Nguồn
Nhờ máy đo áp huyết và máy đo đường phát hiện sớm được bệnh ung thư và cách chữa
Xưa nay ai cũng biết máy đo áp huyết chỉ dùng cho những bệnh nhân bị cao áp huyết để kiểm soát áp huyết khi uống thuốc. Theo tây y, những người áp huyết tốt không có bệnh, áp huyết đều nằm trong tiêu chuẩn từ 100mmHg đến 140mmHg, ngoài ra nếu có những bệnh khác mà áp huyết vẫn nằm trong tiêu chuẩn 100-140mmHg thì không liên quan gì đến bệnh áp huyết, nhưng thật ra nó vẫn xẩy ra những bệnh nan y mà tây y không tìm ra nguyên nhân.
Theo kinh nghiệm của môn Khí Công Trị Liệu, thì áp huyết phải phù hợp với độ tuổi, không cao, không thấp, lý thuyết đông y gọi những bệnh do nguyên nhân dư thừa là bệnh thực, do nguyên nhân thiếu kém gọi là bệnh hư.
Đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi theo kinh nghiệm của khí công y đạo :
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Thí dụ áp huyết cao ở trẻ em :
Tuổi thiếu nhi mà có áp huyết cao bằng tuổi thanh niên hay trung niên là một loại bệnh thực do dư thừa áp huyết thay vì đứt mạch máu não do cao áp huyết tăng đến trên 20mmHg, nhưng trẻ em thường bị vỡ niêm mạc mũi gọi là bệnh chảy máu cam, tây y không biết nguyên nhân này nên không chữa vào gốc bệnh làm hạ áp huyết, mà đốt niệm mạc mũi hay bôi vaseline, áp lực khí đẩy máu không vỡ ở mũi sẽ vỡ đứt mạch ở chỗ khác như thần kinh mặt, mắt, làm liệt mặt...
Thí dụ áp huyết thấp ở người lớn :
Tuổi người lớn mà có áp huyết thấp như trẻ em là một loại bệnh hư không tìm ra nguyên nhân nhưng khiến bệnh nhân mất ngủ, đau nhức quanh năm, tiêu hóa kém, trầm cảm, tâm thần ...nên đối với tây y là một bệnh nan y.
Theo tây y giải thích 3 con số của máy đo áp huyết :
Tuổi thiếu nhi mà có áp huyết cao bằng tuổi thanh niên hay trung niên là một loại bệnh thực do dư thừa áp huyết thay vì đứt mạch máu não do cao áp huyết tăng đến trên 20mmHg, nhưng trẻ em thường bị vỡ niêm mạc mũi gọi là bệnh chảy máu cam, tây y không biết nguyên nhân này nên không chữa vào gốc bệnh làm hạ áp huyết, mà đốt niệm mạc mũi hay bôi vaseline, áp lực khí đẩy máu không vỡ ở mũi sẽ vỡ đứt mạch ở chỗ khác như thần kinh mặt, mắt, làm liệt mặt...
Thí dụ áp huyết thấp ở người lớn :
Tuổi người lớn mà có áp huyết thấp như trẻ em là một loại bệnh hư không tìm ra nguyên nhân nhưng khiến bệnh nhân mất ngủ, đau nhức quanh năm, tiêu hóa kém, trầm cảm, tâm thần ...nên đối với tây y là một bệnh nan y.
Theo tây y giải thích 3 con số của máy đo áp huyết :
Số thứ nhất là tâm thu là tim co bóp đẩy máu ra đại động mạch tim dẫn máu đi nuôi khắp cơ thể.
Số thứ hai là tâm trương là tim mở ra thu máu về tim qua ống đại tĩnh mạch.
Số thứ ba là nhịp tim do số lần tim co bóp bơm máu trong 1 phút.
A- Khí Công Trị Liệu :
a-Người lớn có áp huyết thấp như trẻ em có nguy cơ ung thư do thiếu máu
Theo môn Khí Công Trị Liệu giải thích theo lý thuyết đông y khác với tây y, nhưng rất quan trọng đối với đông y, nhờ máy này, đông y khám bệnh trước kia bắt mạch bằng 3 ngón tay đặt trên cổ tay của bệnh nhân theo kinh nghiệm chủ quan của mỗi thầy thuốc không được chính xác bằng máy đo áp huyết hiện ra con số rõ ràng, tuy nhiên sự giải thích 3 con số của máy khám bệnh này trên nguyên tắc giống nhau :
Thí dụ cụ thể lấy áp huyết tiêu chuẩn của tuổi lão niên :
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Con số thứ nhất : 130-140 là con số chỉ khí lực của cơ thể, sai số 10mmHg là lực hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu tốt. Gọi chung là KHÍ.
Con số thứ hai : Chỉ van tim như một cánh cửa đóng mở điều chỉnh lượng máu qua tim. Gọi chung là HUYẾT. Tùy theo lượng máu ít thì cửa van tim mở nhỏ 80, lượng máu nhiều thì mở lớn 90.
Con số thứ ba là nhịp tim, đông y bắt mạch ở cổ tay thì gọi là nhịp mạch 70-80, có nghĩa tối thiểu 70, tối đa 80 thì cơ thể ấm không nóng không lạnh. Nếu dưới 70 đông y gọi là cơ thể hàn, cao hơn 80 gọi là cơ thể nhiệt. Khi nhịp tim cao đến 120 cơ thể bị sốt, trường hợp này giống tây y, nhưng theo đông y, bắt mạch để biết hàn hay nhiệt trong máu nguyên nhân do nồng độ máu cao hay thấp lại lệ thuộc vào lượng đường trong máu, nên theo môn Khí Công Trị Liệu gọi là ĐƯỜNG.
