho tất cả mọi người. Không chỉ có vậy, trong các cửa hàng tạp hóa hiệu "Relay" ở khắp các bến tàu, một nửa trong số các mặt hàng của họ luôn là tạp chí, báo và sách.
Gần đây, tình yêu sách của người Pháp càng được củng cố khi đơn vị vận hành hệ thống tàu điện của nước này đã cho lắp đặt thử nghiệm các máy bán truyện ngắn tự động để phục vụ khách đi tàu. 5000 nhà văn trong nước đã gửi tác phẩm mới của mình tới cho hãng.


Các truyện ngắn sẽ được biên tập và đưa vào cỗ máy đặc biệt này. Hành khách có thể chọn độ dài câu chuyện mà mình muốn đọc (từ 1, 3 hoặc 5 phút). Máy sẽ tự động chọn một tác phẩm cho bạn. Bạn có thể may mắn đọc được một bài thơ, truyện ngắn mang hơi hướng cổ điển, cổ tích hay thần thoại… Hơn thế nữa, cỗ máy này "bán" truyện hoàn toàn miễn phí.
Những cuốn sách nơi nhà ga là một phần của những lý do tại sao người ta vẫn nói, đến Pháp chính là bạn đang đến với đất nước của những nhà văn, nơi đọc và viết là một phần cuộc sống./.

Hồng Công chuyển

dimanche 21 janvier 2018

Tản mạn về phim “The Post”

ĐI XEM MỘT KỶ NIỆM
Tản mạn về phim “The Post”

Lý Nguyên Diệu

“Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng …”
Trịnh Công Sơn


Chiều hôm qua tôi đi xem phim “The Post” vừa được phát hành với giá vé chỉ 6 đồng cho người lớn tuổi. Ngoài cái lợi tiền bạc, người lớn tuổi còn được xem phim nầy như hồi tưởng về một kỷ niệm không thể quên, dựa trên một câu chuyện có thật đã xảy ra cách đây gần nửa thế kỷ.
Điều đặc biệt đầu tiên của phim “The Post” là, dù đã biết rất rõ kết cuộc sẽ như thế nào, người xem càng lớn tuổi (những người đã sống qua thời kỳ những năm 1960, 70), càng thấy thấm thía cái hay của phim nầy. Một điều đặc sắc khác trong thời buổi nầy là một phim Mỹ dài 1 giờ 56 phút mà không có súng đạn (trừ hai phút đầu tiên về chiến tranh Việt Nam), không có tình dục, áo quần hở hang, … lại được đa số các cơ quan truyền thông Mỹ xếp hạng 1 trong 10 phim hay nhất của năm 2017. Một điều hi hữu để lôi kéo các tay ghiền xi-nê là phim nầy tập họp 3 ngôi sao sáng chói của Hollywood: Đạo diễn Steven Spielberg (14 Oscars & 10 Đề cử), nữ tài tử Meryl Streep (3 Oscars & 17 Đề cử) và nam tài tử Tom Hanks (2 Oscars & 3 Đề cử).

Phim “The Post” bao gồm ba câu chuyện chính. Chuyện chiến tranh Việt Nam, chuyện một người đàn bà can đảm và quan trọng nhất là chuyện tự do ngôn luận. Tựa của cuốn phim là tên cắt ngắn của nhật báo “The Washington Post”. Một trong những tờ nhật báo hàng đầu của miền Đông nước Mỹ đã lấy một quyết định vô tiền khoáng hậu khi bất chấp áp lực của Toà Bạch Ốc, in lại Hồ sơ Ngũ Giác Đài (Pentagon Papers) làm rung động nước Mỹ từ mùa Hè năm 1971 cho đến bây giờ, dưới thời đại “fake news” của Tổng thống Donald Trump đang cố gắng khuất phục một nền báo chí bất trị.

Chuyện thứ nhất về Hồ sơ Ngũ Giác Đài thì với người Việt Nam, 4000 trang của Hồ sơ về nguồn gốc và quá trình tham chiến của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam phải là chuyện quan trọng. Đạo diễn Spielberg cũng ý thức điều nầy khi ông bắt đầu phim bằng hình ảnh một cuộc hành quân bi thảm tại Hậu Nghĩa năm 1966. Kéo theo phản ứng của Daniel Ellsberg, một chuyên viên của Rand Corporation, khi làm việc trên Hồ Sơ Ngũ Giác Đài theo lệnh của Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara, đã khám phá những dối trá liên tục của 5 chính quyền Mỹ từ thời Tổng thống Truman đến Nixon.
Đáng chú ý nhất là sau khi lấy trộm Hồ sơ để công khai hoá qua báo chí, một nhà báo đã hỏi anh có biết sẽ có thể bị tù vì giải mật một tài liệu quốc gia không? Ellsberg đã trả lời không ngần ngại bằng lương tâm (“tấm lòng” của TCS) của một con người đầy nhân bản: “Nếu đi tù mà (chấm dứt chiến tranh) cứu được bao nhiêu mạng người thì cũng đáng”. Để làm rõ hơn tính chất dối trá của cuộc chiến, đạo diễn Spielberg còn sưu tầm và trình bày lại những đoạn diễn văn lừa bịp của các Tổng thống Eisenhower, Kennedy, Johnson mà bây giờ một người Việt Nam đã đọc qua Hồ sơ Ngũ Giác Đài không thể không thấy chua xót cho thân phận của hai nền Cộng Hoà của miền Nam Việt Nam, từ Tổng thống Diệm đến Tổng thống Thiệu, đã bị làm con cờ thí cho “đồng minh”. Trong năm 2017, tài liệu truyền hình “Chiến tranh Việt Nam” (The Vietnam War) của Ken Burns cũng đã trình bày rất cặn kẽ và rõ ràng bi kịch nầy của dân tộc ta.

