CHÍNH NGÀI ĐÃ DẪN CON ĐI
Lm. Lê văn Quảng (Dịp lễ ngân khánh linh mục)
Một cô bé bảy tuổi nghe cha mẹ mình nói chuyện về đứa em trai nhỏ. Cô
bé chỉ hiểu rằng em mình đang bị bệnh rất nặng và gia đình cô không còn
tiền.
Cô bé nghe bố nói với mẹ bằng giọng thì thầm tuyệt vọng: “Chỉ có phép màu
mới cứu sống được Andrew”. Thế là cô bé vào phòng mình, kéo ra một con
heo đất được giấu kỹ trong tủ. Em dốc hết đống tiền lẻ và đếm cẩn thận.
Rồi cô bé lẻn ra ngoài bằng cửa sau, đến tiệm thuốc gần đó. Em đặt toàn bộ số tiền mình có lên quầy.
Người bán thuốc hỏi: “Cháu cần gì?”
Cô bé trả lời: “Em trai của cháu bệnh rất nặng và cháu muốn mua phép màu.”
- Cháu bảo sao? – Người bán thuốc hỏi lại.
-. Em trai cháu bị một căn bệnh gì đó trong đầu mà ba cháu nói chỉ có phép màu mới cứu được nó. Phép màu giá bao nhiêu ạ?
- Ở đây không bán phép màu, cháu à. – Người bán thuốc nở nụ cười tỏ vẻ cảm thông với cô bé.
- Cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ, cháu sẽ cố tìm thêm. Chỉ cần cho cháu biết giá bao nhiêu?
Trong cửa hàng còn có một vị khách ăn mặc thanh lịch. Sau khi nghe câu
chuyện, ông cúi xuống hỏi cô bé: “Em cháu cần loại phép màu gì?”
-
Cháu cũng không biết nữa – Cô bé trả lời, rơm rớm nước mắt. “Nhưng em
cháu rất cần phép màu đó. Nó bị bệnh nặng lắm, mẹ cháu nói rằng nó cần
được giải phẫu, và hình như phải có thêm loại phép màu gì đó nữa mới
cứu được em cháu. Cháu đã lấy ra toàn bộ số tiền để dành của mình để đi
tìm mua phép màu đó.”
- Cháu có bao nhiêu? – Vị khách hỏi. Cô bé trả lời vừa đủ nghe: “Một đô la mười một xu.”
Người đàn ông mỉm cười: “Ồ! Vừa đủ cho cái giá của phép màu”.
Một
tay ông cầm tiền của cô bé, tay kia ông nắm tay em và nói: “Dẫn bác về
nhà cháu nhé. Bác muốn gặp em trai và cha mẹ cháu để xem bác có loại
phép màu mà em cháu cần không.”
Người
đàn ông thanh lịch đó là Bác sĩ Carlton Armstrong, một phẫu thuật gia
thần kinh tài năng. Ca mổ được hoàn thành mà không mất tiền, và không
lâu sau, đứa bé đã có thể về nhà, khỏe mạnh.
Mẹ cô bé thì thầm: “Mọi chuyện diễn ra kỳ lạ như có một phép màu. Thật
không thể tưởng tượng nổi. Thật là vô giá!”. Cô bé mỉm cười. Em biết
chính xác phép màu giá bao nhiêu. Một đô la mười một xu, cộng với niềm
tin chân thành của một đứa trẻ, và lòng tốt của người bác sĩ.
Kính
thưa quí ông bà anh chị em. Nếu mỗI ngườI ngồI ngẫm nghĩ lạI cuộc đờI
của mình, mỗI ngườI sẽ cảm thấy rõ ràng: chúng ta còn sống và được như
ngày hôm nay, thật sự phảI nói là một Phép Mầu. Và đây cũng chính là
điều tôi muốn chia sẻ vớI quí ông bà anh chị em trong thánh lễ hôm nay.
