dimanche 19 juin 2016

Columbia Icefield BC Canada Jn2016






























Xe tuyết đầu tiên di chuyển trên băng đá Columbia


Xe đặc biệt " snow coach" giá 1 triệu 3 Canada



 


Chào mừng 

  









uống nước tinh khiết














 


































****************************************************

Columbia Icefield

From Wikipedia, the free encyclopedia

Columbia Icefield
The Columbia Icefield is the largest ice field in the Rocky Mountains of North America.[1] Located in the Canadian Rockies astride the Continental Divide along the border of British Columbia and Alberta, Canada, the ice field lies partly in the northwestern tip of Banff National Park and partly in the southern end of Jasper National Park.[1]

Description[edit]

The Columbia Icefield is located in the Canadian Rockies astride the Continental Divide along the border of British Columbia and Alberta, Canada, the ice field lies partly in the northwestern tip of Banff National Park and partly in the southern end of Jasper National Park.[1][2] It is about 325 square kilometres (125 sq mi) in area, 100 metres (330 ft) to 365 metres (1,198 ft) in depth and receives up to 7 metres (280 in) of snowfall per year.[2]

History[edit]


Athabasca Glacier
The Columbia Icefield was formed during the Great Glaciation, or Illinoisan period (238,000 to 126,000 BC).[3] The initial advancement of the ice field ended during the latter millennia of the Early Wisconsinan period (73,000 to 62,000 BC), around the time Homo sapiens began to appear on the earth.[3] The next major advance of the ice field occurred during the Late Wisconsinan period (18,000 to 9,000 BC), which marked the end of the major intercontinental land mass bridges.[3] During theCrowfoot Glacier advance (9,000 to 7,000 BC), humans learned farming and civilizations began to develop along the TigrisEuphrates, and Nile rivers.[3] The last major period of advance occurred during the Little Ice Age, which lasted from about 1,200 to 1900 AD. Around 1800, the Athabasca Glacier peaked, then went through a period of recession, and then advanced again until 1840, when it began receding until the present day.[3]
The Columbia Icefield was one of the last major geological features to be discovered by man in western Canada, due to its isolation and harsh weather conditions.[4] In April 1827, Scottish botanist David Douglas was crossing Athabasca Pass—a major trading route located north of the Icefield—when he climbed one of the adjacent mountain peaks. He reported his first ascent in his journal, describing it to be 6,000 metres (20,000 ft) in height.[4] In the summer of 1884, geology professor Arthur Philemon Coleman explored the Great Divide fromBanff to Jasper in search of Douglas' giant peak.[4] While unsuccessful, he did discover the route that would become the Icefield Parkway.[4] In July 1898, British explorer J. Norman Collie and his friends Hugh Stutfield and Herman Wooley set off in search of Douglas' giants, equipped by the famous Banff outfitter Bill Peyto. On the morning of August 18, Collie and Wooley climbed the east side of Mount Athabasca, moved up the glacier when the ridge gave way to crumbling rock, and made their way to the summit, where they discovered an ice field that extended to almost every horizon.[4] Collie later wrote:
The view that lay before us in the evening light was one that does not often fall to the lot of modern moutaineers. A new world was spread at our feet: to the westward stretched a vast ice-field probably never before seen by the human eye, and surrounded by entirely unknown, unnamed and unclimbed peaks.[5]
In 1900, former British clergyman James Outram came to the Canadian Rockies to recover his health after a nervous breakdown.[6] The following year he made the first ascent of Mount Assiniboine (3,618 m, 11,870 ft), then considered the "Matterhorn of the Rockies".[6] In 1902, Outram made ten first ascents of peaks over 3,050 metres (10,010 ft) and discovered four new mountain passes in the Columbia Icefield area.[6] Two of his first ascents in 1902 were Mount Columbia (3,747 m, 12,293 ft) and Mount Bryce (3,507 m, 11,506 ft), one of the most dangerous and difficult summits in the Rocky Mountains.[6]
Following World War I, other mountaineering firsts occurred. In 1923, American climbers James Munroe Thorington and W. S. Ladd joined Austrian guide Conrad Kain to summit the daunting North Twin Peak (3,731 m, 12,241 ft), Mount Columbia, and Mount Saskatchewan (3,342 m, 10,965 ft) in five days.[6] The following year, another American expedition led by William O. Field and guide Edward Feuz climbed both the North Twin Peak and the South Twin Peak (3,566 m, 11,699 ft) in twenty-four hours—a combined distance of about 60 kilometres (37 mi).[6] In 1927, A. J. Ostheimer discovered a new route to the North Peak Summit, made first ascents ofStutfield Peak (3,450 m, 11,320 ft) and Mount Kitchener (3,505 m, 11,499 ft), and became the first climber to traverse the Snow Dome(3,456 m, 11,339 ft) in thirty-six hours.[7] During his sixty-three-day visit to the Columbia Icefield, Ostheimer and his two companions walked over a 1,000 kilometres (620 mi) and climbed thirty peaks—twenty-five of which were first ascents.[8]
In March 1932, three men undertook a remarkable skiing journey from Jasper to Banff that covered about 500 kilometres (310 mi).[8]When Cliff White, Joe Weiss, and Russell Bennet reached the Columbia Icefield, they climbed to the summit of Snow Dome, and then made a downhill run descent of almost 3,000 metres (9,800 ft) which lasted for 50 kilometres (31 mi)—the longest continuous ski run in Canadian history up to that point.[9] Their accomplishment played a major role in generating worldwide interest in the Canadian Rockies.[9] Today, mountaineers and skiers from around the world come to the Columbia Icefield to explore some of the classic routes discovered by these early pioneers of mountaineering.[9]

Glaciers[edit]


Athabasca Glacier
The icefield feeds eight major glaciers, including:
Parts of the Icefield are visible from the Icefields Parkway. The Athabasca Glacier has receded significantly since its greatest modern-era extent in 1844. During the summer months visitors to the area can travel onto the glacier in the comfort of large "snowcoaches". The Columbia Icefield is also a major destination for ski mountaineering in the winter months.

