Tinh thần thơ ấu
Vài nét trong Kinh Thánh giúp đào sâu
Tháng Mân Côi mở đầu với lễ Thánh Nữ Terexa Hài Đồng Giê-su, Tiến Sĩ Hội Thánh. Ta
quen dịch chữ DOCTOR là tiến sĩ, mượn từ ngôn ngữ thời xưa, là người được tiến cử để
vua đặt làm quan to, phục vụ dân nước. Từ la-tinh có nghĩa là “thày dạy”. Các thánh Tiến
sĩ là các vị thánh được tôn phong như thầy dạy trong Hội Thánh, vì các ngài được ơn của
Chúa để giúp cả Hội Thánh đi vào những điều giáo lý cao sâu.
Trong bản liệt kê các ơn đặc biệt để phục vụ Hội Thánh, thánh Phao-lô kể : “Trong Hội
Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn
sứ, thứ ba là các Thầy dạy.” (1Cr 12, 28). Một nữ tu nhỏ bé trong đan viện Cát Minh ở
Lisieux, chết lúc 24 tuổi, lại được phong làm Bổn Mạng các xứ Truyền Giáo, và ngày 19
tháng 10 năm 1997, Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã ghi tên chị vào hàng “Tiến Sĩ
Hội Thánh”.
Thật khó tưởng tượng. Một nữ tu Cát Minh, khao khát được sai tới xứ Truyền Giáo, đã
được chỉ định để qua sống ở Nhà Kín Saigon, nhưng Chúa lại cất về trước khi lên đường,
thế mà làm thánh bổn mạng các xứ Truyền Giáo và Thầy Dạy Hội Thánh. Chúa làm
những việc lạ lùng trước mắt chúng ta để chúng ta thấy Tình Yêu và Quyền Năng Thiên
Chúa vượt xa đất trời, “muốn làm gì là Chúa làm nên”. Vị thánh nữ trẻ này khao khát
được hiến dâng mạng sống mình để muôn người được cứu độ, và đã thành Tiến sĩ [Thày
dậy] giúp Hội Thánh khám phá trở lại con đường thơ ấu của Tin Mừng.
Ngồi tại Giê-ru-sa-lem, trong ngày cuối của Lễ Lều, trong bầu khí ngột ngạt của lúc giao
mùa từ hè sang thu, tôi không có tham vọng viết một thiên khảo cứu về tinh thần thơ ấu
thiêng liêng, chỉ xin mạo muội nêu lên vài nét trong Kinh Thánh để giúp những ai muốn
đi vào tận nguồn là Lời Chúa, đào sâu tinh thần thơ ấu thiêng liêng và sống triệt để nhờ
sức mạnh của Lời Chúa.
1. Trong Cựu Ước
Trong Cựu Ước trào lưu suy tư “Đệ Nhị Luật” (đứng đầu là sách Đê Nhị Luật) vén mở
cho chúng ta bước khởi đầu của tinh thần thơ ấu thiêng liêng, khi chiêm ngắm nguồn
gốc của dân tộc được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai Cập để thiết lập Giao Ước
Xi-nai, nhận họ làm dân của Thiên Chúa và chính Ngài là Chúa của họ, Ngài ban cho họ
Luật để sống làm dân của Ngài, và cam kết bảo vệ họ, đưa họ vào Đất Hứa và cho họ
sống lâu dài ở đó, với điều kiện họ trung thành sống trong Giao Ước của Ngài.
“Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên
con người trên mặt đất… Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám
lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn
2
lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ
điềm thiêng… như Thiên Chúa đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?”
(Đnl 4, 32-34)
“Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn
mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính là vì yêu thương
anh em và để giữ lời hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh
em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ô, vua Ai-cập” (Đnl 7, 7-8).
Điều kiện duy nhất để được Thiên Chúa bảo vệ giữ gìn là`: “Anh em hãy đi đúng con
đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được
sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên đất mà anh em sẽ chiếm hữu” (Đnl 5, 32-
33). Chính Thiên Chúa đã giải thoát họ, chính Thiên Chúa đã đưa họ vào Đất Hứa chứ
không phải tự sức họ làm được những điều ấy. Vậy thì phải ở lại trong Tình Yêu của
Thiên Chúa, bằng cách bước đi theo đường lối của Thiên Chúa, đừng cậy sức mình, đừng
theo các thần khác, cũng đừng cậy dựa vào quyền lực nào ở trần gian này. (Chúa Giê-su,
Con Thiên Chúa làm người, sẽ mời gọi : Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy… Hãy giữ
những điều Thầy truyền [Ga 15, 7-10] ).
Sách Gio-su-ê cho thấy tất cả việc chiếm lãnh Đất Hứa dưới sự lãnh đạo của Giô-su-ê, là
do Thiên Chúa thực hiện chứ không phải do sức của dân. Giô-su-ê đã cùng dân ôn lại lịch
sử và tuyên lại Giao Ước ở Si -khem, trước khi cho dân tản mác, ai về lều nấy trên phần
đất đã được chia cho họ (x. Gs 24).
Sách Thủ Lãnh cho thấy một thực tế phũ phàng là sau khi ông Giô-su-ê chết, rồi cả thế
hệ ấy đã qua đi:
“Con cái Ít-ra-en đã làm diều dữ trái mắt Đức Chúa, và đã làm tôi các thần Ba-an. Họ đã
lìa bỏ Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, và họ đã
đi theo các thần ngoại lai…
Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ
bóc lột…
Khi Đức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì Đức Chúa ở với vị thủ lãnh và
Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh còn sống, vì Đức Chúa động lòng
trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi họ bị đàn áp và ức hiếp. Nhưng sau khi
vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cha ông họ. Họ chạy theo các thần ngoại lai
để làm tôi và sụp lạy chúng, chứ không từ bỏ những hành vi và đường lối ngoan cố của
họ.” (Gs 2, 11-19).