Như vậy 3 số đo áp huyết của tây y là :
Tâm thu/tâm trương/nhịp tim
được đổi sang 3 yếu tố gây bệnh : Khí lực/lượnghuyết/đường
Số thứ 1 :Như bệnh khí lực dư thừa, bệnh khí lực thiếu hụt.
Số thứ 2 :Bệnh dư máu, bệnh thiếu lượng máu
Số thứ 3 :Bệnh dư đường, bệnh thiếu đường trong máu
Người lớn có áp huyết như trẻ em 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60, theo công thức yếu tố gây bệnh Khí lực/lượng máu/Đường khi so sánh với áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi, chúng ta kết luận nguyên nhân bệnh là Khí thiếu, huyết thiếu, đường thiếu làm cho các tế bào không được nuôi dưỡng đầy đủ làm giảm dần chức năng hoạt động của chúng để duy trì sự sống cho con người.
Thiếu Khí và Huyết thì tây y không có chuyên khoa về cách làm tăng khí oxy để duy trì công thức máu Fe2O3, mặc dù có tăng thuốc bổ máu là chất sắt Fe2, chỉ làm cho cơ thể thừa chất sắt mà vẫn thiếu máu, còn ăn uống những thức ăn bổ máu có làm tăng lượng máu chậm vì không có khí lực chuyển hóa thức ăn thành máu toàn phần để làm tăng khí lực, mà đa số chuyển hóa thành mỡ dự trữ, vì vậy có những người béo phì mà khí lực yếu.
Về khí lực :
Thiếu máu trong Khí Công Trị Bệnh là thiếu lượng máu trong cơ thể, thí dụ người lớn tuổi trung bình nặng 60kg, đơn giản hóa là 60 kí lô tế bào thì cần phải đủ khí lực từ 130-140, đủ máu qua tim từ 80-90, đủ nồng độ đường trong máu 70-80.
Nhưng người lớn 60 kg lô tế bào có áp huyết thấp như trẻ em 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi) thì cả 3 yếu tố Khí lực/Máu/Đường chỉ đủ nuôi 1 cơ thể nặng 30 kí lô tế bào, còn 30 kí lô tế bào không có máu nuôi dưỡng sẽ suy yếu dần không còn khả năng hoạt động theo chức năng của mình, chúng sẽ trở thành tế bào ung thư tiềm ẩn rải rác trong cơ thể, là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh nan y tây y không tìm ra bệnh và uống thuốc không có hiệu qủa như mất ngủ, trầm cảm, đau nhức thần kinh gân cơ, Parkinson chân tay co giật mềm, ăn không tiêu, mắt mờ, migrain, mất trí nhớ, rụng tóc, hay buồn ngủ, hôn mê, ác mộng, bệnh trầm cảm, tâm thần, điên nói lảm nhảm....
Về huyết :
Thiếu máu theo tây y là tỷ lệ bạch cầu hồng cầu được tìm thấy là hồng cầu giảm, mà không để ý đến lượng máu. Dù tỷ lệ bạch cầu hồng cầu đúng, thì dù 1 lít hay 4 lít cũng giống nhau, nhưng lượng máu 1 lít với 4 lít tuần hoàn nuôi tế bào đủ hay thiếu hoàn toàn khác nhau, vì 1 lít máu thì có thể tuần hoàn trong cơ thể trẻ em nặng 20 ki lô tế bào, 4 lít máu tuần hoàn mới nuôi đủ 1 cơ thể người lớn nặng 60 kí lô tế bào. Nên có điều nghịch lý khi thiếu máu xin bác sĩ cho mua B12 để chích thì bị từ chối khi xét nghiệm máu, kết luận không thiếu máu, đó cũng là 1 nguyên nhân làm tế bào suy yếu dần trong nhiều năm, gây biến chứng đau nhức rồi dẫn đến tế bào trở thành ung thư rải rác, và áp huyết thấp dần dưới 100mmHg, cho đến khi áp huyết xuống 80mmHg lúc đó các tế bào ung thư kết thành khôi thì tây y mới thấy thực thể 1 khối u, mới xét nghiệm là khối u lành hay ác tính.
Về đường :
Thiếu đường để nuôi cơ bắp, theo đông y, chất ngọt vào tỳ vị chuyển hóa thức ăn thành chất nuôi bắp thịt, thiếu đường làm teo mất dần bắp thịt, những bắp thịt của các lực sĩ cần rất nhiều lượng đường hơn người bình thường, nên những người cùng tuổi, cùng thể trọng, ăn cùng lượng đường giống nhau, nhưng một người làm việc nặng đổ mồ hôi làm lượng đường trong máu giảm nhanh khiến cơ thể thiếu đường làm mệt mỏi cơ bắp, còn người kia ăn xong chỉ nằm một chỗ không vận động thì lại bị bệnh dư đường trong máu.
Như vậy lượng đường ăn trong ngày còn tùy theo sự vận động của cơ bắp. Khi chúng ta dư đường trong máu do không vận động thì tây y kết luận chúng ta bị bệnh tiểu đường phải dùng thuốc trị bệnh tiểu đường, nên đuờng cơ thể càng thiếu dần cho đến khi cơ bắp tay và chân teo dần, khi chúng ta nhận thấy cơ bắp mất đi thì chúng ta đã bị bệnh suy cơ tim từ lâu rồi, vì cơ co bóp tim, và thịt của qủa tim mạnh nhờ vào đường nó mới làm việc mạnh để bơm máu tuần hoàn, khi cơ co bóp tim giảm thì tuần hoàn máu chậm, làm nhịp tim càng chậm, máu không đi nuôi được gân cơ thần kinh làm đau nhức, không lên nuôi thần kinh thị giác làm mắt mù, không nuôi thần kinh trung ương và thần kinh não làm mất trí nhớ, không nuôi thần kinh giao cảm và hưng phấn làm liệt thần kinh vận động và sinh hoạt tình dục...Tất cả những hậu qủa này do suy tim, suy tim do nguyên nhân thiếu đường do không ăn đường lại còn uống thuốc trị tiểu đường làm hạ đường thêm, ngược lại với người ăn đường nhiều mà vẫn không bị bệnh tiểu đường vì cơ bắp phải làm việc nhiều, số đường được tiêu thụ hết, nên tây y khuyên cần phải tập thể dục nhưng không ai tập nổi vì cơ thể không có đủ đường phân phối cho những vận động này.