Nhiều ngườI nghĩ rằng chúng tôi những linh mục là những con ngườI tài
ba đức độ nên mớI được Thiên Chúa tuyển chọn. Tôi không nghĩ thế. Tôi
không nghĩ vì mình tài ba đức độ mà được Thiên Chúa tuyển chọn. Không,
không phảI thế. Tình yêu Thiên Chúa trên tôi và chọn tôi không phảI vì
tôi trổI vượt hơn những ngườI khác. Tình yêu Thiên Chúa trên tôi không
căn cứ vào công trình của tôi. Đó là một tình yêu hoàn toàn nhưng
không, một tình yêu hoàn toàn vô điều kiện, vì nếu tình yêu ấy căn cứ
vào tài đức của tôi, khi tài đức tôi không còn nữa thì tình yêu ấy cũng
sẽ biến mất. Nhưng khi tình yêu ấy căn cứ trên cái nhưng không, tình
yêu ấy không thể bị tiêu diệt và tôi sẽ không bao giờ mất nó vì nó
không đến do một công trình nào của tôi mà là một món quà nhưng không
của Thiên Chúa.
NgồI ngẫm nghĩ lạI, tôi thấy việc Chúa làm thật là mầu nhiệm. Lớp chúng
tôi khi mớI vào tiểu chủng viện là 65. Nhưng cuốI cùng chịu chức chỉ
còn 4. Một ở Úc, 2 đang ở Việt Nam, và tôi đang ở đây. Nhiều anh trong
lớp tôi rất là thông minh tài giỏI, lanh lẹ. Nhưng thường những chú bé
thong minh lanh lẹ thì cũng hay tinh nghịch nên đã bị nhà trường cho
về. Chính vì thế, thiểu số còn lạI không hẳn là những ngườI thông minh
lanh lẹ hơn những ngườI kia, mà có thể nói là khù khờ hơn.
Một điều rõ ràng hơn nữa là sau biến cố 30/4/75. Tất cả các chủng viện
đều đóng cửa. Để tồn tạI chúng tôi phảI sống thành những nhóm nhỏ, từ
những sinh viên trắng trẻo đẹp trai của đạI chủng viện ngày nào, bỗng
chốc trở thành những anh chàng nhà quê lem luốt, đen đủi, xấu xí, ngày
ngày chỉ biết lam lũ để sản xuất. Nhóm chúng tôi đi làm muốI, mỗI ngày
phảI ra đồng làm việc từ 7:30 sáng đến 6 giờ tối. Sau 10 năm trờI lam
lụ vất vả, tôi cảm thấy hoàn toàn kiệt sức từ tinh thần lẫn thể chất.
Chính vì thế tôi đã quyết định ra đi.
Và tôi đã khám phá ra điều nầy: khi Thiên Chúa đóng cửa trước thì Ngài mở lối sau.
Trước kia tôi không bao giờ dám nghĩ đến chuyện vượt biên vì sợ cảnh
ngục tù và chết chóc. Nhưng rồI bị đưa đẩy vào bước đường cùng, tôi
không còn chút sợ hãi nữa, sẵn sàng chấp nhận: một là chết hai là vinh
quang, không chấp nhận cảnh nô lệ, nên tôi đã ra đi. Hai lần đầu thất
bạI nhưng may mắn không bị bắt. Lần thứ ba thì thành công nhưng rồI lạI
gặp giông to bão tố. May mắn là được tàu hảI quân Mỹ vớt, nếu không
chúng tôi cũng đã trở thành những miếng mồI ngon cho cá biển. Vì thế
càng ngẫm nghĩ tôi càng cảm thấy như có một phép màu nào đó đã che chở
phù hộ để mình vẫn còn sống đến ngày hôm nay.
Xa hơn tí nữa, mọI ngườI đều nghĩ rằng đất lành chim đậu
và đất Mỹ sẽ là chỗ dừng chân lý tưởng. Nhưng rồI trong cuộc sống, có
nhiều điều lạ lùng xảy ra dường như có một bàn tay vô hình nào đó muốn
an bài, muốn dẫn dắt để đưa tôi đi vào con đường mà Ngài muốn tôi đi.