Đến khi họ đã lớn mạnh và thành một vương quốc, các ngôn sứ lại rát cổ bỏng họng tố
cáo tội ác, kêu gọi họ tin tưởng vào Thiên Chúa và đi theo đường lối của Thiên Chúa,
3
trung thành với Giao Ước, để được cứu thoát khỏi mọi đe dọa từ các nước láng giềng.
Bây giờ thì ngoài tội thờ thần của dân ngoại, họ còn cậy vào sức mình và cậy dựa vào sự
liên minh với các cường quốc, bị phía Bắc đe dọa thì họ quay sang dựa vào Ai-Cập ở phía
Nam. Bị Ai Cập đe dọa thì họ cầu cứu phương Bắc. Ta hãy đọc vài trích đoạn tiêu biểu.
“Ngày ấy các ngươi đã nhìn vào binh khí trong Cung Rừng và thấy thành Đa-vít có nhiều
lỗ hổng. Các ngươi trữ nước ở hồ dưới. Các ngươi đếm từng ngôi nhà ở Giê-ru-sa-lem,
rồi phá đi một số để củng cố tường thành. Các ngươi xây bể để chứa nước hồ cũ giữa
hai lớp tường thành. Nhưng Đấng tác tạo cả thành đô, các ngươi lại không nhìn; Đấng
từ lâu làm nên mọi sự các ngươi lại chẳng thấy.” (Is 22, 8-11)
Khốn thay những đứa con phản nghịch, chúng thực hiện kế hoạch, nhưng không phải
của Ta, chúng ký kết thỏa hiệp nhưng không theo thần khí của Ta, cứ chồng chất tội này
lên tội khác. Chúng đâu thỉnh ý Ta khi lên đường đi xuống Ai-cập, tìm sự che chở của
Pha-ra-ô và núp bóng Ai-cập. Nhưng sự che chở của Pha-ra-ô sẽ khiến các ngươi phải
thẹn thùng, và việc ẩn núp dưới bóng Ai-cập sẽ làm cho các ngươi phải nhuốc hổ” (Is 30,
1-3).
Khi bị liên minh A-ram và Ep-ra-im đe dọa (Is 7, 1-17),
“Bấy giờ lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió”
Ngôn sứ I-sai-a được sai đến nói với vua:
“Chuyện đó sẽ không xảy ra, sẽ không có… Nếu các ngươi không vững tin thì các ngươi
sẽ không đứng vững” (Is. 7, 2.9)
Một điều lý thú khi đọc trong bản tiếng Hip-ri là chơi chữ: hai động từ vững tin và đứng
vững cùng một gốc 1 . Họ có đứng vững được là nhờ Thiên Chúa chứ không phải do sức
họ; họ “run như cầy sấy” khi mới nghe tin phe địch đã đóng quân sát nách, vì họ không
tin vào Thiên Chúa mà dựa vào sức mình. Ngôn sứ công bố dấu chỉ của Thiên Chúa là
“Em-ma-nu-en” sinh ra (Is 7, 14).
Họ được nghe tiếng Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vô hình, họ không thấy được không
sờ được. Vì thế vừa nhận Luật Giao Ước xong, trong khi ông Mô-sê lên núi nhận Bia
Chứng Ứơc, thì ở dưới họ đã yêu cầu A-ha-rôn làm cho họ một ông thần để dẫn họ đi,
nghĩa là một vị thần họ thấy được, sờ được và khiêng đi theo ý họ, muốn đi thì đi, muốn
đứng thì đứng (x. Xh 32, 1-6).
1 Từ đó ta có chữ AMEN, nghĩa là đúng như vậy, chắc chắn như vậy trong lời Chúa Giê-su: “Amen, Amen,
Ta bảo các ngươi”; trong lời tuyên xưng đức tin; hoặc ước gì được như vậy trong những lời cầu xin. Đọc
đoạn này trong I-sai-a, không thể không liên tưởng tới bài thơ lịch sử: “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”đã
khích lệ tinh thần quân dân Việt Nam đánh tan quân xâm lược phương Bắc, giữ vững độc lập.
4
Vì thế khi vào Đất Hứa, sống giữa các dân tộc có các vị thần sờ được, thấy được, họ dễ
dàng theo các thần “ngoại bang” ấy thay vì nghe lời Thiên Chúa mà họ không thấy,
không sờ được. Điều này dễ hiểu, như tục ngữ Việt Nam nói: “Trăm nghe không bằng
một thấy”. Thậm chí vua Sa-lô-môn cuối đời cũng ngả theo các thần ngoại bang (x. 1V
11).
Ngay lúc Giê-ru-sa-lem đã bị Ba-bi-lon đe dọa, Thiên Chúa còn phải dùng ngôn sứ Giê-rê-
mi-a để tố cáo:
“Hãy cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi được ở lại nơi
này. Đừng ỷ vào các lời giả dối sau đây: “Đền Thờ của Thiên Chúa, Đền Thờ của Thiên
Chúa, đã có Đền Thờ của Thiên Chúa!”…
Các ngươi ỷ vào những lời dối trá vô giá trị. Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề gian,
đốt hương tế thần Ba-an và đi theo các thần lạ các ngươi không biết, rồi lại vào nhà này,
nơi Danh Ta được kêu khấn, đến trước mặt Ta mà nói: “Chúng ta được an toàn!”, sau đó
lại tiếp tục làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì? Phải chăng các ngươi coi nhà
này, coi nơi Danh Ta được kêu khấn là hang trộm cướp sao? Ta, Ta thấy rõ hết.” (Gr 7, 3-
11).
Sách ngôn sứ Xô-phô-ni-a (chỉ có 3 chương ngắn) có thể coi như một mô hình thu gọn
của các ngôn sứ thuộc trào lưu Đệ Nhị Luật: mở đầu, ngôn sứ công bố Ngày của Thiên
Chúa, rồi hạch tội Giu-đa và kêu gọi trở lại; sau đó ngôn sứ hạch tội các dân chung
quanh, rồi quay lại hạch tội Giê-ru-sa-lem; cuối cùng ngôn sứ công bố các lời hứa cứu
độ:
« Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi
danh Đức Chúa… Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!...