Theo kinh nghiệm của Khí Công Trị Liệu, bệnh mù mắt không phảo do tăng đường là mù mắt, mà giảm đường quá thấp, đo đường trên mắt còn 3.5mmol/l trong khi đường đo ở ngón tay 4.5-5.0mmol/l do uống thuốc tiểu đường giữ cho đường trong máu thấp nên nhịp tim tuần hoàn máu không đủ đem máu lên nuôi mắt.
Xin xem thêm bài 5 công dụng của máy đo áp huyết :
Công dụng của máy đo áp huyết và máy đo đường khám phá ra được những nguyên nhân của những bệnh nan y và ung thư :
Video Bài giảng Công Dụng của Máy Đo Áp Huyết
http://www.youtube.com/watch?v=92TXdDU1CvY
5 công dụng của máy đo áp huyết :
1-Đo khám chức năng hoạt động của bao tử :
Khi đo bên tay trái như tây y thường đo tìm bệnh cao áp huyết, nhưng theo Khí Công Trị Liệu, áp huyết thay đổi khi bụng đói sẽ thấp. Khi ăn qúa no thì áp huyết tăng cao.
Ngược lại khi bụng đói đo áp huyết cao, sau khi ăn no, đo áp huyết lại thấp, là chức năng bao tử không làm việc, thức ăn bị giữ trong bao tử mà không hấp thụ chuyển hóa, nên thức ăn lên men ợ chua, tăng acid làm loét bao tử, một thời gian lâu thì bao tử chai khi đo áp huyết trước và sau khi ăn giống nhau, có nghĩa thể tích trong bao tử không chuyển động, thí dụ trước khi ăn 150/90/95, sau khi ăn 150/92/100, có nghĩa là Khí lực không thông/lượng máu tăng/nồng độ máu tăng trong bao tử.
Cũng nhờ công thức áp huyết này, chúng ta lý luận bệnh nhân tuổi lão niên, trước khi ăn và sau khi ăn có số đo áp huyết thí dụ như :
Trước 105/60/55 và sau 105/65/60 là Khí lực không thay đổi là bao tử teo/ tăng lượng máu trong bao tử/ tăng nồng độ máu làm ợ hơi nghẹn tim ngực.
2-Đo khám chức năng hoạt dộng của gan:
Bên tay phải, tây y không đo bên tay phải, vì tuởng tay nào cũng giống nhau, chỉ đo tay phải khi tay trái không thể đo được.
Cũng như trước và sau khi ăn phải thay đổi áp huyết để xem chức năng hoạt động của gan. Trước khi ăn, bụng đói thì áp huyết bên gan phải cao vì phải làm việc trước để kích thích dịch chất cho bao tử khiến cho mình cảm thấy đói đòi ăn, sau khi ăn thì áp huyết bao tử phải cao, áp huyết bên gan phải thấp là chức năng chuyển hóa đúng.
3-Khám chức năng hấp và chuyển hóa thức ăn bao nhiêu phần trăm :
Nếu sự chênh lệch áp huyết 10mmHg ở 2 tay thì sự hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành máu nhanh, giống như 1 thác nuớc mỗi phút nước đổ xuống thác 1000lít, dưới thác là một hệ thống gầu hứng nước quay theo trục vòng tròn để tạo ra lực quay biến thành công suất, nếu độ cao của thác càng cao thì lực quay càng mạnh tạo ra công suất sử dụng lớn, sẽ có sự chuyển hóa mạnh như :
Trước khi ăn tay trái 130/80/70 tay phải 140/90/80
Sau khi ăn tay trái 140/90/80 tay phải 130/80/70
Nhưng giống như độ cao của thác thấp chênh lệnh 1-2 mét thì sự chuyển hóa rất chậm, thì áp huyết giữa gan và bao tử cũng vậy :
Trước khi ăn tay trái 130/80/70, tay phải 132/78/73
Sau khi ăn tay trái 132/78/73, tay phải 130/80/70
4-Khám xem thức ăn thuốc uống có lợi hay hại với cơ thể :
Trên Internet hay ngành dinh dưỡng hướng dẫn những thức ăn bổ, thức ăn giảm dường, mỡ, hạ áp huyết, chống hay ngừa ung thư...đó là do phân tích của ngành dinh dưỡng, và những kinh nghiệm dân gian về những loại cây cỏ dược thảo chữa ngừa bệnh ung thư, có người khỏi, có người cũng bắt chước thì bệnh nặng thêm nên nghi ngờ sự chính xác đúng sai, đông tây y phản bác nhau nhưng chưa ai biết rõ như người trong cuộc, có người nhờ những thuốc mách bảo thì sống muốn đem phổ biến làm phước, còn những người có thân nhân bạn bè chết vì nó thì chống đối, cho nên môn Khí Công Trị Liệu đề nghị các bệnh nhân nên tin vào máy móc tây y để kiểm chứng có số liệu rõ ràng không thể tranh cãi, và tùy theo sự hấp thụ chuyển hóa ở mỗi người khác nhau, mạnh hay yếu. Sự hấp thụ và chuyển hóa ấy cũng không ngoài công thức đo áp huyết để biết về tình trạng :
Khí lực/Huyết/Đường
Có nhiều người hỏi tôi : Thầy ơi, có người nói uống hỗn hợp mước ép :Củ Dền, Cà rốt, Táo có tốt không, uống nuớc ép ngũ qủa có tốt không, uống hạt CHIA tốt không, ăn bánh bao lên đường không. Uống Lá Đu Đủ, Nha Đam, Lá Xả, Fucodin khỏi bệnh ung thư không....Tôi trả lời : Phải hỏi máy đo áp huyết.