Athabasca Glacier snow coach
The icefield was first reported in 1898 by J. Norman Collie and Hermann Woolley after they had completed the first ascent of Mount Athabasca.
The Athabasca River and the North Saskatchewan River originate in the Columbia Icefield, as do tributary headwaters of the Columbia River.[10] As the icefield is atop a tripleContinental Divide these waters flow ultimately north to the Arctic Ocean, east to Hudson Bay (and thence to the North Atlantic Ocean), and south and west to the Pacific Ocean.[11]Hudson Bay, in some watershed divisions, is considered to be in the Arctic watershed, in which case this would arguably not be a triple continental divide point.

Mountains[edit]


Mount Athabasca
Some of the highest mountains in the Canada Rockies are located around the edges:

See also[edit]

References[edit]

Citations[edit]

  1. Jump up to:a b c "Columbia Icefield". Encyclopædia Britannica. Retrieved January 10, 2015.
  2. Jump up to:a b "Columbia Icefield Area and the Athabasca Glacier"Jasper National Park. Parks Canada. Retrieved January 10, 2015.
  3. Jump up to:a b c d e Sandford 1993, p. 23.
  4. Jump up to:a b c d e Sandford 1993, p. 56.
  5. Jump up^ Sandford 1993, pp. 56–58.
  6. Jump up to:a b c d e f Sandford 1993, p. 58.
  7. Jump up^ Sandford 1993, pp. 58–59.
  8. Jump up to:a b Sandford 1993, p. 59.
  9. Jump up to:a b c Sandford 1993, p. 60.
  10. Jump up^ "Drainage Basins". The Atlas of Canada. 2009. Archived from the original on July 11, 2012. Retrieved January 10, 2015.
  11. Jump up^ Huck, Barbara; Whiteways, Doug. "The Columbia Icefield and the Athabasca Glacier"In Search of Ancient Alberta. Heartland Associates. Archived from the original on February 8, 2005. Retrieved January 10, 2015.

Sources[edit]

  • Fraser, Esther (1969). The Canadian Rockies: Early Travels and Explorations. Edmonton: M. G. Hurtig Ltd. ISBN 978-0-888-30115-4.
  • Sandford, Robert W. (1993). The Columbia Icefield. Banff: Altitude Publishing. ISBN 978-1-551-53619-4.






DẤU CHỨNG TÌNH YÊU

Chúa Nhật XII thường niên  - Năm C
DẤU CHỨNG TÌNH YÊU

Thiên Phúc


Cô Ann Thomas kể lại câu chuyện sau đây: Hôm đó, cô và Betty ghé vào một sạp bán đồ cũ. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi: - Có đồ gì đáng giá không? Ann trả lời: - Không, toàn là đồ năm vố thôi.
Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt vặt, nhặt lên một cây thập giá cũ han gỉ và nói: - Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quý: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.
Cô bạn của Ann đem về nhà lau chùi và đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quý.
Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thập giá lên ngắm nghía hồi lâu. Bỗng nhiên cậu bé òa lên khóc. Betty liền hỏi: - Con sao vậy? Bobby nói: - Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quý, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì nhận ra Đức Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.
Tin Mừng hôm nay kể, Đức Giêsu bất thần hỏi các môn đệ: “Đám đông nói Thầy là ai?” Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”.Nhưng Chúa lại muốn biết suy nghĩ của chính họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Và chỉ một mình Phêrô mau mắn, đầy xác tín thưa: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”(Lc 9,18-20)
Phêrô trả lời quá chính xác, các môn đệ khác thở phào nhẹ nhõm vì các ông còn mơ hồ không biết Thầy là ai. Và Đức Giêsu mừng thầm vì công phu dạy dỗ mấy năm trời cũng không đến nỗi đổ sông đổ biển.
Nhưng Đức Giêsu phải xác định ngay rằng Đấng Kitô đây không phải là vị vua chiến thắng muôn nước, bá chủ muôn dân, khôi phục nước Israel, giải phóng nô lệ Rôma, như họ vẫn nghĩ. “Đấng Kitô của Thiên Chúa” sẽ là vị vua chiến thắng tử thần, chinh phục các tâm hồn, khôi phục quyền làm con Chúa, và giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, quỷ ma.
Tuy nhiên, con đường đi đến chiến thắng lại là con đường đau khổ, con đường thập giá: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9,22). Tất cả những ai muốn làm môn đệ Người, không thể đi con đường nào khác: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Lc 9,23)
Thập giá tuy là một khí cụ độc ác và ô nhục mà con người đã nghĩ ra để hành hạ kẻ khác, nhưng Đức Giêsu lại biến nó thành dấu chứng của tình yêu: Tình yêu vâng phục thánh ý Cha và tình yêu dâng hiến cho nhân loại. Khi nhìn lên thập giá, chúng ta không ngừng nghe vang vọng lời yêu thương ấy. Chính tình yêu đã biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, và khổ đau thành nỗi hân hoan.
Chúa đã chết thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta không xứng đáng ơn cao cả ấy, tại sao chúng ta lại không dám chết cho chính mình, từ bỏ tội lỗi để bước theo chân Người?
Chúa đã sẵn lòng chịu mọi đau khổ cực hình thay cho chúng ta, mặc dầu chúng ta ngàn lần bất xứng, tại sao chúng ta lại từ chối hy sinh cho anh em, đang cần sự nâng đỡ ủi an?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”, xin ban cho chúng con ơn can đảm, để chúng con luôn sẵn lòng bỏ mình cho tình yêu.
Xin cho chúng con tìm được niềm vui khi đón nhận mọi gian lao thử thách Chúa gởi đến trên đường đời. Amen.
              