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa… Ngày ấy người ta sẽ
bảo Giê-ru-sa-lem: Này Xi-on đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời. » Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi đang ngự giữa ngươi… Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình
thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như
trong ngày lễ hội. » (xin đọc hết Xp 3, 12-18).
Thánh vịnh 130/131 đúc kết kinh nghiệm lịch sử thành một thái độ, một con đường
sống lòng tin vào Thiên Chúa:
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi !
Đường cao vọng chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu ;
hồn con con vẫn trước sau
5
giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào Chúa Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Vài lời giải thích về thánh vịnh này. Lòng tự cao nghĩa là tự đặt mình lên cao, cậy dựa
vào bản thân, cho mình là ngon lành, hơn hết mọi người, không cần đến ai. Mắt con
chẳng dám tự hào, dịch sát là ngước lên cao, ám chỉ tới việc ngước nhìn lên nơi cao là
nơi thờ thần của dân ngoại. Đường cao vọng chẳng đời nào bước, ám chỉ bước theo
những quyền lực thế tục. Như vậy thánh vịnh này gợi lại ba điểm tựa mà các ngôn sứ đã
tố cáo: dựa vào sức mình, dựa vào các thần ngoại bang (ngoài Đức Chúa là Thiên Chúa
duy nhất) và chạy theo quyền lực thế tục. Con đường thơ ấu thiêng liêng cho cả dân tộc
và cho mỗi người là cậy dựa vào một mình Thiên Chúa.
Trẻ thơ ở đây, [gamul trong tiếng Hipri], không phải là trẻ còn bú, nhưng là trẻ đã cai
sữa 2 (3 tuổi), có thể đi, chạy, chơi một mình, nhưng chưa thể tự vệ, chưa thể tự kiếm ăn,
hoàn toàn lệ thuộc cha mẹ để được bảo vệ, nuôi nấng (x. St 21, 8-11, chuyện It-ma-en
và I-xa-ác trong ngày cai sữa cho I-xa-ác).
2. Trong Tân Ước
Trong Tân Ước, chúng ta sẽ chú ý đến các sách Tin Mừng và một số thư của các Tông Đồ.
2.1 Trong các sách tin Mừng Nhất Lãm
Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta có gương Chúa Giê-su ưu ái trẻ nhỏ và
những lời giáo huấn về việc đón nhận Nước Trời như trẻ nhỏ.
Tin Mừng Nhất Lãm nhiều lần kể về cách thức và lý do Chúa Giê-su ưu ái trẻ nhỏ.
Người ta dẫn trẻ em đến với Chúa Giê-su… Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy,
Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì
Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: “Ai không
đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” Rồi Người
ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng. (Mc 10, 13-16; Mt 19, 13-15; Lc 18,
15-17)
Khi các môn đệ thắc mắc trong lòng (Lc 9, 46-48) hoặc bàn tán với nhau (Mc 9, 33-37)
xem ai trong các ông là người lớn nhất, hoặc hỏi Chúa Giê-su ai là người lớn nhất trong
Nước Trời (Mt 18, 1-4) thì Chúa Giê-su “gọi một em nhỏ đến, đặt giữa các ông” (Mt),
“đem một em nhỏ đặt giữa các ông” (Mc), “đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình” (Lc),
2 Có một bản dịch tiếng Việt khá quen thuộc: “như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ”, nghe thơ mộng nhưng
không phải là ý nghĩa của bản văn Hip-ri.
6
rồi trả lời các ông. Trẻ nhỏ là mẫu mực của người lớn nhất giữa các ông, lớn nhất trong
Nước Trời.
Mt 18, 3 nêu điều kiện quyết liệt để được vào Nước Trời: “Nếu anh em không trở lại mà
nên giống như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”.
2.1.1 Tin mừng Thời Thơ Ấu trong Lu-ca 1-2 vận dụng lời ngôn sứ Ma-la-khi 3, 1 làm
khung tổng thể cho trình thuật so sánh giữa vị Tiền Hô, “sứ giả của Ta đến dọn đường
trước mặt Ta” và “Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người”.
Trình thuật Truyền Tin cho Đức Trinh Nữ, như được dệt bằng sợi rút từ lời hứa về Em-
ma-nu-en (Is 7, 14), các lời hứa cho vua Đa-vít (2S 7) và thánh vịnh mời gọi Xi-on vui
mừng (Xp 3, 14-18). Lời thiên sứ chào Đức Mẹ, lời thiên sứ loan báo, lời Đức Mẹ hỏi
thiên sứ và lời giải thích của thiên sứ về cách thức trinh nữ thụ thai và sinh con, đều rút
từ những lời kể trên; đồng thời lời giải thích của thiên sứ còn gợi lên hình ảnh Vinh
Quang Thiên Chúa như đám mây phủ đầy Lều Tạm (x. Xh 33, 9-10 và 40, 34-35) và Đền
Thờ do Salomon xây (x. 1V 8, 10-11).
Bằng cách “rút sợi” từ lời loan báo và bài thánh vịnh mời gọi Xi-on vui mừng (Xp 3, 12-
18), Lc đã cho thấy Đức Trinh Nữ Maria như là hiện thân của Cô Gái Xi-on, thì đồng thời
cũng là hiện thân của tinh thần thơ ấu thiêng liêng mà ngôn sứ đã gợi lên: tìm nương ẩn
nơi Danh Thiên Chúa. Thiên Chúa làm mọi sự nơi Đức Trinh Nữ Maria, còn Đức Trinh Nữ
thì phó nộp hoàn toàn cho Lời Thiên Chúa: “Này tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ
xảy ra cho tôi [= xin Người cứ làm nơi tôi] - như lời thiên sứ đã nói”. Lu-ca trình bày Đức
Trinh Nữ Maria như là “hình tượng” (icon) của tinh thần thơ ấu thiêng liêng, để cho ta
chiêm ngắm mà học theo.