Chuyện thứ hai về người đàn bà vai chính trong phim là Katharine “Kay” Graham (qua phần diễn xuất điêu luyện xứng đáng giải Oscar của Meryl Streep). Goá chồng năm 46 tuổi và phải thay chồng cầm đầu một tạp chí lớn. Tám năm sau, 1971, người đàn bà quý phái, mảnh mai đó phải lấy một quyết định sinh tử mang nặng hai hệ quả: Một là quay lưng lại với tình bạn cố cựu giữa gia đình bà và gia đình Tổng thống Lyndon B. Johnson và gia đình Bộ trưởng McNamara. Hai là chính bà và chủ bút Ben C. Bradlee có thể đi tù vì cãi lệnh toà án đang bị áp lực của chính quyền Nixon..
Trong cái thập niên 1960 hỗn loạn, bà “Kay” đã phải ra khỏi chốn khuê phòng để tương tác với những nhà tài phiệt lão luyện của Thị trường Chứng khoán Nữu Ước (NYSE) đã là một điều đáng khâm phục như một khởi đầu của phong trào phụ nữ bình quyền. Để thể hiện tư cách của bà chủ báo, cuốn phim cho thấy khi nghe nhân viên báo cáo một triệu rưỡi Mỹ kim tiền lời cho báo Washington Post, bà nói ngay: “Đó là lương của 25 ký giả giỏi” chứ không nói gì đến tài khoản ngân hàng của bà sẽ gia tăng. Cũng trong tinh thần đó, bà đã nói với chủ bút Bradlee: “Phẩm chất cũng có thể đi đôi với lợi nhuận”. Thật là ngược hẳn với nguyên tắc kinh tế của Trung Cọng bây giờ là hy sinh phẩm chất để đạt lợi nhuận. Năm 1971, sự nghiệp bà lên đến cao điểm tận cùng khi bà dựa vào lương tâm (“tấm lòng” của TCS), dựa vào sự nghiệp báo chí của cha và của chồng, dựa lên bổn phận của một người dân, để quyết định đăng lên báo Washington Post của bà những trang “Tối Mật” của Hồ sơ Ngũ Giác Đài. Đoạn phim đầy xúc động khi bà đến nhà cựu Bộ trưởng McNamara để, nhân danh là một người bạn, một bà mẹ, một người dân, một nhà báo, đặt thẳng câu hỏi: “Vì sao ông biết không thể thắng cuộc chiến từ năm 1965 mà ông vẫn tiếp tục gửi quân qua chiến trường Việt Nam?” Những biện hộ lúng túng của ông cựu Bộ trưởng trong căn nhà vắng vẻ chỉ có hai người cho ta thấy sự thật trần truồng của cuộc chiến bi thảm dài 20 năm đó, không có một “chính nghĩa” nào, một “lý tưởng tự do” nào, mà chỉ có quyền lợi nước Mỹ (“America First”) và thân phận bi thảm của những dân tộc nhược tiểu.

Chuyện cuối cùng và quan trọng nhất, vượt cả thời gian lẫn không gian, của phim “The Post” là cuộc tranh đấu bảo vệ tự do ngôn luận giữa báo chí và quyền lực nhà nước. Ngược lại với những trang sử đen tối của nước Mỹ trong cuộc Nội Chiến chống chế độ nô lệ  năm 1861 hay cuộc “thảm sát Mỹ Lai” năm 1968, những gì đã xảy ra tại Hoa Thịnh Đốn vào mùa Hè năm 1971 phải được coi là trang sử sáng láng nhất của nước Mỹ mà toàn thế giới phải tìm đọc và ráng học lại mỗi ngày. Phần nầy của phim giúp cho chúng ta hiểu vì sao “Tu chính Án số Một” của Hiến Pháp Hoa Kỳ phải là Số Một. Số đầu tiên. Số quan trọng nhất. Hãy cùng nhau đọc lại viên ngọc nầy: “Quốc Hội không được đưa ra bất kỳ luật nào để thiết lập tôn giáo, hoặc để cấm tự do tôn giáo; để giảm bớt quyền tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí; hoặc quyền người dân được tụ tập ôn hoà, và quyền kiến ​​nghị chính quyền phải giải quyết các khiếu nại.” (Congress shall make no law respecting an establishment of religion, or prohibiting the free exercise thereof; or abridging the freedom of speech, or of the press; or the right of the people peaceably to assemble, and to petition the Government for a redress of grievances).
Phân tích một cách cơ bản thì chính Đệ Nhất Tu Chính Án nầy là thành trì bảo vệ Đệ Tứ Quyền đã giúp kiểm soát, quân bằng và yểm trợ ba quyền Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp để nước Mỹ trở thành cường quốc như ngày hôm nay theo logic của một bài chính trị học đơn giản: Quốc gia nào cũng phải có một chính quyền. Chính quyền là sản phẩm của con người nên chính quyền nào cũng không hoàn toàn, phải có lỗi lầm, sai trái (bugs in each and every system). Muốn sửa sai trái thì phải biết có sai trái và sai trái như thế nào. Sau khi sửa sai chính quyền mới có thể có tiến bộ. Trong tiến trình chính trị nầy, báo chí lãnh trách nhiệm nặng nề nhất. Đó là dùng quyền tự do ngôn luận để giúp cho chính quyền “biết có sai trái và sai trái như thế nào”.