vendredi 17 juin 2016

Hết Hạn BS. Hồ Ngọc Minh

Hết Hạn
BS. Hồ Ngọc Minh
*** 

LTS: Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh được biết trong cộng đồng người Việt nhiều năm qua với chuyên khoa về hiếm muộn, vô sinh, và lựa chọn trai gái theo ý muốn. Ông đã từng làm nghiên cứu về bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực thuộc National Institutes of Health. Bác Sĩ Minh là Board Certified về Obstertrics, Gynecology và Reproductive Endocrinology Infertility. Phòng mạch tọa lạc trong khuôn viên bệnh viện Fountain Valley, tại 11180 Warner Ave., Suite 465, Fountain Valley, CA 92708. Số phone liên lạc: (714) 429-5848, trang nhà: www.bacsihongocminh.com
    Nhiều lần, bệnh nhân của tôi rất quan tâm, lo ngại về việc thuốc “hết hạn”, quá “đát”, cho dù trên lọ thuốc ghi rõ là còn vài ba ngày nữa mới hết hạn. Về đến nhà, tôi mở tủ lạnh ra, thì, ôi thôi, một mớ đồ ăn cũng đã “hết hạn”, và quá “đát”. Bệnh nhân của tôi, nhiều người sẵn sàng quăng thuốc vào thùng rác, và lũ “Mỹ con” nhà tôi cũng thế, nhanh tay vứt đồ ăn vào thùng rác cho dù có những thức ăn đóng hộp chưa khui ra bao giờ.
    Nhớ lại thời còn ở Việt Nam, tôi đã từng đi lượm đồ ăn hay thuốc men từ những “hầm bứa” mà quân đội Mỹ quăng đồ hết hạn vào đấy. Cho đến giờ phút nầy tôi vẫn còn sống “nhăn răng”, chẳng chết con ma nào, và đang viết bài “hết hạn” cũng nhờ vào những “của quý” lượm được từ những hố rác ấy. Thế thì, đâu là giới hạn của sự an toàn của đồ ăn hay thuốc men đã hết hạn?

1/.  Đồ ăn “hết hạn”.


    Trước tiên hãy bàn về sự “hết hạn” đồ ăn. 
    Ở Mỹ, chỉ có thức ăn của trẻ sơ sinh thì mới “bắt buộc” (mandatory) ghi ngày hết hạn. Một số tiểu bang cũng bắt buộc ghi ngày hết hạn trên các thực phẩm chế biến từ sữa (diary products). Còn lại, việc ghi ngày hết hạn trên nhãn hiệu của các loại thực phẩm chỉ có tính cách “tự nguyện” mà thôi, voluntary system of labeling. Như thế, trên lý thuyết, không ghi ngày hết hạn thì cũng chả sao!




    Cũng vì tính cách tự nguyện tự giác cho nên thực phẩm được dán nhãn, được tự biên tự diễn theo nhiều cụm từ khác nhau, như “expiration date”, “sell by date”, “best if used by (or before) date”, “guaranteed fresh date”, “pack date”… Tất cả những cụm từ nầy đều đặt nặng yếu tố phẩm chất của thức ăn nhiều hơn là sự an toàn của thức ăn. Chúng không có nghĩa là tới ngày “hết hạn” ghi trên nhãn hiệu là đồ ăn sẽ biến thành chất độc. Tuy nhiên, những cụm từ nầy nhằm để bảo vệ sự an toàn của nhà sản xuất thực phẩm nhiều hơn là cho người tiêu thụ. Thứ nhất, sau ngày hết hạn, người dùng có “chuyện gì” thì ráng chịu vì “I told you so”. Thứ nhì, một hình thức doạ dẫm để người “yếu bóng vía” vứt đồ ăn vào thùng rác và đi mua thêm thức ăn mới.

    Để đơn giản hoá, hãy nhớ một số quy tắc chung cho thực phẩm được xem là an toàn để dùng, “sau ngày hết hạn” ghi trên nhãn: 
- Sữa tươi có thể dùng một tuần sau ngày hết hạn.
- Trứng gà, từ 3 đến 5 tuần.
- Thịt gà, thịt vịt, đồ biển phải nấu hay đông lạnh trong vòng một đến hai ngày. Còn thịt bò, thịt heo phải nấu hay đông lạnh sau 3 đến 5 ngày. Một khi đồ ăn đã được đông lạnh thì sẽ giữ được vĩnh viễn bất kể ngày hết hạn.

 
    Đồ hộp, đồ đóng chai chưa khui có thể giữ được 18 tháng sau ngày hết hạn nếu bảo quản trong chỗ mát. Nếu lon đồ hộp bị phồng lên là dấu hiệu có vi trùng, thì phải vất bỏ cho dù chưa hết hạn.
    Tất cả các thức ăn khác, nhất là thức ăn do chính mình nấu nướng hay mua ở tiệm về thì phải dựa vào sự nhận xét và phán đoán của người dùng bằng cách quan sát, ngửi mùi và nếm. Nếu thấy không ổn thì quăng ngay. Đừng có tiếc.
    Vì thế, để khỏi phải đương đầu với vấn nạn quá nhiều đồ ăn hết hạn, ta không nên tích luỹ, đầu cơ nhiều đồ ăn nhất là các loại đồ ăn đóng hộp, đóng bao, đóng bì. Riêng đồ ăn tươi thì chỉ nấu ăn vừa đủ bữa, và… ăn ít lại! Ăn ít sống lâu, và đỡ stress vì phải lo chuyện thức ăn bị… hết hạn.

2/. Thuốc men “hết hạn”.