Đến cuối sách Tin Mừng, Lu-ca lại cho ta chiêm ngắm chính Chúa Giê-su Con Thiên
Chúa đã sinh làm con Đức Trinh Nữ Maria, bày tỏ tinh thần con thơ đối với Cha như
thế nào qua buổi cầu nguyện ở núi Ô-liu và lời cuối cùng trên thập giá. Ở núi Ô-liu Con
Thiên Chúa làm người đã bày tỏ với Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa
con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha”. “Cầu nguyện xong, Người đứng
lên…” đánh thức các môn đệ dậy, thanh thản đón kẻ đến nộp Thầy, và những kẻ đến bắt
Người, phanh phui cho họ thấy: “Đây là giờ của các ông, thời của quyền lực tối tăm” (Lc
22, 39-53). Suốt cuộc Khổ Nạn, Luca cho chúng ta chiêm ngắm một Chúa Giê-su thanh
thản và im lặng, làm chủ tình hình, khiến Phi-la-tô, Hê-rô-đê và những kẻ muốn giết
Người phải quay cuồng lúng túng. Lời cuối cùng của Chúa trên thập giá biểu lộ tình con
thơ phó thác tột cùng: “Lạy Cha, con phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong Người
tắt thở.” (Lc 23, 46). Lời “xin vâng” của Đức Trinh Nữ nhận làm Mẹ của Con Thiên Chúa
nghe như “tiếng vọng trước” lời phó thác mà chính Con Thiên Chúa làm người sẽ nói lên
bằng môi miệng con người trước khi kết thúc kiếp làm người trên thập giá.
7
2.1.2 Lu-ca cũng cho chúng ta một kiểu mẫu năng động khác là Si-mon-Phê-rô, ông đã
trở lại và nên như trẻ nhỏ, ông đã dâng của lễ đẹp lòng Thiên Chúa theo lời thánh vịnh
51/50: “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát dày vò Ngài sẽ
chẳng khinh chê” (câu 19), và Thiên Chúa đã tạo cho ông một tấm lòng trong trắng và
đổi mới tinh thần cho ông nên chung thủy (câu 12). Quả vậy, ngày đầu khi Chúa gọi ông
thì ông nhận ra mình là người tội lỗi không đáng Chúa ở gần (Lc 5, 8). Nhưng trên đường
đi theo Chúa thì ông lại lớn lên trong sự tin tưởng vào chính mình, dám thách đố cả lời
Chúa cảnh báo, cho mình là vững mạnh hơn mọi anh em (x. Lc 22, 31-34), dám theo
Chúa vào tận trong sân dinh Thượng Tế, lại còn ngồi chen vào giữa đám tay sai vừa bắt
Chúa Giê-su điệu về đây, cùng sưởi với chúng nữa (Lc 22, 54-55)
Điều phải đến đã đến. Nhưng Chúa đã cầu nguyện cho ông để ông khỏi mất lòng tin và
trao cho ông sứ mạng làm cho anh em vững mạnh sau khi ông đã trở lại (Lc 22, 31-32),
nên khi ông đã chối Chúa đủ ba lần và có tiếng gà gáy, thì Chúa quay lại nhìn thẳng vào
ông, ánh mắt của Chúa đã xuyên qua màn đêm, vào tận đáy lòng ông, “ông nhớ lại Lời
Người đã nói với ông, và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết” (Lc 22, 56-62).
Sau khi Chúa phục sinh, Chúa đã giữ lời hứa, tạo điều kiện cho ông thi hành sứ mạng
làm cho anh em của ông vững mạnh. Anh em tin Chúa đã phục sinh, vì lời Si-mon làm
chứng (Lc 24, 33-34).
Si-môn đã trở lại và nên như trẻ nhỏ, khi Chúa để cho ông cảm nghiệm sự yếu đuối của
ông tới mức nào, để ông hết còn dám cậy sức mình, nhưng hoàn toàn dựa vào Chúa
như trẻ thơ. Chúa đến với ông, ban cho ông tinh thần vững mạnh để ông có thể làm cho
anh em của ông vững mạnh. Người đã rửa ông cho sạch bằng chính nước mắt của ông
(Tv 51/50, 4).
2.1.3 Tin Mừng theo thánh Mác-cô lại cho ta chiêm ngắm một hình ảnh cô đọng thật
huyền bí, khi kể giây phút cuối cùng của Chúa Giê-su trên thập giá: “Vào giờ thứ chín,
Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-I, la-ma sa-bác-tha-ni!” nghĩa là “Lạy Thiên Chúa
của con, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?… Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng
lớn, rồi tắt thở…”. Hiệu quả bất ngờ: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-
su, thấy cách Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa.”
Một sĩ quan Rô-ma phục vụ dưới trướng Tổng Trấn Phi-la-tô, chưa bao giờ nghe Chúa
giảng, chưa bao giờ được thấy Chúa làm một phép lạ. Chỉ huy cuộc hành quyết, ông có
nhiệm vụ xác nhận người bị xử đã chết thật sự (Phi-la-tô sẽ gọi ông để xác nhận, khi ông
Giu-se A-ri-ma-thi đến xin xác Chúa Giê-su, Mc 15, 44-45). Vì nhiệm vụ ông phải đứng
đối diện với Chúa Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá. Ông chỉ thấy cách Người tắt thở
mà tuyên xưng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.