Chính vì ý thức được tầm quan trọng căn bản đó mà Katharine Graham và Chủ bút Ben Bradlee (với sự hổ trợ tích cực của các ký giả như Meg Greenfield, Ben Bagdikian) đã đứng đầu sóng ngọn gió để vượt qua áp lực chính trị của Tổng thống Nixon, vượt qua áp lực kinh tế của các chủ ngân hàng. Và chính nghĩa của họ đã “tất thắng” chói lọi khi gần 20 nhật báo lớn khác của Mỹ đoàn kết theo gương tờ Washington Post để cùng trích đăng Hồ sơ Ngũ Giác Đài, và nhất là khi Toà Án Tối Cao Liên Bang đã phán quyết bầu thuận cho tờ Post qua đa số phiếu 6-3


Điều phải nói thêm là cuốn phim cho thấy quyết định xử dụng quyền tự do báo chí của bà chủ nhân Graham và chủ bút Bradlee là một quyết định đầy ý thức trách nhiệm. Trách nhiệm với quốc gia, với dân tộc, dựa trên một quá khứ cách mạng chống thực dân Anh và dựa vào một tin tưởng ở tương lai dân chủ, thịnh vượng của nước Mỹ.
Vì vậy mà giá trị, đáng mua cái vé 6 đồng, của phim “The Post” là đã vẽ được một cách sinh động một kinh nghiệm huy hoàng trong lịch sử nước Mỹ mà người dân Mỹ có thể hãnh diện nhất. Và đó cũng là một bài học về tôn trọng tự do ngôn luận mà nhà nước Việt Nam (và rất nhiều nước khác) phải cho trình chiếu rộng rãi cho đại chúng, và phải học mỗi ngày bằng cách bắt buộc tất cả cán bộ phải xem phim “The Post” mỗi buổi sáng.

LÝ NGUYÊN DIỆU
Đầu năm 2018

Ngọc Tuyền sưu tầm

CHO NGÀY HÔM NAY

CHO NGÀY HÔM NAY


SƯU TẦM
Trong mục “Cửa sổ tâm hồn” của báo Tuổi Trẻ có đăng một bài với tựa đề “Cho ngày hôm nay” như sau: Có hai ngày trong tuần chúng ta không nên lo lắng.
Một ngày là ngày hôm qua, với những sai lầm, những âu lo, những tội lỗi, những thiếu sót và những nỗi đau. Ngày hôm qua đã đi qua. Mọi tiền bạc trên đời này cũng không thể đem ngày hôm qua quay trở lại. Chúng ta không thể nào hủy bỏ một hành động mà chúng ta đã làm cũng như không thể nào xóa đi một ngôn từ mà chúng ta đã thốt ra. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Còn một ngày nữa mà chúng ta không nên lo lắng, đó là ngày mai với những kẻ thù quá quắt, những gánh nặng cuộc sống, những hứa hẹn tràn trề. Mặt trời của ngày mai sẽ mọc lên hoặc là chói lọi hoặc là khuất sau đám mây, nhưng dù gì thì nó vẫn sẽ mọc lên. Và trước khi nó mọc lên, vào ngày mai chúng ta chẳng có mối đe dọa nào, bởi lẽ nó vẫn chưa được sinh ra.
Vì vậy chỉ còn một ngày duy nhất là ngày hôm nay. Bất cứ ai cũng đều phải đấu tranh để sống dù chỉ một ngày. Thật ra chẳng phải những gì trải qua ngày hôm nay khiến người ta phát rồ – mà đó chính là sự hối tiếc về những gì đã xảy ra ngày hôm qua và những lo sợ về những gì ngày mai có thể đem đến.
“Năm cô trinh nữ khôn ngoan” là những con người của ngày hôm nay. Các cô không hối tiếc cho ngày hôm qua, cũng không lo lắng cho ngày mai, vì ngày hôm nay, các cô đang cầm đèn cháy sáng trong tay theo chú rể vào dự tiệc cưới.
“Năm cô trinh nữ khờ dại” mãi mãi là những con người của ngày hôm qua. Cho dù các cô có đi mua thêm dầu, rồi cầm đèn cháy sáng trong tay, nhưng đã quá muộn, vì cửa đã đóng.Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Cuộc đời người tín hữu Kitô lúc nào cũng phải được xem là ngày hôm nay, luôn sẵn sàng chờ chàng rể đến, để vào dự tiệc cưới Nước Trời. Thế nào là người tín hữu luôn sẵn sàng? Tin Mừng hôm nay chỉ rõ: “Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo”. Cốt lõi vấn đề là ở chỗ đó. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo, nên các cô sẽ mãi mãi là người đến sau, mãi mãi phải đứng bên ngoài, suốt đời hối tiếc. Vì ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Trái lại, các cô khôn vừa mang đèn vừa mang theo chai dầu. Đèn chính là ánh sáng đức tin luôn chiếu tỏa từ ngày chịu phép rửa tội. Đã có đèn thì phải có dầu; đã thắp đèn thì phải hao dầu, hao dầu thì phải châm thêm mỗi ngày. Dầu ấy chính là dầu bác ái yêu thương. Chỉ có dầu tình yêu mới thắp sáng được cây đèn đức tin của người tín hữu. Thánh Gioan viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Ai vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo người đó được kể là người sẵn sàng và là thực khách danh dự của tiệc cưới Nước Trời. Thánh Matthêu ghi rõ: “Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới”. Vì thế, những người luôn sẵn sàng là những con người của ngày hôm nay, không hối tiếc cho ngày hôm qua đã đi xa rồi, cũng chẳng lo lắng cho ngày mai chưa tới, nhưng chỉ tỉnh thức trong ngày hôm nay cho đèn luôn cháy sáng, cho dầu vơi lại đầy.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng! – Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cũng cạn. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi, lời kinh có khi cũng phôi pha, cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương, chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.

samedi 20 janvier 2018

THIÊN CHÚA GẦN GŨI


Đang có một dòng văn học ghi lại cảm nghiệm của những người bị chết lâm sàng trong một thời gian (vài phút hay vài giờ) rồi phục hồi về mặt y khoa và sống lại. Nhiều người chúng ta biết đến quyển sách của bác sĩ Eben Alexander, Bằng chứng về Thiên đàng: Hành trình của một bác sĩ phẫu thuật não vào Đời sau [Proof of Heaven: A Neurosurgeon’s Journey into the Afterlife]. Mới đây, Hollywood có ra mắt bộ phim Phép lạ từ Thiên đàng [Miracles from Heaven], với câu chuyện thật về một cô gái ở Texas đã chết lâm sàng, nhưng rồi sống lại theo y khoa và đã chia sẻ những gì mình cảm nghiệm được trong đời sau.