Thí dụ trước khi thử món ăn thức uống hay bất kỳ loại thuốc nào, đều do áp huyết hai tay, ghi chú vào giấy để biết cái nào cần cho bệnh của mình theo tiêu chuẩn khí lực /huyết /đường xem có lọt vào tiêu chuẩn tuổi hay không.
Với công thức áp huyết là : Khí lực/lượng huyết/Đường thí có loại làm tăng cả 3 số, như Phở, Bún Bò Huế, vừa tăng khí lực, tăng lượng máu, tăng đường. Có loại làm tăng khí, giảm khí, có loại tăng máu tăng khí, có loại giảm đường, tăng đuờng, nhưng để ý có loại chỉ tăng áp huyết bên gan, có loại chỉ tăng bên bao tử lại hại gan giảm, có loại tăng bên gan lại hại bên bao tử giảm... do nguyên nhân chất thuốc vị thuốc giống nhau nhưng sự hấp thụ và chuyển hoá ở gan, bao tử mỗi người khác nhau.
5-Khám xem tập khí công, thiền, môn phái nào bài nào hay cách chữa bệnh nào khỏi bệnh ung thư :
Tập khí công bài này bài kia của thầy này thầy kia có khỏi bệnh ung thư không, tôi trả lời : Cũng phải hỏi máy đo áp huyết, uống nước nhiều, nuớc ít cái nào lợi, cũng hỏi máy đo áp huyết.
Cách chữa ung thư theo thuốc bắc, theo tây y hóa trị liệu, xạ trị liệu cách nào hay, sống lâu, không di căn, cũng phải hỏi máy đo áp huyết...
Tất cả các môn khí công không thể nói bài nào hay bài nào dở, mà phải xem nó có phù hợp làm tăng áp huyết hay giảm áp huyết, làm thay đổi lượng máu lượng đường tốt hay xấu, cho nên muốn thử để biết thì cần đo
a-áp huyết trước khi tập và sau khi tập, trước khi ăn và sau khi ăn.
Xem thêm link thống kê kết qủa các bài tập Khí Công Tri Liệu chữa áp huyết và đường :
http://qigongrememo.forumatic.com/viewf ... c739e2fe33
b-Nồng độ máu :
Nhịp tim cao hay thấp tùy thuộc vào nồng độ máu.
Có nhiều phương pháp làm tăng nồng độ máu. Đông y xét qua 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần.
Tinh : là do những thức ăn hay thuốc uống : Như ăn những thức ăn cay nóng, những thức ăn nướng, thuốc calcium, ăn nhiều thịt đỏ, uống nước Coke....làm tăng áp huyết và nhịp tim tăng cao.
Tuy nhiên lạm dụng những thức ăn thuốc uống như trên, trong máu lại có nhiều cholesterol, máu đặc lại, tây y lại cho dùng thuốc trị cholesterol, và thuốc Aspirin làm loãng máu, Vit.C. hay các thức ăn chua, như chanh cam bưởi....làm loãng máu, hạ áp huyết làm hạ nồng độ máu.
Khí : khi cơ thể làm việc nặng, vận động ra mồ hôi như thể dục thể thao cũng làm tăng nhịp tim, thân nhiệt cũng làm tăng nồng đô máu.
Thần : Khi tinh thần căng thẳng, hồi hộp làm nhịp tim đập nhanh cũng làm tăng nồng độ máu.
Tuy nhiên những điều kiện làm tăng nồng độ máu kể trên không ổn định, không quan trọng bằng lượng đường trong máu. Theo đông y về ngũ hành tạng phủ đối với những thực phẩm ăn uống hay thuốc uống được phân loại theo Tính-Khí-Vị, mà thức ăn theo đông y có 5 vị khác nhau là : đắng, ngọt, cay, mặn, chua, và mỗi vị là chất dẫn thuốc hay chất bổ vào mỗi cơ quan khác nhau để bổ hay tả chức năng của cơ quan đó, bổ là làm cho cơ quan đó mạnh lên, còn tả làm cho cơ quan đó yếu đi, thí dụ như :
Vị đắng vào tim để làm mạnh tim là cà phê, thức ăn nướng...do đó tây y công nhận mỗi ngày uống 1 ly cà phê để làm mạnh chức năng của tim, nó làm tăng nhịp tim và nồng độ máu, nhưng chỉ có lợi cho người bị suy tim. Ngược lại những người bị bệnh cao áp huyết, nồng độ máu cao nhịp tim nhanh thì chất đắng cà phê gây thêm bệnh, còn làm giảm nhịp tim và nồng độ máu trong trường hợp này là Mướp đắng, tim sen, trà xanh...
Vị ngọt vào tỳ (lá lách) để làm mạnh chức năng lá lách là đường thiên nhiên gọi chung là glucose, lactose, fructose, mật ong...
Làm giảm chức năng lá lách là những loại đường hóa học, theo tây y, dùng đường hóa học có nguy cơ biến chứng thành tiểu đường loại 2.