8
Thật là huyền nhiệm. Chúng ta hãy sống lại cảnh này, cùng đứng với viên sĩ quan và hỏi
ông: « Làm sao ông có thể nhìn cách Người tắt thở mà nhận ra người, mà chính đội hành
quyết do ông chỉ huy đã đóng đinh treo lên thập giá kia, là Con Thiên Chúa? »
Tinh thần con thơ của Chúa Giê-su lộ ra trong hơi thở cuối cùng, đến nỗi một người
ngoại đạo có thể nhận ra người bị đóng đinh là Con Thiên Chúa. Đó là cách trình bày
độc của Tin Mừng Mác-cô, vận dụng nghệ thuật kể chuyện, đặt chúng ta trước một bức
họa và để cho chúng ta nhìn ngắm mà rút ra kết luận.
2.1.4 Tin Mừng theo thánh Mát-thêu đã nêu điều kiện không khoan nhượng để được
vào Nước Trời: “Nếu anh em không trở lại mà nên giống như trẻ nhỏ thì anh em sẽ
chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3).
Lý do đã được nêu ngay trong Bài Giảng Trên Núi: Tám mối phúc:
Thứ nhất: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ… Thứ tám: “Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”.
Sáu mối phúc ở giữa, dùng những hình ảnh khác để nói về cùng một thực tại là Nước
Trời, và những cách nói khác để diễn tả cùng một thái độ của người bé nhỏ nghèo hèn
là chỉ tìm nương ẩn nơi Danh Thiên Chúa (x. Xp 3, 12), đến nỗi có bị bách hại vì sự công
chính thì cũng chẳng tìm nương ẩn nơi đâu khác ngoài Thiên Chúa. Được Nước Trời là
được chính Thiên Chúa làm gia nghiệp của mình. Mối phúc thứ tám lại được áp dụng
trực tiếp cho môn đệ của Chúa: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách
hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho
anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5, 12-13). Được Chúa Giê-su là được Nước Trời rồi.
Chúa Giê-su sẽ đề nghị với người thanh niên giàu có đầy thiện chí, muốn “hơn nữa”:
“Nếu anh muốn nên hoàn thiện [muốn được trọn vẹn], thì hãy đi bán tài sản của anh và
đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt,
19, 21). Kho tàng của anh ở trên trời lại là con người bằng xương bằng thịt, đang đứng
trước mặt anh đây, và anh có thể đi theo sau Người, theo sau kho tàng của anh.
Nghiệm cho kỹ thì thấy Tám Mối Phúc là chân dung tự họa (selfie) của Chúa Giê-su, như
suốt sách Tin Mừng này cho thấy, vì thế ở chương 11, Chúa Giê-su mời gọi: “Hãy học với
tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (câu 29). Cách tốt nhất để hiểu các mối
Phúc là đọc từng mối Phúc và nghiệm lại trong đời sống Chúa Giê-su xem Chúa đã sống
điều đó như thế nào. Ngược lại để biết Chúa Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu trình
bày, thì đọc và nghiệm xem qua đoạn vừa đọc, thấy được Chúa đang sống mối Phúc
nào.
Bài Giảng Trên Núi nhấn mạnh đến sự thành thật đơn sơ, sống tự đáy lòng, không giả
hình: bố thí, cầu nguyện, ăn chay là để phụng thờ Thiên Chúa tự đáy lòng, như trẻ thơ.
9
Phó thác trọn vẹn trong tay Cha, “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ”: “Cha anh em thừa
biết anh em cần tất cả những thứ đó… Vậy anh em đừng lo lắng cho ngày mai, ngày mai
cứ để ngày mai lo”.
Kết thúc Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giê-su dạy cách trở thành người khôn: “Ai nghe
những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà
trên đá” (Mt 7, 24). Trẻ thơ thì cha, mẹ bảo sao nghe vậy, bảo đi thì đi, bảo đứng thì
đứng, bảo làm gì cũng làm, bảo nói gì cũng nói… Đó cũng là điều Thiên Chúa đã đòi ở các
ngôn sứ, như Giê-rê-mi-a: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu người cứ đi, Ta
truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát
ngươi” (Gr 1,7).
2.2 Tin mừng theo thánh Gio-an
2.2.1 Sách Tin Mừng theo thánh Gio-an lại trình bày cho chúng ta chân dung Chúa Giê-
su như người con hiếu thảo, sống bởi Cha, luôn kết hiệp với Cha, “Cha ở trong Thầy và
Thầy ở trong Cha”, nói lời của Cha, làm việc của Cha, chỉ làm theo ý Cha và chỉ tìm vinh
danh Cha, chỉ muốn tỏ rõ lòng mình yêu mến Cha, kể cả bằng cái chết trên thập giá.
Không có gì là của riêng mình: “mọi sự của Cha là của Con, mọi sự của Con là của Cha”.
Ngay trong Lời Tựa, Gio-an đã cho thấy Ngôi Lời đã làm người chung phần vinh quang
của Cha: “Chúng tôi đã được thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban
cho Người, là Con Một đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1, 14).
Chúa Giê-su tuyên bố: « Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không thể tự mình làm
bất cứ điều gì ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì
người Con cũng làm như vậy 3 . Quả thật, Chúa Cha yêu người Con và cho Người Con thấy
mọi diều mình làm…” (Ga 5,19-20)
“Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các
việc đó thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy các ông sẽ
biết và ngày càng biết thêm rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha.” (Ga
10, 37-38)
“Như Chúa Cha là Đấng nằng sống đã sai tôi và tôi sống bởi Chúa Cha thế nào thì kẻ ăn
tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6, 57)
“Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã
nghe Người nói” (Ga 8, 26)
3 Có lẽ ám chỉ tới kinh nghiệm làm người con ở gia đình Na-da-rét, học nghề với người cha gia đình là
thánh Giuse. Chúa Giê-su dùng kinh nghiệm chung của mọi người để nói về tương quan của Ngài với Chúa
Cha.