Qua vài chục năm, đã có hàng trăm câu chuyện như thế được công bố hay đơn giản là chia sẻ với những người thân thuộc. Điều đáng chú ý (và cũng đem lại khuây khỏa) là những câu chuyện này vô cùng tích cực, dù cho nhân vật chính theo bất kỳ tôn giáo nào. Trong hầu như mọi trường hợp, dù rất khó tả, nhưng họ đều cảm nghiệm được một cảm giác yêu thương nồng ấm rất gần gũi, ánh sáng và sự chào đón, và một số người còn gặp được những người thân đã qua đời, đôi khi là những người thân mà họ chưa biết. Và trong hầu như mọi trường hợp, họ không muốn trở lại cuộc sống này, như thánh Phêrô trên núi Biến hình vậy, họ muốn được ở lại đó.


Gần đây, khi diễn thuyết tại một hội thảo, tôi có nhắc đến dòng văn học này và chỉ rarằng, dường như khi người ta chết, ai cũng lên thiên đàng. Tất nhiên, điều này sẽ khiếnta bật ra ngay những tranh luận. “Còn địa ngục thì sao? Khi chết đi, ta không bị phánxét sao? Không có ai vào địa ngục sao?” Câu trả lời của tôi cho những câu hỏi này, làtrong khi tất cả chúng ta đều lên thiên đàng sau khi chết, nhưng tùy vào khuynh hướngđạo đức và tâm linh của mình, có thể chúng ta lại không muốn ở lại đó. Như ChúaGiêsu đã nói, địa ngục là một lựa chọn, thật sự là một lựa chọn, và chính chúng ta phánxét mình. Thiên Chúa không đẩy ai vào địa ngục cả. Địa ngục là do chúng ta chọn.



Tuy nhiên, tôi muốn chia sẻ một chuyện sau buổi hội thảo đó. Khi tôi sắp ra về, một bà tìm đến và nói là bà từng có cảm nghiệm đó. Bà đã bị chết lâm sàng trong vài phút rồi sống lại nhờ biện pháp y khoa. Và như cảm nghiệm của mọi người khác, bà cũng cảm thấy một sự nồng ấm, ánh sáng, và chào đón vô cùng mãnh liệt, đến nỗi bà không muốn quay lại đời này nữa. Tuy nhiên, điều bà nhớ nhất và muốn chia sẻ với người khác nhất, là thế này: Tôi biết được rằng Thiên Chúa rất gần gũi. Chúng ta chẳng hiểu nổi Thiên Chúa gần gũi chúng ta đến mức nào đâu. Thiên Chúa gần gũi chúng ta hơn ta tưởng quá nhiều! Cảm nghiệm đó đã cho bà ghi khắc luôn mãi một cảm giác về sự nồng ấm, yêu thương và chào đón của Thiên Chúa, nhưng dấu ấn sâu sắc nhất trong bà chính là cảm giác về sự gần gũi của Thiên Chúa.

Tôi chấn động trước lời chia sẻ này, cũng như hàng triệu người khác, tôi chưa cảm được sự gần gũi đó, hay ít nhất là chưa cảm được một cách rõ ràng. Thiên Chúa có vẻ xa cách, trừu tượng và phi nhân, một Thần Linh với hàng triệu việc phải lo nên chẳng thể chăm lo cho những chuyện vụn vặt của sinh linh bé nhỏ là tôi.

Hơn nữa, là Kitô hữu, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là vô hạn và khôn tả. Thế nghĩa là dù chúng ta có thể biết Chúa, nhưng không bao giờ hình dung nổi Chúa. Do đó, càng khó hơn khi chúng ta hình dung một Đấng Tạo Hóa vô hạn và Đấng Bao Hàm mọi sự lại ở ngay trong chúng ta, lo lắng cho chúng ta, chia sẻ những dằn vặt của ta, và biết những cảm giác khó nói nhất của ta.

Hơn nữa, bất kỳ lúc nào chúng ta cố gắng hình dung về Thiên Chúa, thì trí tưởng tượng của chúng ta lại bị đẩy lùi trước ngưỡng không thể hình dung. Ví dụ như, hãy thử hình dung điều này: Có hàng tỷ người trên trái đất, và hàng tỷ người đã sống trước chúng ta. Mỗi phút, hàng ngàn người sinh ra, hàng ngàn người chết đi, hàng ngàn người phạm tội, hàng ngàn người làm việc tốt, hàng ngàn người yêu nhau, hàng ngàn người chịu khổ, hàng ngàn người rộn ràng vui sướng, tất cả chỉ là một phần nhỏ trong hàng tỷ tỷ sự kiện. Làm sao một trái tim, một cái đầu, một con người có thể ý thức được tất cả những chuyện này, biết rõ và đồng cảm với chúng ta theo mức độ “tóc trên đầu anh em đều được đếm hết rồi”? Thật không thể nào hình dung nổi, và đó chính là một phần định nghĩa về Thiên Chúa.