Trong lúc còn đang phân vân ngẫm nghĩ thì tôi đọc phảI một câu chuyện
rất cảm động nầy:
Năm 1962, chiếc phi cơ của hãng Panam Mỹ chở mấy trăm ngườI, trong đó
có một số giám mục Mỹ từ NewYork đến Rôma để họp công đồng chung
Vaticanô II. Trong chuyến bay có 2 cô tiếp viên hàng không, một trong
hai cô có nét đẹp tuyệt vời. Trên chuyến bay, có một cụ già đã lưu ý
đặc biệt đến sắc đẹp của cô. Cụ vừa nhìn ngắm vừa ngẫm nghĩ môt cái gì
đó khác thường. Thế rồI khi phi cơ hạ cánh, mọI ngườI chuẩn bị xuống
phi cơ thì cụ già đó vẫn cứ ngồI yên. MọI ngườI lần lượt bước ra khỏI
phi cơ, cụ là ngườI cuốI cùng rờI chỗ. Và trước khi giã từ, ngườI ta
thấy cụ đưa miệng ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia nói nhỏ một
câu gì không ai biết được. Chúng ta có biết cụ già ấy là ai không? Đó
là đức giám mục Fulton Sheen, tổng giám mục NewYork., một nhà hùng biện
nổI tiếng nước Mỹ.
Bốn
tháng sau, khi khóa một công đồng chung Vaticano kết thúc, các giám
mục được về nước nghỉ. Một hôm, nghe tiếng chuông reo, ngài ra mở cữa,
cô tiếp viên nói: Thưa đức cha, đức cha có còn nhớ con không? Tôi còn
nhớ lắm. Cô là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa chúng tôi đến Roma.
Đức cha có còn nhớ đã nói gì vớI con không? Tôi đã nói: có khi nào cô
đã cảm tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vờI ấy không?
Thưa đức cha, chính vì câu hỏI đó mà hôm nay con đến hầu chuyện đức
cha. Đức cha thử nghĩ con phải làm gì để tạ ơn Chúa? Ngài ngẫm nghĩ
trong chốc lát, sau đó đưa cô đến bản đồ thế giớI, vừa chỉ vừa nói: đây
là Việt Nam, đây là Sài Gòn, và đây là DiLinh. Cha vừa mớI được một tin
từ Việt nam: đó là đức cha Jean Casssaigne, một ngườI Pháp đang làm
tổng giám mục Sàigòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trạI phong cùi ở
miền núi DiLinh. Vậy con có muốn hy sinh một thờI gian, đem tiếng nói
dịu dàng, nụ cườI hồn nhiên, duyên sắc mặn mà của con để an ủI họ
không? Nghe đến đó, mặt cô tiếp viên tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong
mấy phút. Đột nhiên cô cúi đầu tạm biệt không nói một lời.
Câu
chuyện tưởng chừng như kết thúc, rồI bỗng nhiên một ngày kia tiếng
chuông điện vang, ngài ra mở cữa, vớI nụ cườI tươi, cô tiếp viên thưa
vớI ngài: Thưa đức cha, bây giờ thì con đã sẵn sàng để đi VN. Xin đức
cha giúp con để liên lạc. Và ngài rất hài lòng giúp đỡ. Rồi năm 1963,
đài phát thanh cũng như báo chí ở Sài Gòn loan tin: Một nữ tiếp viên
rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện đến DiLinh, Lâm Đồng
để sống vớI những ngườI phong cùi trong 6 tháng. Nhưng rồI sau 6
tháng, cô đã tình nguyện ở lại phục vụ những bệnh nhân nầy suốt đờI của
cô. Cô xin gia nhập dòng nữ Phan xicô. Sau những năm vào nhà tập, cô đã
trở thành bà sơ Phanxico vớI danh xưng sr. Louise Bannet. Ngày sơ nầy
khấn lần đầu, rất nhiều ngườI đã đến tham dự lễ khấn để chúc mừng,
chia vui, và khích lệ sơ. Sau đó sơ đã phục vụ rất tận tình trong niềm
vui của một cuộc đờI tận hiến. Nhưng rồI biến cố tháng tư năm 1975 xảy
ra, sơ bị trục xuất. Sơ rất đau buồn rờI khỏI VN và những bệnh nhân ở
đó. Sơ trở về Mỹ một thờI gian và sau đó đi Phi Châu phục vụ trạI cùi
ở Tahiti cho đến khi chết. Năm 1982 sơ chết vì bệnh ung thư giữa sự
thương tiếc của mọI bệnh nhân. Sơ Louise Bannet đã hy sinh tất cả cuộc
đờI để mang lạI niềm vui và sự an ủI lớn lao cho những con ngườI bệnh
tật đầy đau khổ.