10
“Các lờI Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha ở trong
Thầy, chính Người làm những việc của mình.” (Ga 14,10)
“Thủ lãnh thế gian này đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. Nhưng chuyện đó
phải xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa
Cha đã truyền cho Thầy.” (Ga 14,31)
Trong tình yêu mến thì Chúa Cha là mẫu của Chúa Giê-su và Chúa Giê-su là mẫu cho
môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy như thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như
vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của
Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của
Cha Thầy và ở lại trong Tình thương của Người.” (Ga 15, 9-10)
“Này đến giờ, và giờ ấy đã đến rồi, anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy
cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (Ga 16, 32).
Trong lời cầu nguyện hiến tế, Chúa Giê-su đã cho chúng ta một bản tóm lược về tương
quan giữa Người với Cha và giữa Người với các môn đệ:
“Những kẻ Cha đã chọn giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho chúng biết Danh Cha.
Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. Giờ đây họ biết rằng
tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban
cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin
là Cha đã sai con.” (Ga 17, 6-8)
Như vậy Tin Mừng theo thánh Gio-an cho chúng ta gương mẫu tuyệt vời để sống như
con thơ đối với Cha Trên Trời, là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và của chúng ta: “Cha của
Thầy cũng là Cha của anh em” (Ga 20, 17); vậy Thầy đã sống với Cha như thế nào thì anh
em cũng hãy học với Thầy mà sống như thế với Cha.
2.2.2 Sách Tin Mừng Gio-an còn cho chúng ta một gương mẫu về việc “trở lại và nên
như trẻ nhỏ”, trong câu chuyện của ông Si-môn Phê-rô.
Các Tin Mừng Mt, Lc và Gio-an đều kể việc Chúa Giê-su báo trước rằng các môn đệ sẽ bỏ
Chúa một mình, và ông Phê-rô sẽ chối Chúa ba lần trước khi gà gáy (Ga 13, 38; Mt 26,34;
Lc 22, 34); Mc thì kể “gà chưa kịp gáy hai lần thì anh đã chối Thầy ba lần” (Mc 14, 30).
Rồi sau khi ông Phê-rô đã chối đủ ba lần thì tiếng gà gáy (Mt 26, 74-75 và Mc 14, 72),
hoặc cái nhìn của Chúa (Lc 22, 61-62) làm cho ông thức tỉnh, nhớ lại Lời Chúa đã nói và
ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Gioan ngưng câu chuyện với tiếng gà gáy (Ga 18, 27), như để cho thấy lời loan báo của
Chúa Giê-su đã ứng nghiệm; rồi kể sang việc Chúa bị điệu ra trước tòa Phi-la-tô, không
11
nhắc tới ông Phê-rô lần nào nữa trong cuộc Thương Khó. Ở chương 20, Gio-an kể việc
ông Si-môn Phê-rô cùng với “người môn đệ Chúa Giê-su thương mến” chạy ra mồ, như
hai nhân chứng để xác minh lời bà Maria Ma-đa-lê-na hốt hoảng chạy về báo. Họ thấy
quả là xác Chúa không còn trong mộ, nhưng khăn liệm và các băng vải còn đó, không để
lẫn với nhau, khăn liệm được cuốn lại gọn gàng và để riêng ra một nơi. Tối hôm ấy Chúa
Giê-su Phục Sinh đến với các môn đệ.
Tưởng như Gio-an đã quên chuyện ông Phê-rô hối cải. Ở chương 21, Gio-an kể việc
Chúa trao cho ông Phê-rô sứ mạng mục tử đối với toàn thể đoàn chiên của Chúa (như
Chúa đã tự mô tả chính mình là Mục Tử như thế nào (x. Ga 10, 1-16). Lúc này Gio-an
mới kể tiếp cho chúng ta về ông Phê-rô, ví ông với A-đam – E-và trong Vườn Địa Đàng
sau khi ăn trái cấm (x. St 3, 7-10)
Câu chuyện mở đầu với chuyến đánh cá đêm trên Biển Hồ Gali-li-lê của ông Phê-rô cùng
với sáu bạn môn đệ. Kết quả một đem vất vả: lưới không, thuyền rỗng.
“Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó
chính là Đức Giê-su. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả
lời: “Không!” Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt
được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.”
Người môn đệ Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: “Chúa đó!” Vừa nghe nói
“Chúa đó!”, ông Phê-rô liền quấn áo ngang lưng [làm khố], vì ông đang trần truồng, rồi
nhảy xuống biển…” (Ga 21, 4-7)
Tôi sửa lại bản dịch cho sát bản Hy Lạp, vì đây là một chi tiết then chốt để hiểu câu
chuyện. Nhiều người lý luận: chẳng lẽ ông Phê-rô ở trên thuyền với sáu ông khác mà lại
trần truồng. Thứ nhất, không nên áp dụng cách thức ăn mặc ngày nay với hai ngàn năm
trước của người đánh cá trên hồ; thứ hai là chú ý tới liên hệ giữa hai yếu tố “Vừa nghe
nói “Chúa đấy!”… vì ông đang trần truồng”. Người kể chuyện cho thấy là cảm thức “trần
truồng” đến với ông Phê-rô khi ông nghe nói “Chúa đấy!” chứ không phải tự nhiên. Tiếp
theo là “ông quấn áo ngang lưng và nhảy xuống biển”.
Hãy so sánh với bản văn Hy-lạp của sách Sáng Thế 3, 7 “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và
họ thấy mình trần truồng: họ mới hái lá vả làm dây thắt lưng cho mình. Rồi khi nghe
thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con
người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn tránh mặt Thiên Chúa”.
Ở trong vườn, thấy mình trần truồng thi hai ông bà hái lá cây vả, là thứ lá cây lớn nhất
trong vườn, xâu lại làm thắt lưng (khố). Khi nghe thấy tiếng Đức Chúa thì hai ông bà trốn
vào giữa cây cối, tránh mặt Đức Chúa. Ông Phê-rô đang ở giữa Biển Hồ, nghe nói “Chúa
đó!” ông như mở mắt ra, vì nãy tới giờ Chúa đứng đó mà ông không nhận ra, tiếng
12
“Chúa đó!” mở mắt cho ông nhận ra Chúa và thấy mình trần truồng. Ông đã có thể mặc
áo vào, nhưng ông lại quấn áo làm thắt lưng. A-đam E-và ở trong vườn thì núp vào giữa
cây cối, còn ông Phê-rô ở giữa biển thì núp vào đâu? Nhảy xuống biển!