Làm sao Thiên Chúa có thể gần gũi với chúng ta như chính chúng ta được? Đây là mầu nhiệm, và khôn ngoan thì công nhận mầu nhiệm, vì bất kỳ điều gì chúng ta có thể hiểu được thì chưa đến tận cùng thâm sâu! Mầu nhiệm về sự gần gũi của Thiên Chúa, sự hiện diện của Ngài trong chúng ta, thật vượt quá hình dung của chúng ta. Nhưng mọi điều trong truyền thống đức tin của chúng ta và hầu hết mọi điều trong lời chứng của hàng trăm người từng có cảm nghiệm về đời sau, đảm bảo với chúng ta rằng, dù Thiên Chúa có thể vô hạn và khôn tả, nhưng Thiên Chúa vô cùng gần gũi với chúng ta, gần gũi hơn ta tưởng.

Rev. Ron Rolheiser, OMI
T.Anh sưu tầm

vendredi 19 janvier 2018

THAY ĐỔI BẢN THÂN ĐỂ ĐỔI THAY THẾ GIỚI


Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua cai quản một vương quốc rộng lớn bao la. Ông muốn đích thân đi thăm những miền xa xôi của đất nước. Khi về đến nhà, đôi bàn chân ông sưng tấy và đau đớn, vì đường xá gập ghềnh sỏi đá. Ông liền ra lệnh tất cả các con đường trong vương quốc phải trải bằng da lông thú để nếu ông đi thăm vương quốc thì chân ông không còn bị đau. Cả triều đình đều thấy đó là một điều vô lý, nhưng chẳng ai dám lên tiếng. Sau cùng, có một vị quan dũng cảm đã nói với vua:“Tâu bệ hạ, tại sao vương quốc của chúng ta lại phải tiêu tốn ngân khố một cách vô ích như vậy? Tại sao bệ hạ lại không cho cắt những miếng da bò rồi phủ quanh đôi chân trần của mình? Như vậy, chân Người sẽ không còn bị đau khi đi qua những con đường gập ghềnh sỏi đá, mà cả vương quốc sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc?” Nhà vua rất ngạc nhiên trước lời đề nghị của vị quan, và thế là đôi giày da đầu tiên của nhân loại ra đời.

Có nhiều người muốn bắt cả thế giới theo mình, trong khi nếu mình thay đổi cách sống và quan niệm cá nhân, thì sẽ cảm nhận thế giới hoàn toàn khác. Thay đổi bản thân, trong ngôn ngữ của Tin Mừng, là thành tâm sám hối. Ngôn sứ Giona được Chúa sai đến thành Ninivê để kêu gọi dân thành sám hối. Vào thời đó, thành phố này có tiếng là tội lỗi và hung bạo, đến nỗi khi ông Giona nghe thấy Chúa sai mình đến đó thì tìm cách chạy trốn vì sợ hãi. Nhưng lạ thay, khi nghe lời Giona rao giảng, mọi người, từ vua cho tới dân đã ăn chay sám hối theo lệnh của vua. Nhờ lòng sám hối, dân thành đã không bị án phạt giáng xuống.

Chúa Giêsu khởi đầu sứ mạng loan báo Tin Mừng bằng lời kêu gọi sám hối. Lời kêu gọi này còn được lặp đi lặp lại nhiều lần, ở mọi nơi Người đặt chân tới. Sám hối là một phần quan trọng của giáo huấn Tin Mừng. Lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu đi liền với lời mời gọi tin vào Tin Mừng Người rao giảng. Tin vào Tin Mừng là nhận biết Chúa Cha, đấng bao dung nhân hậu. Ngài luôn chờ đợi chúng ta trở về để đón nhận sự tha thứ. Tin Mừng kể lại có những người rất tội lỗi, nhưng đã mở lòng đón nhận giáo huấn của Chúa và được ơn thứ tha. Lịch sử Giáo Hội cũng làm chứng cho chúng ta, rất nhiều tội nhân đã sám hối và được nên thánh.



Sám hối là khiêm tốn nhìn nhận những sai sót lỗi lầm của mình, đồng thời hứa với Chúa sẽ thay đổi cuộc sống của mình nên tốt hơn. Một khi chúng ta thay đổi cuộc sống và thay đổi cách nhìn của mình đối với những người xung quanh, chúng ta sẽ nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác. Thay đổi cuộc sống sẽ giúp chúng ta thấy cuộc đời lạc quan đáng yêu hơn, đồng thời thúc đẩy chúng ta đóng góp phần mình để nhân lên những điều thiện hảo trong cuộc sống. Giống như vị vua trong câu chuyện trên đây, khi ông bọc đôi chân bằng miếng da bò, thì đi đâu cũng thấy êm ái và sạch sẽ. Khi trong tâm trí chúng ta có những tâm tình tốt đẹp, chúng ta sẽ khám phá những nét đẹp tiềm ẩn nơi mọi người mọi vật xung quanh.



Sám hối còn là đoạn tuyệt với quá khứ để khởi đầu một hành trình mới theo chân Đức Giêsu. Thánh Máccô kể với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay về việc Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Anrê và Simon, Giacôbê và Gioan là những người đã can đảm từ bỏ cuộc sống cũ để khởi đầu một hành trình mới. Tiếng gọi “Hãy theo tôi” có sức thuyết phục kỳ diệu, khiến các ông sẵn sàng từ bỏ những người thân yêu và nghề nghiệp bao năm gắn bó. Sau này, nhiều khi phải đối diện với những khó khăn, chống đối và thiếu thốn, nhưng các ông không hề hối tiếc vì sự lựa chọn này: “Thưa Thày, bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Thày mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,67).