  

    Bây giờ bàn tới thuốc men “hết hạn”.  Nói chung, bạn không mất mạng vì dùng thuốc quá hạn, trừ một vài trường hợp phải cẩn thận.
    Dĩ nhiên, tôi không khuyên bạn cứ uống bừa những thuốc quá hạn kỳ ghi trên nhãn, và bạn phải hỏi thăm bác sĩ về những những loại thuốc đang uống, nếu lỡ quá hạn có nguy hiểm gì hay không. Nếu lỡ thì một vài viên “quá đát” cũng không sao, vì hầu hết thuốc không tự dưng hết hiệu lực qua đêm sau ngày hết hạn, và cũng không tự dưng biến thành thuốc độc, hay hôi thúi như đồ ăn ngay sau ngày hết hạn. Trong lịch sử y khoa chưa có một loại thuốc hết hạn nào gây ra ngộ độc cả. Trên thực tế, rất nhiều thuốc hết hạn đã cứu được rất nhiều mạng người ở những nước nghèo, trong tình trạng khó khăn. Trong đó có cả tôi trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam!
    Điều đúng là thuốc càng để lâu càng mất dược tính. Những thành phần cấu tạo nên thuốc có thể từ từ yếu đi theo thời gian vì thế dược tính không còn đảm bảo 100% sau ngày hết hạn. Năm 2006, một nghiên cứu đăng trên tờ báo dược khoa, Journal of Clinical Pharmacology cho thấy 88% thuốc, nếu bảo quản trong điều kiện tốt vẫn còn hiệu lực tối thiểu 12 tháng, và trung bình đến 5 năm sau ngày hết hạn. Một số thuốc vẫn còn hiệu lực lâu hơn nữa. Một vài thí dụ nêu ra: thuốc trụ sinh Doxycyclin vẫn còn 80% dược tính sau 20 năm, thuốc Cipro (ciprofloxacin) vẫn còn tốt sau 12 năm, và thuốc phóng xạ muối potassium iodide vẫn còn hiệu lực sau 18 năm!
    Tuy nhiên, vấn đề là mỗi loại thuốc đều có một thời hạn hiệu lực khác nhau sau ngày mãn hạn, và, khác với đồ ăn, bạn không thể nếm, ngửi, để biết.


    Quy tắc chung, những loại thuốc không cần toa bác sĩ như thuốc bổ, thuốc nhức đầu Tylenol chẳng hạn, hay những loại thuốc dùng ngoài da, như kem trị ngứa thì có thể dùng sau ngày hết hạn “một chút”. Ngoài ra tất cả những loại thuốc trị bệnh, thí dụ như những loại thuốc trị bệnh tim, thuốc trị dị ứng hen suyễn khẩn cấp chẳng hạn, thì không nên “liều mạng” với chúng.
    Sau đây là một số thuốc cần phải thay thế, sau ngày hết hạn:
- Thuốc trị các bệnh thần kinh như phenytoin, carbamazepine, lamotrigine, và oxcarbazepine
- Thuốc trị bệnh kinh phong như Dilantin, phenobarbital
- Thuốc trị bệnh tim, Nitroglycerin
- Thuốc loãng máu, Warfarin
- Procan SR
- Theophylline
- Digoxin
- Thuốc bướu cổ, Thyroid levothyroxine sodium
- Paraldehyde
- Thuốc ngừa thai, Oral contraceptives
- Thuốc Epinephrine (Epi-Pen) trị dị ứng khẩn cấp như khi bị ong đốt chẳng hạn
- Insulin
- Các loại thuốc nhỏ mắt.

   
 Tương tự như thức ăn, để khỏi phải lo lắng về thuốc men khi quá hạn, ta nên tránh mua và “tàng trữ” lung tung những loại thuốc bổ linh tinh, lang tang mà nghiên cứu cho thấy chẳng có ích lợi gì cả. Chúng ta ngộ độc vì uống qua nhiều… thuốc bổ chứ không phải vì thuốc quá hạn. Riêng với thuốc của bác sĩ cho toa thì phải uống hết, uống đúng theo lời dặn bác sĩ, không nên uống một phần toa thuốc một cách tuỳ hứng, vui thì uống, buồn thì không.
    Trong cuộc sống, chúng ta có quá nhiều ngày “hết hạn” để nhớ, thí dụ như ngày trả tiền “bill” điện nước, điện thoại, internet; ngày trả thuế… mà từ ngữ Mỹ gọi là “deadline”. Ở Mỹ có hai cái deadline gần như chắc chắn, đó là ngày trả thuế và ngày trả… nợ đời. Một cái có thể gia hạn được còn một cái thì không.
    Bạn có biết, người ta dùng chữ “expiration date” để chỉ ngày hết hạn của thuốc, nhưng trong y khoa, chúng tôi dùng chữ “expired” để nói về một bệnh nhân vừa mới qua đời? Chúng ta đều biết, ai cũng có một ngày “hết hạn”, chỉ khác với thuốc men và đồ ăn, ngày đó sẽ đến cho mỗi người, mà khi chào đời, nhãn hiệu không ghi rõ. Vì thế, ta nên tận dụng từng giây phút khi cuộc sống còn hiệu năng, còn tươi tốt, “best if used by (or before) date”, “guaranteed fresh date”. Vì, khác với thuốc men và đồ ăn, sau ngày hết hạn, là thật sự chấm hết, chúng ta không còn cơ hội để gia hạn tiếp tục nữa. Bạn nhé.