Nhưng việc ông nhảy xuống biển lại như “tiền xướng” nhắc chúng ta nhớ tới thánh vịnh
139/138, chuẩn bị cho ta nghe lời ông Phê-rô tuyên xưng lòng mến sau bữa ăn: “Thầy
biết… Thầy biết mọi sự…”
Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ…
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài. (Tv 139/138, 1.8)
“Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên và có cả bánh nữa.”
Với ông Phê-rô thì quang cảnh này gợi nhớ “than hồng” bọn tôi tớ đã đốt để sưởi trong
sân dinh Thượng Tế, và ông đã ngồi vào sưởi ké, rồi chuyện đã xảy ra đêm ấy bên lò
than hồng.
Chúa đã hỏi họ: “Không có gì ăn ư?”, họ trả lời cộc lốc “không”. Bây giờ Chúa đã dọn
sẵn bữa ăn nóng hổi cho họ, có bánh có cá đặt trên than hồng. Nhưng Chúa nhẹ nhàng
gỡ thế lúng túng cho ông Phê-rô: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Ông Si-mon Phê-rô
lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ, lưới đầy cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con.
Cá nhiều như thế mà lưới không rách.”
Sau khi các ông đã nghiệm ra hiệu năng của lời Chúa qua mẻ cá, Chúa bảo các ông: “Anh
em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng
đó là Chúa. Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm
như vậy.”
Bữa ăn này hẳn gợi cho các ông nhớ lại bữa ăn Chúa đãi đám đông hôm nào khi ngồi
trên núi (Ga 6, 1-13), Chúa Giê-su vừa là Thiên Chúa đãi tiệc trên núi (x. Is 25, 6-9), vừa là
mục tử cho chiên nằm nghỉ “trong đồng cỏ xanh tươi” (x. Tv 23, 2).
Sau bữa ăn trong thinh lặng trước mặt Chúa (như Mô-sê và các kỳ mục trong Xh 24, 9-
11), Chúa nói chuyện với ông Phê-rô trước mặt anh em, như xưa Thiên Chúa nói với ông
Mô-sê trước mặt dân: “Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc, để khi Ta nói
với ngươi, thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi.” (Xh 19, 9).
Trước hết Chúa long trọng gọi tên đầy đủ của ông Phê-rô, không lẫn vào đâu được: “Này
anh Si-môn con ông Gio-an 4 , anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp:
“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Chúa Giê-su nói với ông:Hãy chăm sóc các
4 Người Do Thái không có tên họ như Việt Nam, nên muốn xác định căn cước một người thì phải kể lên đời
cha, đời ông...
13
chiên con của Thầy.” Chú ý câu hỏi lần thứ nhất này có so sánh “hơn các anh em này”,
hẳn làm ông Phê-rô nhớ tới những lời khẳng khái ông đã thưa với Chúa trước mặt anh
em trong phòng Tiệc Ly, tỏ ra ông cho là mình yêu mến Thầy hơn bất cứ ai trong hàng
môn đệ: “Thưa Thầy, sao con lại không đi theo Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí
mạng con vì Thầy” (Ga 13, 37)
Người lại hỏi: “Này anh Si-môn con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?” Ông đáp:
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.
Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-môn con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?”
Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: Thưa
Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc
chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy,
và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng
và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn”. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cach
nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.” (Ga 21,16-19)
Chúa hỏi đến lần thứ ba thì ông Phê-rô buồn. Dễ hiểu, lần thứ nhất Chúa so sánh để
nhắc lại cho ông lời cam kết ông đã nói trước mặt anh em, tỏ ra ông yêu mến Thầy hơn
bất cứ ai. Chúa hỏi đến lần thứ ba thì ông buồn, vì ám chỉ quá rõ ràng tới việc ông chối
Chúa lần thứ ba trước khi gà gáy.
Câu trả lời lần thứ nhất và lần thứ hai, ông dựa vào Chúa: “Thầy biết”; khi trả lời lần thứ
ba thì ông nại đến “Thầy biết rõ mọi sự”. Thánh vịnh 139/138 lại vọng bên tai chúng ta:
“Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ... Hồn con đây biết rõ mười mươi... Lạy Chúa
xin dò xét con để biết rõ lòng con, xin thử cho biết những điều con cảm nghĩ. Xin Ngài
xem con có lạc vào đường gian ác, thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.” (Tv 139/138,
14.23-24). Chúa Giê-su đã dò xét lòng ông và gọi ông đi theo Chúa là “con đường, là sự
thật và là sự sống.” (Ga 14, 6)
Nhìn lại toàn bộ câu chuyện này, chúng ta thấy Chúa đã giúp cho ông Phê-rô nhận ra tự
thân ông chẳng là gì, chẳng có gì và chẳng làm được gì: con nhà nghề, rủ bạn cùng nghề
đi đánh cá, mà suốt đêm chẳng bắt được gì; ông đã thề sống chết với Chúa, nhưng đã
chối Chúa đủ ba lần khi gà chưa kịp gáy. Trước mặt Chúa hôm nay, ông thấy mình như
một đứa trẻ, trần truồng, vừa lạnh vừa đói, chưa biết mặc áo, chẳng có gì ăn. Chúa
Giê-su đốt lửa cho ông sưởi ấm, nướng bánh và cá cho ông ăn, rồi mặc cho ông áo mới
của tình yêu tinh tuyền, hoàn toàn dựa vào Chúa là Đấng thông suốt mọi sự: “Tạng phủ
con chính Ngài cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con... Xương cốt con, Ngài
không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất
thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy...” (Tv 139/138, 13-16).