Muốn biết loại đường nào làm tăng hay giảm chức năng của lá lách trên thực tế dùng máy thử đường trong máu và máy đo áp huyết. Phối hợp 2 kết qủa trước và sau khi áp dụng loại đường mình chọn, thấy sự khác biệt có lợi hay hại cho sức khỏe.
Vị cay vào phổi để làm mạnh chức năng phổi thông tà khí hàn lạnh trong phổi thoát ra lỗ chân lông bằng đường mổ hôi. Khi phổi bị nóng nhiệt ăn thêm chất cay lại hại phổi.
Vị mặn vào thận để giữ nước điều hòa thân nhiệt, dư mặn thì ứ nuớc sinh phù nề, thiếu nuớc thì không điều hòa chức năng tim và nồng độ đường trong máu, uống ít nước thì đường trong máu tăng, sau này tây y mới tìm ra type tiểu đường loại 3.
Vị chua vào gan để làm điều hòa chức năng gan tiết mật, điều chỉnh co giãn gân cơ, thần kinh, ống mạch dẫn máu. Dư chất chua thì chùng giãn gân và làm mất lượng máu, hồng cầu, còn thiếu chất chua thì thẩn kinh gân cơ co rút sinh đau nhức do dẫn máu tuần hoàn không đều.
Trong máu có vị mặn và ngọt, vị mặn để giữ nước cho tế bào, vị ngọt trong máu nuôi các bắp thịt, phối hợp với chất chua trong gan điều hòa lực dẫn máu và bơm máu đi đều khắp nơi khắp chỗ với tốc độ đều trên các đường kinh ra đến đầu ngón tay chân, khoa học đã chế ra loại máy đo được chỉ số bơm máu (perfusion Index) ở đầu và cuối 12 đường kinh tay chân, đó là máy khám tìm bệnh Masimo IspO2, do đó trong máu thiếu nồng độ đường thì chỉ số bơm máu bị giảm, là nguyên nhân tuần hoàn máu không thông sinh ra nhiều bệnh đau nhức mà tây y không tìm ra nguyên nhân chữa tận gốc được.
Sự khám phá ra công dụng của máy đo áp huyết và máy đo đường để tìm ra nguyên nhân bệnh theo công thức của đông y là Khí lực/ huyết/đường phù họp với 3 con số của máy đo áp huyết là số tâm thu/tâm trương/nhịp mạch,chúng ta đã thấy có 26 trường hợp số do áp huyết khác nhau là 26 trường hợp bệnh chứng khác nhau như những thí dụ dẫn chứng đơn giản dưới đây :
Thí dụ áp huyết tiêu chuẩn ở tuổi lão niên, khỏe mạnh không bệnh :
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Áp huyết trong tình trạng bệnh của người ở tuổi lão niên, có 26 trường hợp bệnh nặng nhẹ khác nhau so với tiêu chuẩn người khỏe không bệnh như tính theo công thức Khí lực/lượng huyết/Đường
-Trường hợp 1 : Khí lực thiếu/huyết đủ/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/80 mạch 75
-Trường hợp 2 : Khí lực dư/huyết đủ/đường đủ : Thí dụ 170mmHg/80 mạch 75
-Trường hợp 3 : Khí lực đủ/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 133mmHg/60 mạch 70
-Trường hợp 4 : Khí lực đủ/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 72
-Trường hợp 5 : Khí lực đủ/huyết đủ/ đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/85 mạch 60
Trường hợp này đối với người không vận động, mạch 60 là tay lạnh, nhưng các lực sĩ đều có nhịp tim thấp 60 nhưng bàn tay vẫn ấm nóng, họ ăn rất nhiều đường nhưng vận động tiêu thụ hết đường, nên mạch báo thiếu đường là bình thường không phải là bệnh.
-Trường hợp 6 : Khí lực đủ/huyết đủ/ đường dư : Thí dụ 140mmHg/88 mạch 90 cơ thể nóng
-Trường hợp 7 : Khí lực thiếu/ huyết đủ/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/75 mạch 60
-Trường hợp 8 : Khí lực thiếu/huyết đủ/đường dư : Thí dụ 105mmHg/75 mạch 95 bàn tay nóng ấm, ngược lại trong người nóng bàn tay lạnh là áp huyết mạch nhiệt giả hàn.
-Trường hợp 9 : Khí lực dư/huyết đủ/ đường thiếu : Thí dụ 155mmHg/80 mạch 65
-Trường hợp 10 : Khí lực dư/huyết đủ/ đưởng dư : Thí dụ 150mmHg/80 mạch 95
-Trường hợp 11 : Khí lực đủ/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/65 mạch 60
-Trường hợp 12 : Khí lực đủ//huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 135mmHg/65 mạch 90
-Trường hợp 13 : Khí lực đủ/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 65
-Trường hợp 14 : Khí lực đủ/huyết dư/đường dư : Thí dụ 135mmHg/100 mạch 100
-Trường hợp 15 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 75
-Trường hợp 16 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường đủ : Thí dụ 155mmHg/65 mạch 80 hẹp van tim do lượng máu qua tim thiếu do cholesterol làm hẹp van tim..