BS. Hồ Ngọc Minh
Anh Thư sưu tầm 

samedi 4 juin 2016

PHÉP LẠ TẠI THÀNH NA-IM

Chúa Nhật X thường niên  - Năm C
PHÉP LẠ TẠI THÀNH NA-IM
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP 
          Bài đọc 1 và bài Tin mừng hôm nay na ná giống nhau, đều nói về phép lạ cho đứa con trai của bà góa sống lại. Mọi người đều phải chết, đó là một thực tế và cũng là chân lý. Đã chết thì không thể nào sống lại được, trừ ra có một phép maầu. Phép mầu này phải đến bởi Thiên Chúa.  Việc đứa con trai bà góa sống lại có hai nguồn gốc khác nhau :  một đàng tiên tri Êlia phải cầu nguyện xin Thiên Chúa cho đứa bé sống lại; đàng khác Đức Giêsu lấy quyền năng của mình để trực tiếp làm cho đứa bé sống lại khi nói :”Này người thanh niên, Ta bảo anh : hãy chỗi dậy” (Lc 7,14). 
          Đức Giêsu làm phép lạ này để nói lên quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Ngài làm chủ sự sống và sự chết. Vì thế, Ngài có thể làm cho kẻ chết sống lại tùy ý Ngài. Ngoài ra, Đức Giêsu còn nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người. Ngài không thể dửng dưng trước đau khổ của con người, Ngài biết đồng cảm với con người trong cuộc sống hằng ngày. Sau cùng, Ngài cũng hé mở cho chúng ta biết thân xác loài người ngày sau sẽ được sống lại. 
          Qua phép lạ này, noi gương Đức Giêsu, chúng ta hãy học để biết thông cảm với mọi người , chúng ta không thể dửng dưng trước những đau khổ của con người,  vì qua phép Rửa tội, chúng ta là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô.  Thánh Phaolô đã thâm hiểu chân lý này khi ngài khuyên nhủ tín hữu Rôma :”Anh em hãy vui củng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12,15), vì trong một thân thể, bất cứ một chi thể nào cũng có tương quan đến chi thể khác. 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA 
          + Bài đọc 1 : 1V 17,17-24 
          Bài đọc 1 có vài nét na ná như trong bài Tin mừng hôm nay : nói đến việc làm cho con trai một bà góa sống lại. 
          Sách Các Vua cho biết tiên tri Êlia đến trọ ở nhà một bà góa ở thành Sarepta. Bà đã đón tiếp ông rất nồng hậu. Không may đứa con trai duy nhất của bà bệnh nặng rồi chết và bà tưởng rằng con bà bị chết vì lời nguyền của vị tiên tri nhằm trừng phạt một lỗi nào đó không rõ. 
          Nhưng nhà tiên tri đã cầu xin Chúa cứu đứa bé và ông đã được Thiên Chúa nhận lời. Đứa bé sống lại và đã trao đứa bé cho mẹ nó.  Và bà đã thưa với tiên tri :”Bây giờ nhờ việc này, tôi biết rõ ông là người của Thiên Chúa và lời của Chúa nơi miệng ông là lời chân thật” (1V 17,24). 
          + Bài đọc 2  : Gl 1,11-19 
          Thánh Phaolô xác định với tín hữu Galata rằng : Tin mừng của Ngài rao giảng không phải là của loài người, mà ngài đã lãnh nhận trực tiếp nơi Thiên Chúa. 
          Ngài khuyên họ đừng theo “một Tin mừng nào khác”, tức là chưa đủ an tâm khi sống theo Tin mừng mà ngài đã rao giảng, lại còn giữ thêm một số luật lệ Do thái giáo nữa. 
          Ngài xác quyết với họ rằng người ta chỉ được ơn cứu độ nhờ đức tin chứ không phải nhờ tuân giữ Lề luật. 
          + Bài Tin mừng : Lc 7,11-17 
          Chỉ có thánh Luca mới thuật lại chuyện con trai bà góa thành Naim sống lại,  để nói lên sự can thiệp mang tính cách Thiên sai của Đức Giêsu. 
          Khi vào đến cổng thành Na-im, Đức Giêsu thấy người ta đang đem đi chôn một người thanh niên con một bà góa. Mọi người đều than khóc và chia buồn với mẹ nó. 
          Tất cả mọi người đi đưa xác, chẳng ai mở lời xin Ngài cứu giúp, nhưng Ngài đã ra tay cứu giúp vì Ngài động lòng thương. 
          Đối đầu với cái chết và sự đau khổ, Đức Giêsu đã lập tức chứng tỏ tình yêu và quyền năng siêu việt của Ngài.  Dân chúng từ ngỡ ngàng cảm phục đến nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Kitô.  
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA 
Quyền năng và lòng thương xót của Chúa 
I. PHÉP LẠ TẠI THÀNH NA-IM 
          Chúng ta thấy phép lạ cho người con trai bà góa thành Na-im chỉ có thánh Luca thuật lại để nói lên quyền năng và lòng thương cảm của Đức Giêsu. 
          Na-im, ngày nay chỉ là một làng nhỏ, cách Capharnaum độ 7 hoặc 8 giờ đi bộ, ở hướng tây nam, về phía núi Taborê, cách Nazareth khoảng 8 cây số về phía đông nam. Gần làng về hướng đông, người ta thấy có những ngôi mộ được đào trong các tảng đá. 
          Người ta thường đưa đám ma vào lúc gần tối, nên hình như Đức Giêsu đã gặp đám tang này vào ban tối, khi Ngài và các môn đệ vào đến cửa thành. 
          Đám ma được dẫn đầu bằng một đội khóc mướn với ống sáo và thanh la của họ phát ra tiếng la ó khóc than inh ỏi. 
          Theo tục lệ Phương Đông người chết được để trong quan tài không đậy nắp và được quấn khăn liệm kỹ lưỡng. Có người cho là quan tài ấy không giống quan tài của chúng ta , mà là một cái rọ đan bằng mây để đem thi hài đến phần mộ. 
          Đức Giêsu không đi một mình, vì ngoài các môn đệ, còn có đám đông theo Ngài.  Ngoài ra đám đông có đông đảo dân thành đi theo đưa tiễn.  Các chi tiết này rất quan trọng, vì đó là bằng chứng cho thấy  phép lạ được thực hiện cách công khai. Do đó, không phải là một chuyện hoang đường hoặc bịa đặt. 