Cũng như một cỗ máy cần được bảo dưỡng luôn luôn, cũng như những cây nho cần được thường xuyên cắt tỉa, tâm hồn chúng ta phải được thanh tẩy mỗi ngày, để nhờ đó, chúng ta được biến đổi, nên giống Chúa hơn. Lời kêu gọi thay đổi cuộc đời luôn âm vang trong cuộc sống của người tín hữu chúng ta. Đây không phải là một khẩu hiệu, mà là một lời khuyên rất thiết thực, vì “thời gian chẳng còn bao lâu.” Thánh Phaolô đã dùng cách nói rất cụ thể để nói với chúng ta hãy lựa chọn những điều tốt nhất và lâu bền cho mình, bởi vì bộ mặt thế gian này đang qua đi, nên “những ai có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc hãy làm như không khóc; ai vui mừng như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả…”.

“Mỗi vị thánh đều có một quá khứ; mỗi tội nhân đều có một tương lai.” Đừng có ai mặc cảm về đời sống của mình mà không mạnh dạn thay đổi cuộc đời. Nếu mạnh dạn tiến bước, chúng ta chẳng còn là tội nhân, mà sẽ là những vị thánh, nhờ lòng bao dung thứ tha và ơn phù trợ của Thiên Chúa. “Tâm bình, thế giới bình,” cuộc đời này sẽ thay đổi, khởi đi từ sự thay đổi trong chính con người mỗi chúng ta.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên 
T.Anh chuyển

mercredi 17 janvier 2018

Phiên Phiến Tuổi Già



Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại! Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết!!! Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng, sai, có nhiều mặt khác nhau. Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu: "Mai mốt tôi già rồi thì... Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt ngang lời mẹ, và hỏi lại: " Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?" Bà cụ chỉ cười, không đáp lại! Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật. Người em ông nói: "Theo tôi, thì không có ai già, và cũng chẳng có ai trẻ! Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối. Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế! Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà khi tôi sáu mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi là bọn con nít! Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ”!!! 

 Ông Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi! Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già! Nếu mình thấy mọi người dường như trẻ lại, thì chính mình già đã đi, vì mình so sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày! Nói về cái tai điếc, ông nói: "Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa. Không phải vậy đâu! Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng! Rồi cứ tưởng nhạc dở! Đó là dấu hiệu già.!!! Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ bảo oan cho mình là quá lớn”!!!

 Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai”! Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm! Không nghe, thì không bực mình, không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa! Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông chồng khéo nhịn! Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng! Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và lắng nghe! Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây! Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi!!! 

 Ông Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc! Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói rằng, việc chi mà bực?. Phải mừng chứ đừng bực! Mừng và cám ơn khoa học tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe, đã là quá quý rồi! Tuổi đã cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho! Phải biết cảm nhận và cám ơn trời!!! 

 Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không? Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu? Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào! Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm! Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ, con người ta, thì cũng bẽ bàng!!! 

 Một lần, bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên. Ông thấy có một "lão trượng" đứng nhìn ông chằm chằm, như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi cho người già cả! Ông đoán chắc, chín mươi phần là "lão trượng" kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ! Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia! Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra mà chứng minh?! Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt!!! 

 Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như thế? Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là "đêm bảy, ngày ba" cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi! Ông nói rằng, nếu có khai trụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh ai? Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi. Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà, các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi được người khác tin! Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn!!!

 Dạo sau nầy, khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng không gọn gàng, cứ rớt ra vài chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ thức ăn. Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo làm gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ, rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau viả hè, bên thềm. Nghe thế, bà vợ nhìn ông một lúc lâu, rồi rưng rưng nước mắt. Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. Ông hay quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu "cái đó" mà ông trời không bắt dính chặt vào người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên, mà tìm không ra. Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba ngày ông chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra, thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có nhiều cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh chi cũng rán tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt. Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt! Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó cũng nhờ trời cho! Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy!!! 

 Nhiều ông bạn ông, kiêng khem kỹ lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và béo. Họ ăn lạt, không dám ăn đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói, thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức ngon của trời cho! Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp!!! Một ông bạn cho ông Tư biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller, thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là: 1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ, 2) thể dục thường xuyên! Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ, mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết! Còn chuyện thể dục thường xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ! Đừng say sưa là được!!! Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn! Như vậy thì ăn gì cũng thấy ngon!!! Ông có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo hóa! Sợ chết là vô lý! Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn! Ai cũng sẽ chết cả!!! 

Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ! Cứ thử nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy, chậm chạp! Lấy ai làm mà nuôi các cụ?!? Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra. Già thì phải chết để cho thế giới dược trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết, mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị được giác ngộ rồi đó! Có chi mà buồn?! Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế cho đúng hạn kỳ! Khoẻ ru!!! Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết điều! Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được chết sao?! Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc!!! Ông thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất! Nhưng nếu ai đó, có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán! Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời!! Lâu lâu, phải đau vài trận, để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm. Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau rêm, nhức nhối?. Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền đất tự do? Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có! Được khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp thời chạy chữa! Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ "bói ra ma, quét nhà ra rác!”. Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo!!! Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông được! Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra! Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm!!!

 Đừng vì một số trường hợp xấu, mà sợ đi khám bệnh! Khám bệnh, để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có phép lạ, mới cứu được!!! Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường! Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá. Ông Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh! Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú!!! 