-Trường hợp 17 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 80
-Trường hợp 18 : Khí lực dư/huyết dư/đường đủ : Thí dụ 160mmHg/ 100 mạch 80
-Trường hợp 19 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 55
-Trường hợp 20 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường thiếu : Thí dụ 150mmHg/65 mạch 65
-Trường hợp 21 : Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 105mmHg/65 mạch 90
-Trường hợp 22 : Khí lực dư/huyết thiếu/đường dư : Thí dụ 160mmHg/65 mạch 90
-Trường hợp 23 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 65
-Trường hợp 24 : Khí lực thiếu/huyết dư/đường dư : Thí dụ 105mmHg/95 mạch 95
-Trường hợp 25 : Khí lực dư/huyết dư/đường thiếu : Thí dụ 160mmHg/100 mạch 65, dư máu lượng máu qua tim làm hở van tim, người hay bị mệt tim khi vận động, vì vận động làm đường thấp thêm.
-Trường hợp 26 : Khí lực dư/huyết dư/đường dư : Thí dụ 160mmHg/ 100 mạch 100
c-Tiêu chuẩn đường trong máu theo Hiệp Hội Tiểu Đường Canada :
Xin xem link này : https://bestdays.onetouch.ca/monitoring ... ur-numbers
Đường khi bụng đói từ 4.0-7.0mmol/l trước khi ăn.
Sau khi ăn được 2 tiếng, đường từ 5.0-10mmol/l
Riêng môn Khí Công Trị Liệu, đo ngay sau khi ăn từ 6.0-12mmol/l sau 4-5 giờ cơ thể trở lại bụng đói như trước khi ăn, theo tiêu chuẩn của hãng dược phẩm Contour mới nhất từ 5.8-8.1mmol/l
Tuy nhiên, có những người ăn rất nhiều chất ngọt, không bao giờ thử đường, nhưng khi tôi thử cho họ thì đường khi bụng đói là 5.8mmol/l, tôi cho uống thử 1 thìa nhỏ đường, đo đường lên 6.8mol/l, không có nghĩa là 1 thìa nhỏ đường làm đường lên 1mmol/l, sau 15 phút tập khí công bài Cúi Lạy, để ép đùi vào 2 bên hông sườn kích thích co bóp gan và lá lách chuyển hóa đường và đo lại đường xuống còn 4.4mmol/l.
Cũng một bệnh nhân khác đo đường là 3.4mmol/l, do thiếu đường không thể tập được khí công sẽ làm đường tụt thấp thêm có nguy cơ bị té ngã hôn mê, cần phải uống 1 thìa đường rối mới tập khí công được, đo lại đường lên 7.0mmol/l, sau khi tập 15 phút, đo đường xuống 4.5mmol/l
Người khác trước khi tập đo đường được 7.7mmol/l sau khi tập khí công 15 phút, đo đường xuống 5.0mmol/l.
Người khác trước khi tập đo đường 6.5mmol/l, sau khi tập 15 phút đo lại, đường lên 8.0mmol/l
Những khác biệt ấy đều do tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn chậm hay nhanh, nhiều hay ít lệ thuộc vào khí lực nhiều hay ít, khí lực muốn có nhiều hay ít phải tập khí công làm tăng hay giảm khí lực tùy theo bệnh.
Khí Công Trị Liệu dựa vào kết qủa của công thức áp huyết theo tuổi, mà có bài làm tăng khí, giảm khí, giảm máu, (không tăng máu được nếu không ăn những thứ bổ máu hay B12), giảm đường, (không tăng đường được nếu không ăn thêm ngọt).
B-Nguyên nhân và Cách chữa ung thư :
a-Đề phòng bệnh ung thư :
Môn Khí Công Y Đạo nhờ máy đo áp huyết và máy đo đường cho ra kết qủa tỷ lệ giữa Khí lực/huyết/đường, nên đã có nhiều kinh nghiệm tìm ra được những bệnh biết trước bệnh nhân sẽ chết trong 2 trường hợp do Khí lực/ huyết/ đường qúa cao, qúa dư thừa, hay qúa thấp qúa thiếu :
-Khí lực dư / huyết dư / đường dư, qúa cao, qúa dư thừa, từ 200mmHg/140 mạch 140 chết bất tử bất cứ lúc nào.
-Khí lực thiếu/ huyết thiếu / đường thiếu, qúa thấp, qúa thiếu của nhửng bệnh nhân ung thư dưới 70mmHg/50 mạch 50, do đau đớn khó thỏ, tim đập chậm thoi thóp rồi chết hay uống thuốc an thần giảm đau rồi chết trong giấc ngủ.,
Áp huyết của những bệnh nhân đang bị ung thư có 2 trường hợp :
Áp huyết giả đánh lừa bác sĩ : 130mmHg/60 mạch 130 là mạch nhiệt nhưng trong người nóng khô đỏ cổ họng, nhưng tay chân lạnh, sợ lạnh, sợ nước, phải mặc áo ấm, vì cơ thể thiếu máu trầm trọng, mạch phải chạy thật nhanh bơm máu nuôi cơ thể để duy trì sự sống, nhưng vẫn không đủ máu chạy ra đầu tay chân, nên phải đổi ra áp huyết thật như người khỏe bình thường với mạch là 80, chúng ta sẽ thấy, vì thiếu máu nhịp tim đã phải đập nhanh hơn 50 nhịp (130 trừ 80= 50)
Lấy số khí lực 130 trừ 50, áp huyết thật sẽ là 80mmHg/60 mạch 80 là bệnh ung thư cấp tính.
Áp huyết của những bệnh ung thư tiềm ẩn mãn tính, người vẫn khỏe đi làm bình thường, nhưng cơ thể suy nhược dần, hoa mắt, đau đầu 1 bên hoặc 2 bên, chóng mặt, mất trí nhớ, rụng tóc, chân tay lạnh, đang có số đo áp huyết dưới 80mmHg/60 mạch 50, tự nhiên chân tay yếu té ngã hôn mê, không va chạm tổn thương bộ đầu, vào bệnh viện cấp cứu, bác sĩ mới báo tin là ung thư sọ não.