          Có những chi tiết chứng minh việc sống lại là có thật :
          - Anh đã đứng lên và bắt đầu nói,
          - Chúa cầm tay trao lại cho mẹ cậu.
          - Thái độ sửng sốt sợ hãi của mọi người  làm chứng một biến cố quan trọng đã thực sự xẩy ra. 
II. Ý NGHĨA CỦA PHÉP LẠ ĐÓ 
          1. Quyền năng của Thiên Chúa 
          Đây là lần đầu tiên trong Tin mừng, Luca gán cho Đức Giêsu tước hiệu “Chúa” (Kurios). Hình như các Kitô hữu đầu tiên tuyên xưng Đức Giêsu (phục sinh) là Chúa, đã ảnh hưởng đến văn thể các bài trình thuật cuộc đời trần thế của Đức Giêsu.  Nếu Đức Giêsu đã mang trong Ngài khả năng phục sinh kẻ chết, thì chính Ngài cách nào đó đã là Chúa Phục Sinh, một ngày kia sẽ chiến thắng cái chết cách khải hoàn. 
          a) Nói về cái chết 
          Theo quan niệm người đời, một cách bình thường mọi người phải đi qua bốn cửa ải là sinh, lão, bệnh, tử.  Mọi người phải kết thúc cuộc hành trình trên trần gian bằng cài chết. Đã có sinh thì ắt phải có tử. 
          Cái chết là một sự kiện hiển nhiên và ai cũng phải đợi thần chết đến để đưa mình đi. Đối với nhiều người, chết thì phải chết, nhưng không hiểu tại sao mình chết ? Cái chết có ý nghĩa gì ? 
          Triết gia hiện sinh vô thần, ông Jean Paul Sartre,cho rằng chết là một sự vô nghĩa (La mort est un non-sens).  Xưa nay người ta vẫn không hiểu hoặc không muốn hiểu lý do sự chết, Vì thế, cái chết thật là phi lý. 
          Trong Cựu ước, dân Chúa vẫn coi sự chết là một sự gở lạ. Làm sao Thiên Chúa nhân từ tạo nên vạn vật  lại để cho sự chết lẻn vào trong con người. 
          Nhưng dần hồi, Thánh Kinh hé mở cho thấy rằng sự chết không phải là một bức tường thành kiên cố không vượt qua được, mà là một cửa khẩu để đi đến sự sống thật, đến với Thiên Chúa là nguồn sự sống. 
          Như thế, phải chăng tất cả mọi vấn đề của ta sẽ kết thúc khi đôi tay xuôi xuống và mắt nhắm lại vĩnh viễn ? Nếu làm người mà thân phận chỉ có thế thôi, thì cuộc sống này có hàng tỉ cái vô lý, bất công. Đâu có gì đáng cho ta phải ân cần tận tụy để sống cho ra sống ? Tất nhiên là về phần thân xác. Cái chết không chừa ai. 
          Nhưng cái chết đâu phải là mồ chôn vĩnh viễn thân phận con người. Trái lại, cái chết chính là cánh cửa mở sang một thế giới kỳ diệu khác. Niềm tin về thế giới bên kia đã và đang tồn tại trong đời sống con người, nhất là đối với Kitô hữu. 
          b) Đức Giêsu, chủ của sự sống và sự chết 
          Đức Giêsu còn là Chúa Cứu Thế đầy quyền năng.  Thầy thuốc Luca còn nêu thêm một chi tiết cá biệt nữa. Chữ “Chúa” ở đây được tác giả dùng đầu tiên trong bản văn Hy Lạp, và theo nguyên ngữ có nghĩa là “Chủ”.  Luca dùng đầu tiên hẳn ông có dụng ý.  Ông muốn nói Chúa Giêsu, vì là chủ của sự sống, nên Ngài có thẩm quyền trên sự chết.  
          Trong sự kiện này, không có người nào yêu cầu Ngài hành động, nhưng Ngài là Chúa, chủ của sự sống, Chúa hiểu nỗi cô đơn của người mmẹ có đứa con trai, người đàn ông duy nhật để chăm sóc cho bà.  Ngài động lòng trắc ẩn, an ủi bà đừng khóc. Ngài hành động ngay. 
          Chỉ Thiên Chúa mới có quyền năng vượt qua sự chết. Chính vì Êlia (trong bài đọc 1) đã đi đến với quyền năng của Thiên Chúa mà ông có thể trả lại sự sống cho con trai của bà góa. Nhưng rõ ràng trong phép lạ Na-im, Đức Giêsu tự mình có quyền năng.  Và chúng ta thấy đường lối thương xót trong đó Ngài thực hiện phép lạ ấy. 
          c) Đức Giêsu đem lại sự sống đời đời 
          Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Ngài muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng.  Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhât của con người là sự chết, thì Ngài cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết. 
          Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại đó. Ngài còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu. Ngài muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời.  Con trai bà góa Na-im sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Ngài yêu thương giải thoát  thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường.  Đó mới là sứ mạng của Ngài khi xuống trần gian. 
          Sự kiện con trai bà góa thành Na-im được Ngài cho sống lại  là hình bóng báo trước biến có vô cùng lớn lao hơn.  Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo. Đó là nhờ sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà tất cả cúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời. 
          2. Lòng thương cảm của Chúa 
          Bà góa trong Tin mừng hôm nay đau khổ biết bao : một đàng chồng đã chết rồi, đàng khác con trai duy nhất cũng chết theo.  Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho phụ nữ neo đơn như bà.  Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà bảo lãnh bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội. 
          Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn biệt con của bà, thì Đức Giêsu cũng xuất hiện đứng bên quan tài. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy lòng thương xót những người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã mủi lòng thương, khẽ an ủi bà :”Bà đừng khóc nữa”, rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giêsu nói :”Này người thanh niên, ta bảo anh : Hãy chỗi dậy” ! Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa. 
          Ngoài mục đích của thánh Luca là trình bầy cho các độc giả thấy tấm lòng ưu ái và hiền dịu của Con Người Giêsu, thì chúng ta dễ hiểu tại sao, trong các tác giả viết Tin Mừng, chỉ một mình vị bác sĩ này kể lại câu chuyện cảm động Chúa cứu sống người con trai của bà góa thành Na-im. Không còn bức tranh nào đầy lòng xót thương trắc ẩn như thể. 
          Thánh Luca đã dùng chữ “chạnh lòng thương” (esplanchnisthè)thì phải có lý do. Từ Hy Lạp, có nghĩa chính xác là “xúc động đến ruột gan”, hầu như luôn luôn được áp dụng cho tình thương yêu của Thiên Chúa đối với loài người trong Tin mừng.
          Trong ngôn ngữ Hy Lạp không còn từ nào mạnh hơn để diễn tả lòng thương xót cảm thông. Và đây là một từ đã được dùng nhiều lần cho Chúa Giêsu trong Tin mừng. 
          Đối với thế giới ngày xưa thì đây là một việc lạ lùng. Trong thời cổ, đức tin được kể là cao trọng nhất là đức tin của Phái Khắc Kỷ . Các người của trường phái này tin rằng đặc tính thứ nhất của Thượng Đế là không tình cảm, không thể bị xúc cảm hay động lòng. Họ lập luận : nếu kẻ nào có thể làm cho người khác  buồn sầu, lo âu, vui mừng, thỏa thích… có nghĩa là  người đó có thể ảnh hưởng đến kẻ khác, có nghĩa là  anh ta vượt trên hơn kẻ khác. 
          Nhưng không ai có thể lớn hơn Thượng Đế, không ai ảnh hưởng được Ngài, cho nên lẽ đương nhiên, Thượng Đế phải là Đấng bất khả xúc động. Nhưng ở đây loài người  được đứng trước một tư tưởng kỳ lạ về một nhân vật là Con Thượng Đế mà lại chịu cảm động đến tận đáy lòng Ngài.  Đối với nhiều người, đây là một điều rât quí báu về Thượng Đế, Cha của Chúa Cứu Thế Giêsu. 
          3. Dấu hiệu phục sinh kẻ chết 
          Giai thoại này chứa đựng một giáo thuyết sâu xa, vì nói lên một dấu chỉ Thiên sai, tức là dấu chỉ phục sinh kẻ chết, dấu chỉ mà Đức Gêsu sau này sẽ dùng để trả lời câu Gioan tẩy Giả hỏi :”Kẻ chết sống lại”… 
          Đây là sứ điệp Đức Giêsu muốn gửi đến cho chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay. Ngài muốn chúng ta nhìn thấy nơi phép lạ thành Na-im không chỉ là dấu chứng lòng thương của Ngài  đối với bà góa nọ, cũng không chỉ là dấu hiệu minh chứng Ngài là Đấng Messia, mà còn là dấu chỉ báo trước điều Ngài sẽ thực hiện cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Ngài, nghĩa là Ngài sẽ làm cho chúng ta sống lại  không phải chỉ với một thân xác mới mẻ về thể lý và còn với một cuộc sống trường tồn vĩnh cửu nữa. 
III. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA 
          Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật. Đứng về phương diện nhân loại, Đức Giêsu cũng có tình cảm như mọi người, nghĩa là Ngài sống như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. 
          Hôm nay, Đức Giêsu cũng thấy chạnh lòng thương đối với bà góa  có một người con trai mới chết đem đi chôn.  Đức Giêsu hiểu thấu tâm trạng của bà : mất chồng, mất người con nâng đỡ mình trong tuổi già, thiếu người bênh vực, sống cô đơn… Tuy không ai xin Ngài làm phép lạ cứu sống đứa con ấy, nhưng chính Ngài đã ra tay, Ngài khuyên bà đừng khóc nữa, truyền cho người thanh niên chỗi dậy và trao anh ta cho mẹ nó. 
          Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải biết thông cảm với người khác.  Đừng ai sống trơ trơ như một hòn đảo giữa đại dương (theo Thomas Merton), một mình mình biết, một mình mình hay, nhưng hãy biết tìm đến với nhau, biết chia vui sẻ buồn với nhau như lời thánh Phaolô đã khuyên bảo :”Hãy vui cùng kẻ vui, khóc cùng kẻ khóc” (Rm 12,15). 
          Con người không thể sống trơ trơ như đá. Con vật còn biết thương nhau, chia sẻ với nhau, huống chi là con người.  Người Việt nam chúng ta đã có kinh nhgiệm về vấn đề này nên đã lưu truyền tinh thần ấy trong câu tục ngữ mà ai cũng biết : 
Một con ngựa đau, cả tầu chê cỏ
          Có nghĩa là một con ngựa bị đau ốm không ăn được cỏ thì cả tầu ngựa (cái máng để chứa thóc, cỏ cho chuồng ngựa ăn) đều chê cỏ không ăn.  Ý nói loài vật có tình đồng loại, thấy một con ngựa đau thì cả đàn đều thương. 
          Theo gương Đức Giêsu, chúng ta hãy tập cho mình biết đi ra khỏi mình, đừng bao giờ co cụm lại. Hãy biết đi đến với người khác. Mang lấy cái tâm tình của người khác , nghĩa là hãy học để biết thông cảm . 
          Bí quyết để hiểu người khác chính là đặt mình vào trong vị trí của họ. Khi Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài đã làm như thế vì chúng ta. Ngài trực tiếp trải nghiệm những khó khăn của cuộc sống. Ngài cũng trải qua cảm giác mệt mỏi, đói khát, cô đơn, đau đớn và mọi vấn đề khác. Và khi trải nghiệm như thế, Ngài thật sự cảm thông với chúng ta, Ngài cứu giúp, nâng đỡ và ủi an chúng ta theo cách chúng ta cần nơi Ngài.