 Ông Hai Hô tập thể dục đều đặn. Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của thể dục, dù già dù trẻ. Không bao giờ trễ để bắt đầu tập thể dục. Không thể dục, thì tấm thân nhão nhẹt ra, rất dễ làm mồi cho bệnh hoạn! Đi bộ trong tuổi già là tốt nhất. Còn khoẻ, thì đi nhanh, yếu thì đi chậm hơn, yếu hơn nữa, thì chống gậy mà đi! Có vận động là tốt. Đi bộ, xương đỡ rỗng, đỡ gãy tay chân khi vấp té. Đi bộ cũng làm cho mặt mày trẻ ra, lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi! Đi bộ cũng vui, nhất là đi với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn. Nhưng khi bà vợ bắt đầu cằn nhằn vì những chuyện không đâu, thì phải giả vờ chạy, để bà lại phiá sau, cho bà nói với cột đèn, cằn nhằn với cây cỏ. Không có vợ đi cùng, thì đi với bà cụ hàng xóm cũng vui. Bà sẽ không bao giờ dám cằn nhằn ông vì những chuyện không đâu.!Bà sẽ lịch sự hơn!!! Đi với bà hàng xóm, ông bảo, đừng sợ thiên hạ hiểu lầm, cũng đừng sợ chính bà ấy hiều lầm! Không hiểu lầm thì tốt. Hiểu lầm thì càng tốt hơn, vì làm cho bà ấy vui, làm bà nghĩ là còn sáng giá, còn có người ngưỡng mộ đến cái nhan sắc mùa thu của bà!!! Bà sẽ yêu đời hơn, sẽ ăn ngon, ngủ được, thế thì ông cũng đã làm được một điều thiện nho nhỏ!!! Ông nói, ông được nghe chuyện một bà cụ 88 tuổi, bà nói rằng, phải đi bộ, phải tập thể dục để chống lại bệnh hoạn. Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ. Bà nói rằng: "Mình phải biết tự thương mình! Con cái có thương mình, chúng có thể cho tiền bạc, quà cáp, chứ không cho mình sức khỏe được! Mình phải tự lo lấy, để mà sống cho vui, sống cho có chất lượng!" Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ, chứ không làm giảm! Ngoại trừ ham tập, tập quá sức, thì lăn kềnh ra mà chết, mau lắm! Bơi lội là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng tuổi già, thường sợ nước, sợ lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho sức khoẻ, hại thần kinh!!! 

 Mỗi lần nghe có người than là mất ngủ, ông thưòng nói say sưa về bệnh nầy. Theo ông thì những người nầy, đã ngủ đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm được, mà tưởng là mất ngủ! Vì ban ngày, họ cứ thấy mệt, mắt ríu lại, là ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chùng 15 phút lúc ban ngày, có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban đêm! Mỗi đêm, người bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là đủ mạnh như gấu bắc cực. Nếu không ngủ ngày, thì đêm về ngủ dễ lắm. Không phải tuổi già là mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ đêm, ngủ liên miên! Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban đêm khó ngủ là chuyện thường!!! Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ được, thì dậy đọc sách, viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi tính, đọc thư bạn bè, hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có. Rồi chờ cho thật buồn ngủ, không thức nổi nữa, vào giường nằm, sẽ ngủ được ngay, và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng! Đừng ép giấc ngủ, ép giấc ngủ sẽ khó ngủ hơn!!! Cũng đừng uống thuốc ngủ. Đại kỵ. Uống thuốc ngủ nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh! Đừng nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu phải đếm, thì đếm những người tình cũ. Mau ngủ hơn! Nếu đời chỉ có một hai người tình thôi, thì đừng đếm một hai, một hai, không có lợi. Hoặc nằm mà hát trong trí những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều kỷ niệm êm ái, thân thương! Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày, ngủ mà quên xem phong cảnh! Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến khách sạn, thì làm sao mà ngủ thêm được nữa! Bà chị nói, đi chơi xa sợ mất ngủ!!! 

 Bà ấy thực sự ngủ nhiều hơn ai cả, mà bà tưởng là mất ngủ! Một chị khác than là mất ngủ kinh niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ! Ông nhờ hết việc nầy qua việc nọ, không để chị có thì giờ mà ngủ gật! Đêm không cho đi ngủ sớm! Mới mười giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc ngon lành dài đến sáng hôm sau!!! Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng ngủ li bì, ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả! Ông truyền bí quyết, là không ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ ngon!!!”. Nhiều người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó! Khắc kỷ cũng là điều hay! Nhưng tội gì mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi! Nên cứ xem mọi sự như trò chơi!!! Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn! Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo. Trong một cuộc chơi, ông không hy vọng được tất cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui nhiều! Hai ba chục người cũng vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn!!! Nếu hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ, ông cũng không tiếc, chẳng sao cả! ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức! Ông nghĩ, được thêm một dịp nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay? Ông bình tĩnh xin đi chuyến sau mà không được! Ông cũng cười, không bực mình, quay về nhà, pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may bay mà sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cá phê xem sinh hoạt phố phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán!!! 

 Ông không bao giờ tranh luận gay gắt với ai! Ông nói, tranh luận làm chi cho mệt, rồi giận nhau?. Trong tuổi già, khi có cuộc tranh luận, thì tránh là tốt nhất! Nếu không tránh được, thì chịu thua đi, thắng làm chi, để cho đời ngắn lại?. Thắng tranh luận, làm thiên hạ ghét, làm mất lòng bạn bè, làm người bị thua tức giận, và nóng mặt, không ưa mình! Không ai ghét người thua trong cuộc tranh luận. Người thắng cuộc, dễ bị ghét hơn!!! Thử đánh một ván cờ xem, nhường cho đối phương thắng, làm họ vui hơn, không chừng mình đưọc đãi đằng hậu hỉ hơn! Đến nhà người ta, mà cãi nhau, tranh thắng, làm họ mất mặt với vợ con, với bạn bè, thì đừng mong chi được tiếp đãi thắm thiết! Khi thua, mình không thiệt thòi, mất mát chi cả, mà lại được thương, tại sao không chọn tình thương, mà chọn cái bị ghét?! Thắng tranh luận, cũng chưa chắc mình đã giỏi hơn người, mà giỏi hơn để làm chi? Và cũng chưa chắc ngưòi ta đã chịu cái lý của mình là đúng! Trong tình vợ chồng cũng vậy, nhiều ông nhiều bà tranh hơn thua từng ly, từng tí, cãi vả nhau tưng bừng về những điều không ích lợi chi cho ai cả! Rồi giận nhau, nói nặng nhau, làm nhau đau đớn vì lời nói thiếu tử tế, thiếu lịch sự! Có ích lợi gì đâu?! Tranh nhau thắng thua, làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình, làm mất đi thì giờ quý báu bên nhau, làm không khí gia đình nặng nề!!! Đừng bao giờ nói là phải làm cho ra lẽ, không thì hoá "lừng"! Hãy cứ để cho chồng mình, vợ mình "lừng" đi, cho họ sướng!!! 