Cũng với áp huyết này, ăn chậm tiêu, chán ăn, bụng đầy, ợ chua đắng, bao tử teo dần, ăn vào ói ra, bác sĩ sẽ tìm ra bệnh ung thư bao tử.
Nếu thường đau bên sườn trái bác sĩ sẽ tìm ra ung thư lá lách, khi có dấu hiệu ăn vào là đi cầu tiêu chảy nhiều lần trong ngày, mất sức nhanh vì mất máu mất nuớc, mất nhiệt lượng.
Nếu đau sườn phải, ấn vào cứng đau, hay ợ chua đắng, không muốn ăn, vàng da, mặt xanh...bác sĩ sẽ tìm ra bệnh ung thư gan.
b-Cách chữa bệnh ung thư theo Khí Công Trị Liệu (Oxy liệu pháp) :
Cách chữa theo tây y, bất cứ cách chữa nào làm cho tỷ lệ Khí lực/huyết/ đường phục hồi làm tăng lên đến tiêu chuẩn là khỏi bệnh cho tuổi trung niên là :
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
và cho tuổi lão niên là :
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Tuy nhiên khi tây y chữa áp huyết lên 100mmHg thì những tế bào ung thư không còn tìm thấy, nên tuyên bố khỏi bệnh ung thư. Theo Khí Công Y Đạo vẫn còn đang bệnh, sẽ bị di căn tái phát khi áp huyết lại tụt thấp xuống dưới 90mmHg.
Những người có áp huyết ở mức dưới 90mmHg là dấu hiện tiền ung thư, đã có nhiều tế bào thiếu máu nuôi dưỡng bị bỏ đói lâu ngày trở thành tế bào ung thư, nhưng chưa hội đủ điều kiện kết tụ thành khối, vì nhờ cơ thể còn vận động, nằm 1 chỗ không vận động thì khối u phát triển nhanh hơn.
Trong 26 trường hợp bệnh do kết qủa máy đo áp huyết tìm ra, tây y chỉ chữa vào nhửng trường hợp Khí lực dư thừa là cao áp huyết, còn số thứ hai về huyết dư thừa, khi tâm trương cao, mà tim nhói đau, tây y tìn thấy sự nghẽn máu động mạch hay tĩnh mạch vành, màng bao tim, thì mổ làm stent cắt bỏ thay vào ống mạch lấy ở đùi hay ống mạch nhân tạo, là cách chữa ngọn và ngăn ngừa bằng loại thuốc chữa cholesterol, thuốc loãng máu Aspirin, thuốc giãn mạch, hạ áp huyết, lợi tiểu, táo bón, ức chế thần kinh giao cảm....chứ không chữa vào gốc bệnh
Những trường hợp bệnh do thiếu khí, thiếu huyết, thiếu đường gây ra nhiều biến chứng không chữa tận gốc được chỉ dùng thuốc giảm đau, hay mổ xẻ.
Còn phương pháp Khí Công Trị Liệu chữa rất đơn giản, chỉ làm cân bằng tỷ lệ 3 số của máy áp huyết :
Khí lực dư thì tập khí công làm bớt khí. Khí lực thiếu tập bài khí công làm tăng khí.
Huyết dư thì bớt ăn những thứ bổ máu, những chất béo, khó tiêu, nên ăn nhiều chất chua, Vit. C làm giảm lượng máu. Huyết thiếu thì ăn uống những chất bổ máu, kiêng ăn chất chua sẽ phá mất máu, tiêm hay uống B12, vitamines tổng hợp, B-Complex. Theo kinh nghiệm Khí Công Y Đạo, ăn 10 trái nhãn bằng 1 múi sầu riêng, bằng 1 trái hồng, áp huyết sẽ tăng 10mmHg. Đó là lý do tại sao một người bị bệnh cao áp, uống thuốc trị áp huyết mỗi ngày, cứ tin rằng đã uống thuốc kiểm soát được áp huyết xuống dưới 140mmHg, nhưng khi ăn nhãn, sầu riêng, hồng, áp huyết lên cao hơn 170mmHg trở lên mà không biết, thấy sầu riêng ngon ăn thêm vài múi áp huyết lên trên 200mmHg đang ăn đầu gục xuống bàn chết không cứu kịp.
Để điều chỉnh áp huyết cho người tiền ung thư dưới 90mmHg, hay người đang bị ung thư dưới 80mmHg, tùy theo tỷ lệ bệnh do khí lực, hay do huyết, hay do đường.
Do khí lực cần tập bài khí công tăng khí lực tăng oxy duy trì công thức máu Fe2O3, oxy nhiều sẽ khống chế tế bào ung thư không phát triển, không bị mất lượng máu. Nếu bệnh viện có tiếp máu cho bệnh nhân, 1 tuần sau lại thấy mất máu, chúng ta cứ tưởng bệnh ung thư có 1 loại virus gì khủng khiếp đáng sợ như ác quỷ ma cà rồng hút mất máu, thật ra tiếp máu làm tăng đơn vị lượng máu có công thức máu Fe2O3, thành nhiều đơn vị Fe2O3, Fe2O3, Fe2O3....nhưng không biết cách tập tăng oxy như phương pháp oxy liệu pháp gọi là khoa Khí Công Trị Liệu thì thiếu oxy làm phá vỡ công thức máu trở thành nhiều đơn vị sắt : Fe2+, Fe2+, Fe2+, Fe2+,..., vì lý do này mà bệnh ung thư tây y không cho uống thuốc hay chích thuốc bổ máu B12 mà không tập khí công nó sẽ háo oxy, làm cơ thể mất oxy thì tế bào ung thư không còn bị oxy kềm chế lại có cơ hội phát triển to hơn.