          Đó cũng là bí quyết để chúng ta học biết cảm thông tốt hơn đối với người khác. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không thể hoàn toàn thay đổi hoàn cảnh của mình như Chúa Giêsu đã làm. Nhưng chỉ cần chúng ta tưởng tượng mình ở trong hoàn cảnh của họ.

          Chẳng hạn trước khi nhờ ai đó làm điều gì có vẻ đơn giản và không phiền phức gì đối với chúng ta, trước tiên, chúng ta hãy suy nghĩ kỹ xem người ấy có cảm thấy như vậy không. Hoặc nếu ai đó bực tức, giận dữ, hãy suy nghĩ điều gì khiến họ trở nên như thế. Hành động như thế thận trọng hơn là cho rằng mọi người cũng nhìn và cảm nhận mọi thứ giống như chúng ta.

          Hãy bước đi một dặm bằng đôi giày của người khác, và chúng ta sẽ dần trở thành người thông hiểu và cảm thông trong những tình huống cần thiết. Sau đó, hãy điều chỉnh kỳ vọng và cách biểu hiện của chúng ta cho phù hợp. Người khác sẽ nhận ra rằng chúng ta biết trước được những khó khăn và những mối bận tâm của họ và quan tâm đến những khó khăn của họ, và điều này sẽ giúp chúng ta sống và làm việc với mọi người tốt hơn.

          Cảm thông giúp tạo nên sự thống nhất về ý kiến và mục tiêu, và đó chính là một điều tuyệt vời! (Thiên Ân).
          Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta càng biết cho đi thì lại càng lãnh nhận được nhiều vì đúng như thánh Phanxicô Asssi đã diễn tả trong Kinh Hòa bình :”Chính lúc hiến thân là lúc được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.  Càng co cụm lại nơi mình thì càng nghèo đi và có khi còn đánh mất cả bản thân. Tư tưởng này sẽ được minh họa trong câu truyện sau đây.                                     
Truyện : Cái giếng cũ 
          Ðây là một cái giếng mà nước rất trong sạch và dịu mát làm cho ai uống vào cũng cảm thấy khoan khoái. Một điều đặc biệt nữa là chưa bao giờ giếng này cạn nước cho dù mùa hè có nắng hạn đến đâu đi nữa. Chủ nhân của cái giếng này là một bác nông dân nghèo.
          Nhưng đến một lúc mà hệ thống điện nước chuyển đến nông thôn, thì cái giếng của bác xem ra cũng trở thành vô dụng. Căn nhà của bác cũng được sửa chữa lại, hệ thống dẫn nước cũng được thiết lập. Không ai buồn nghĩ đến chuyện phải vất vả để kéo nước từ cái giếng đó nữa. Thế là cái giếng bị đóng lại. 
          Bẵng đi nhiều năm trời. Một ngày nọ vì tò mò, người nhà của bác nông dân mở cái giếng cũ ra xem, thì lạ thay, giếng nước đã bị khô cạn. Bác nông dân không thể hiểu tại sao cái giếng nước trong lành của mình đã trở thành khô cạn. Mãi về sau, ông mới khám phá ra nguyên do: cái giếng cũ của ông vốn được bao nhiêu mạch nhỏ tiếp tế, càng múc nước thì nước càng tuôn chảy vào giếng. Nay đã nhiều năm qua, nước giếng không còn được múc lên nữa cho nên các mạch nước bị bít kín và phần nước còn sót lại trong đáy giếng cũng dần bị bốc hơi và khô cạn. 
          Câu chuyện về cái giếng cũ trên đây có thể là một dụ ngôn về suối nước không bao giờ khô cạn mà Thiên Chúa đã mở ra qua cái chết của Chúa Giêsu Kitô. Từ cạnh sườn Người, khi một người lính La Mã đâm thủng thì nước hằng sống đã tuôn trào để xoa dịu nỗi khát khao của con người. Mạch nước có được mở ra để trao ban thì nguồn nước mới tuôn trào. Cái chết của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của một cuộc đời hướng về tha nhân, tiêu hao vì tha nhân, dốc cạn vì tha nhân. Ðó cũng là chân lý về cuộc đời. Càng trao ban, càng dốc cạn, càng được múc lấy. Càng tiêu hao, càng mất chính mình thì con người càng trở nên phong phú, con người càng trở nên chính mình. Giếng nước càng được múc thì càng trở nên dồi dào. Con người càng trao ban thì cũng càng trở nên phong phú hơn. 
          Song song với những hy sinh, hãm mình, nhẫn nại, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng được mời gọi để sống san sẻ. Ðó không là một việc làm tùy hứng, mà là một đòi hỏi thiết yếu của sự hoán cải. Hoán cải đích thực là trở về với sự thật về con người. Ðó là một con người lấy sự trao ban làm lý tưởng (Internet). 
          Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho nhân loại và đã trở thành nguồn mạch tuôn trào xoa dịu nỗi khao khát của chúng con. Xin cho chúng con khi suy ngắm về cuộc tử nạn của Chúa cũng luôn biết bước theo con đường của chính Chúa. Ðó là con đường của phục vụ, quảng đại, quên mình. Amen.