Quả
thật, đây là một trong những tấm gương sáng chói của các nhà truyền
giáo đã thu hút đờI tôi và đã làm tôi suy nghĩ: Họ là ai? Sao họ anh
hùng thế? Không, họ không là những anh hùng. Họ cũng không là những nhà
xuất chúng. Không là những nhà thông thái. Họ chỉ là những con ngườI
âm thầm vô danh đã dám hy sinh cả một cuộc đờI cho công việc truyền
giáo. Họ sẵn sàng chấp nhận mọI rủI ro, tai họa. Họ sẵn sàng chấp nhận
mọI gian lao thử thách. Họ sẵn sàng chấp nhận mọI thương đau bệnh tật.
Dẫu âm thầm vô danh nhưng họ là những chiến sĩ rất hào hùng, hào hùng
trong hy sinh, hào hùng trong chiến đấu, hào hùng trong cuộc sống. PhảI
nói: Họ khác vớI những con ngườI tầm thường như chúng ta. Họ có cái gì cao thượng. Họ có cái gì cao quí. Họ có cái gì cao đẹp
khiến mình phảI ngưỡng phục, phảI học hỏI cho dẫu biết rằng suốt đờI
mình không thể nào làm được những điều như họ, nhưng mình vẫn muốn bắt
chước, muốn đi theo con đường họ đang đi. Chính vì thế tôi đã nốI gót
theo họ.
Và
sau 25 năm trên bước đường truyền giáo tôi cảm thấy rõ điều nầy: đờI
truyền giáo quả thật có đầy những gian lao vất vả nhưng cũng có nhiều
yên ủI lớn lao, có những mồ hôi rướm máu, nhưng cũng có những hoa trái
khích lệ. Và càng ngẫm nghĩ tôi càng cảm thấy thâm tín điều nầy: Không phảI con đã chọn Cha, nhưng chính Cha đã chọn con và đã dẫn con đi qua những con đường mà Ngài muốn con phải đi.
Thật vậy, 30 năm trước không bao giờ tôi dám nghĩ đến chuyện vượt biên.
30 năm trước không bao giờ tôi dám nghĩ đến chuyện xuất ngoại. 30 năm
trước không bao giờ tôi dám nghĩ đến chuyện đi du học, và càng không
bao giờ nghĩ đến chuyện đi truyền giáo ở một đất nuớc xa xôi nào đó.
Nhưng rồI chương trình của Thiên Chúa thì khác hẳn vớI chương trình của
con ngườI. Chính Ngài đã an bài mọI sự và đã hướng dẫn tôi đi vào con đường mà Ngài muốn tôi phảI đi.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lờI cầu nguyện cách riêng cho
những nhà truyền giáo, xin Chúa luôn nâng đỡ họ và đồng hành vớI họ
trên mọI bước đường họ đang đi. Đặc biệt hôm nay trong thánh lễ nầy,
xin anh chị em hãy cùng tôi dâng lên Thiên Chúa những lờI cảm tạ chân
thành vì muôn hồng ân Ngài đã ban xuống cho tôi trong suốt 25 năm qua
trên bước đường truyền giáo. Và cũng xin tiếp tục cầu nguyện và nâng đỡ
tôi trên quãng đường đờI còn lạI để tôi luôn giữ được sự bình an và
lòng hăng say phục vụ cho cánh đồng truyền giáo mà Chúa muốn tôi ra đi
để phục vụ cho nước Ngài.
Cali. ngày 6/7/2014.