Nếu thiếu nồng độ đường thì ăn thêm đường và tập khí công để chuyển hóa đường. Nhưng theo tây y. Bệnh ung thư cũng cấm không ăn đường, vì công thức đường glucose là C6H12O6, ăn đường mà không tập khí công chuyển hóa đường thì lại bị mất oxy, chỉ còn lại C6H12 là một chất Hexene có nguy cơ kết dính khối u, chất hexene là nguyên liệu để làm thành nylon.
Như kết qủa cấu tạo thành phần hóa học, thì ung thư phát triển được do cơ thể không có khí Oxy duy trì công thức máu và công thức đường, nếu không biết cách tập khí công, vì tây y không có môn này, nhưng công nhận chữa ung thư phải tìm ra cách chữa bằng oxy liệu pháp, mới khống chế tế bào ung thư không phát triển và oxy dư thừa sẽ tự tiêu diệt tế bào ung thư.
Vì thế môn học Oxy liệu pháp hay Khí Công Trị Liệu này ra đời (Qigongtherapy) để bổ sung cho những thiếu sót cả về đông y lẫn tây y, đưa tây y tiếp cận lý thuyết đông y. Đưa kiến thức đông y ra ánh sáng bằng những máy móc tây y, có dẫn chứng xét nghiệm thử nghiệm thực tế bằng những thống kê kết qủa theo tây y.
Xin xem thống kê kết qủa ở link này :
Qigongtherapy Practice :
http://qigongrememo.forumatic.com/viewf ... c739e2fe33
Những bệnh nhân có dấu hiệu tiền ung thư và những bệnh nhân đang bị ung thư của tôi đã theo Khí Công Trị Liệu được tây y xác nhận khỏi bệnh, trong khi đó những bệnh nhân ung thư khác là những bạn đồng bệnh của họ tiếp tục trị liệu theo tây y đến nay đã sang thế giới khác.
Mới đây có 1 nữ bệnh nhân ung thư vú từ năm 2002, bác sĩ cho biết còn sống 6 tháng. Nếu bệnh nhân có tinh thần tiêu cực nằm 1 chỗ không ăn uống vận động, áp huyết tụt xuống dần cộng thêm tinh thần lo sợ, thì cái chết đếm sớm hơn.
Bệnh nhân theo lời khuyên của tôi, không cần chữa, mà phải có đời sống hoạt động tích cực, thiếu máu thì bổ máu, thiếu đuờng bổ đường, thiếu khí lực phải tập khí công, ăn không được phải dùng Vitamines, nên bà ta vẫn khỏe, đi làm bình thường.
Cách đây 4 tháng bà thử đi tái khám, bác sĩ nói tốt và hỏi tại sao cơ thể lại khỏe mạnh, bà khai là uống B12, ăn đường. Bác sĩ cấm và nói những thứ này làm tăng khối u bệnh ung thư sẽ tái phát nặng hơn, bà sợ nên ngưng, 1 tháng sau bà mệt yếu, xuống cân, tóc xơ xác, mặt hốc hác, thở gấp suyễn, không thở được như người đứt hơi, bà đến gặp tôi trong tình trạng này, nhờ tôi cứu bà.
Tôi hỏi bà có uống B12 và đường không, áp huyết của bà bây giờ là 76mmHg/60 mạch 60 là Khí lực thiếu/huyết thiếu/đường thiếu. Bà nói bác sĩ nói tôi chỉ còn sống 3 tuần vì ung thư đã di căn toàn thân hết chữa được rồi.
Tôi bảo nếu bà muốn sống thì trong 3 tuần này phải tích cực tập thở, tập khí công, uống B12, thêm trà gừng mật ong sau mỗi bữa ăn, bà đến tôi kiểm soát áp huyết mỗi tuần cải thiện dần áp huyết lên trên 100mmHg/70 mạch 68, bà đã qua khỏi ngưỡng cửa của tử thần, và bà tái khám, không nói với bác sĩ là uống B12 và ăn ngọt chỉ nói tập khí công, bà đến tôi mặt vui vẻ hơi hồng hào, tăng cân hơn, bà báo tin mừng bác sĩ cho biết hết tìm thấy di căn của bệnh ung thư rồi.
Nhiều người không tin ung thư do thiếu máu và đường, nên cơ thể đau đớn do khí huyết không đủ tuần hoàn nuôi các tế bào, lại nằm một chỗ, không ăn uống được, cứ chờ đến ngày hóa trị liệu hay xạ trị liệu làm mất máu mất khí suy nhược thêm, chỉ uống thuốc morphine giảm đau đớn đâu phải là cách chữa phục hồi khí lực/ phục hồi lượng máu cho cơ thể hoạt động để tái tạo lại chức năng hoạt động của tế bào, rồi lại nghe uống nha đam, lá đu đủ, lá sả...hay thuốc nam thuốc bắc chuyên trị ung thư mà không biết thuốc đó có làm tăng công thức khí lực/huyết/đường lên để khỏi bệnh hay không hay nó lại làm giảm xuống thêm cho đến khi lìa đời.
Trên đây là nói chung về công thức áp huyết đổi sang công thức Khí Công Trị Liệu là:
Khí lực/ huyết/đường để khám tìm thấy ngay nguyên nhân bệnh nan y và ung thư trước khi tây y tìm ra những bệnh này.
Còn cách tìm bệnh ở cơ quan tạng phủ nào bệnh, có nguy cơ ung thư trước nhất, chúng ta sẽ tìm hiểu về máy khám bệnh Masimo IspO2 ở bài viết về kinh nghiệm sử dụng khám tìm bệnh.
Thân
doducngoc