Chúa làm như đáp lại lời cầu xin trong thánh vịnh 51/50: “Xin tạo cho con một tấm lòng
trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy” (câu 12). Và coi như Chúa trả lời
14
nỗi thắc mắc của ông trong bữa Tiệc Ly. Khi Chúa bảo: “Nơi Thầy đi, bây giờ anh không
thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo”, thì ông thưa: “Thưa Thầy, sao con lại
không đi theo Thầy ngay bây giờ được”. Bây giờ thì Chúa đã cho ông tinh thần vững
mạnh để đi theo Chúa, và cho ông biết ông sẽ được theo Chúa tới nơi Chúa đã đi là thập
giá, rồi Chúa bảo ông: “Hãy theo Thầy”.
Chúa trao cho ông cả chiên mẹ chiên con, tức là trọn đoàn chiên mà Chúa đã cứu chuộc
bằng cái chết và sự phục sinh của Chúa, như khi Thiên Chúa dẫn đưa dân lưu đầy trở về:
“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay: Lũ
chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bày chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11). Bây giờ
thì Chúa có thể nhận lời ông Phê-rô đã cam kết sẵn sàng thí mạng sống vì Chúa. Ông sẽ
chết giang tay trên thập giá như Chúa, nhưng không phải thí mạng vì Chúa, mà vì đoàn
chiên của Chúa, giống như Chúa đã làm. Ông phải là mục tử như Chúa Giê-su: “Hy sinh
mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10, 11) .
Ông Si-môn Phê-rô ở cuối sách Tin Mừng Gioan trở thành hình tượng cho chúng ta
chiêm ngắm để biết thế nào là “trở lại mà nên như trẻ nhỏ” (Mt 18, 3).
2.3 Trong các thư của các Tông Đồ
Trong thư các Tông Đồ, thì các lời khuyên bảo đều hướng về sống trung thành với Thiên
Chúa, thi hành ý Thiên Chúa, tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, cậy dựa vào một mình
Thiên Chúa. Tôi chỉ nêu vài ví dụ. Mỗi người có thể mở các thư, đọc những lời khuyên
bảo.
Bản thân thánh Phao-lô cũng đã được ơn mà thánh Phê-rô nhận được ở bên Hồ (x.Ga
21). Ngài diễn tả trong thư thứ nhất Cô-rin-tô: “Khi tôi đến với anh em, tôi đã không
dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo màu nhiệm của Thiên Chúa. Vì
hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-
tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá. Vì thế khi đến với anh em, tôi
thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn
khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí vá quyền năng
Thiên Chúa”(1Cr 2, 1-4).
“Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng
hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể.”
(1Cr 3, 6-7).
Trong thư thứ hai Cô-rin-tô: “Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi
đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan
được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi
nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh
15
của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì
những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. Vì vậy tôi cảm thấy
vui mừng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì
khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12, 7-10).
Thánh Phao-lô hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa khi thi hành sứ mạng: “Trong Đức Ki-
tô Giê-su, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa. Thật thế, tôi đâu dám
nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa
các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói việc làm, bằng sức mạnh
của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần.” (Rm 15, 17-19). Ta
nghe như vang vọng lời Chúa Giê-su nói về chính mình trong sách Tin Mừng Gio-an.
Trong các thư, thánh Phao-lô truyền đạt kinh nghiệm sống này cho các tín hữu.
Thư gởi tín hữu Rô-ma, trong phần giáo huấn từ chương 12 tới chương 15, thánh Phao-
lô mở đầu với “cách thức xứng hợp để thờ phượng Thiên Chúa” là sống như thể mình
là một của lễ toàn thiêu đã được dâng cho Thiên Chúa, “bằng cách đổi mới tâm thần,
hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì
hoàn hảo” (x. Rm 12, 1-2). Đó là cốt lõi của tinh thần thơ ấu thiêng liêng mà Thánh Phao-
lô quảng diễn trong các chương 12-15 của thư này, giúp ta hiểu thế nào là sống tinh
thần thơ ấu một cách thiết thực.
Trong thư Ê-phê-sô và thư Cô-lô-sê, thánh Phao-lô dùng hình ảnh lột bỏ con người cũ,
mặc lấy con người mới, sống đời sống mới trong Đức Ki-tô. “Anh em hãy bắt chước
Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương” (Ep 5, 1).
Thư thứ nhất của thánh Phê-rô là một huấn dụ cho những người mới chịu phép rửa, ví
người tín hữu “như trẻ sơ sinh, hãy khát sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ
lớn lên để hưởng ơn cứu độ” (1Pr 2, 2). Đoạn cuối phần khuyên nhủ có câu: “Mọi âu lo
hãy trút cả cho Người, vì Người săn sóc anh em... Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng,
cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Ki-tô.”
(1Pr 5,7).
Con đường thơ ấu thiêng liêng nghe thì “thơ” lắm, nhưng không phải là ẻo lả “làm thơ”.
Đó là hiệu quả của ơn Chúa Thánh Thần như ngôn sứ I-sai-a kể: “Thần khí khôn ngoan và
minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Thiên Chúa”
(Is 11, 3). Sách Giáo Lý kể bảy ơn: khôn ngoan, thông minh, lo liệu, sức mạnh, hiểu biết,
đạo đức và kính sợ Thiên Chúa.
Vậy thì chỉ có một cách là khiêm tốn xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, xin Thánh Thần tác
động trong chúng ta và dẫn dắt chúng ta, như Người đã dẫn dắt Chúa Giê-su, Con Thiên
Chúa làm người. Thánh Thần làm cho chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha: “Ap-ba, Ba
16
ơi!” (Rm 8, 15; Gl 4, 6). Và thánh Phao-lô dạy: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí thì cũng
hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.” (Gl 5, 25).
Giê-ru-sa-lem ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, 2018
L.M. Giu-se Nguyễn công Đoan, S.J.