Tại sao đi ra ngoài, không dám "lừng" với thiên hạ, mà về nhà lại "lừng" nhau làm chi cho mất vui. Ông thường nói, cứ chịu thua đi là khoẻ nhất. Ông đã thua, thì không việ! chi mà ai đó gây hấn thêm. Đúng hay sai, ông tự biết. Không cần tranh luận nhiều. Có tranh luận, thì cũng chưa chắc đã thuyết phục được đối phương mà không gây mất mát. Mỗi lần phải tranh luận với ai, thì ông nhớ lại chuyện ông Pol-Pot. Ông nầy đã giết chết hơn hai triệu dân vô tội, tức khoảng một phần ba dân số Kampuchia của ông thời đó. Thế mà cuối đời, khi sắp chết, ông Pol Pot nói với một phóng viên Tây phương rằng, những điều ông đã làm, là lợi ích cho dân tộc của ông! Nhớ chuyện đó, làm ông đỡ ngứa miệng xen vào những cuộc tranh luận!!! Khi có ai chê bai ông, ông chẳng bực mình, không giận hờn, mà cứ cười, và xem như không. Ông tự nhủ, biết đâu ông cũng đáng chê, đáng trách! Nghe thiên hạ chê, để mà sửa mình, biết mình còn cái chưa hay, sai sót. Không phải ông là kẽ mặt dày không biết xấu hổ, nhưng thiên hạ chê, mà không phản ứng, thì như gió qua truông. Có một ông khác, bị vợ chê bai hoài, chê đủ thứ. Ông nầy chỉ cười, mà nói với bà vợ rằng, ông không ngờ bà xui xẻo đến thế, lấy phải một thằng chồng tệ hại như vậy, tội nghiệp cho bà quá! Bà vợ nghe mà chột dạ, và biết đã ăn nói quá trớn!!! Khi nghe ai khoe khoang, ông cũng không bắt bẻ, không lật mặt thật của họ ra, sợ làm cho họ xấu hổ, bẽ bàng! Ông cứ giả vờ tin, để mà đãi họ vài phút vui sướng, cũng là làm được một việc thiện nho nhỏ. Ông không mất gì, và chẳng thiệt hại cho ai, mà cuộc đời nầy thêm vui, thêm tử tế. Bởi nghĩ thế mà ông làm!!! Ông Hai Hô quan niệm rằng, trong tuổi già, có hoài bảo thì cũng tốt, mà không có hoài bảo chi cả, thì tốt hơn, và khôn ngoan hơn! Khi trẻ, nhiều thì giờ, nhiều năng lực, mà chưa có hoài bảo nào làm xong, thì khi già rồi, mong chi đạt được! Tội chi đeo vào thân cái hoài bảo cho khổ! Già rồi, đừng xem cái gì là quan trọng cả!!! 

Từ danh vọng, tiền tài, tình yêu! Ngay cả cái mạng sống của mình, cũng đừng xem là quá trọng! Có lần, ông đến thăm một nhà văn đang nằm thoi thóp, miệng ngậm một cái que gỗ có thấm nước cho đỡ khát, sắp chết vì ung thư. Ông nhà văn còn thao thức vì một tác phẩm để đời chưa khởi đầu được!Chết chưa an lòng! Ông nói: "Thôi bác ơi, chuyện gì mình chưa làm được, thì thế nào con cháu mình sau nầy cũng làm! Yên tâm mà dưỡng bệnh đi!!!”. Ông Hai Hô cho rằng, cứ năm ba ông bà bạn già gặp nhau, uống vài ly trà, cà phê mà nói chuyện nhảm cũng là một thứ hạnh phúc trong đời! Ông nói, dù đến để nghe thằng bạn già nó chửi mình, cũng cứ vui, được người ta chửi, tức còn có người để ý đến mình, còn hơn là không ai khen, không ai chửi cả! Những dịp ra mắt thơ, ra mắt sách, ông thường tham gia cho cuộc họp thêm xôm tụ. Cho tác giả sướng! Ông khoái các buổi ca nhạc cây nhà lá vườn, tài tử. Nó cũng có những cái hay của nó. Những buổi họp mặt anh em bạn cũ, ông không bao giờ bỏ qua, ông nói là không tham dự thì uổng lắm! Ông cho rằng, tuổi già, mà còn gặp lại được bạn xưa, thì không còn gì quý báu hơn! Nằm nhà xem sách, xem truyền hình, đá banh, đâu vui bằng gặp bạn cũ! Gặp dịp vui, thì cứ vui kẻo uổng, biết mình còn sống được bao lâu nữa mà mãi phí ngày giờ chạy theo lợi lộc!!!”.

 Mỗi khi có ai mời đi đám cưới, tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà tà đến trể, ông cũng không bực mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi. Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh. Ông có đến sớm, thì cũng có cái lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào lao với những bạn bè mà từ lâu ít có dịp gặp nhau! Cũng vui và quý. Dễ chi có cơ hội thuận tiện để gặp nhau. Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói chuyện nữa, vì ai nấy, lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện! Khi ăn xong, thì bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc! Bởi vậy, ông cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu "Không ăn đậu không phải Mễ! Không đi trễ, không phải Việt-Nam!!!”. Ông Tư Hô thường nói, tuổi già, cứ phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình!!!

Tràm Cà Mau

 Lan Nguyễn sưu tầm