Mùa
Vọng, ngày xưa thường gọi là “Mùa Áp” (theo tiếng Latinh là Adventus,
từ động từ Advenire, tiếng Anh là Advent, có nghĩa là “đến gần”), với ý
nghĩa là Mùa “trông đợi”, “mong chờ”.
Theo truyền thống Giáo Hội, Mùa Vọng có bốn ý nghĩa sau: Mùa kỷ niệm thời gian chuẩn bị đón Chúa Kitô "đã đến" lần thứ nhất; Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" lần thứ hai vào ngày tận thế; Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" viếng thăm vào cuối đời mỗi người chúng ta; Mùa chuẩn bị tâm hồn Kitô hữu xứng đáng để mừng Lễ Giáng Sinh sắp tới.
1/ Mùa Vọng là Mùa kỷ niệm thời gian chuẩn bị đón Chúa Kitô “đã đến” lần thứ nhất cách đây hơn 2 ngàn năm.
Kỷ niệm ở đây không đơn thuần là hoài niệm, không chỉ là những hình ảnh
hay biến cố để ghi nhớ, nhưng là một thực tại để sống.
Mùa
Vọng trước tiên là Mùa để chúng ta sống lại lịch sử ơn cứu độ của Đức
Kitô trong cuộc đời mình, bắt đầu từ việc dân Do thái mong đợi và chuẩn
bị Đấng Messia (Chúa Kitô) đến để "giải phóng" họ khỏi ách nô lệ, đặc
biệt là nô lệ tội lỗi. Isaia đã loan báo, Gioan Tẩy Giả đã dọn đường,
dân chúng cũng đã chịu phép rửa sám hối để đón nhận Đấng Messia.
Đấng
Messia là Đức Kitô đã đến, ban đầu người ta cũng hồ hởi đón nhận Ngài,
nhưng rồi thấy Ngài là Đấng không giống như mình nghĩ, không hành động
như mình mong, không thực hiện những điều như mình muốn, nên người ta
dần dần bỏ Ngài. Hơn nữa, vì quyền hành và tham vọng, vì kiêu căng và
lòng chai dạ đá, nên các vị lãnh đạo tôn giáo muốn khai trừ Ngài.
Quả thật,“Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận”
(Ga 1, 11). Người Do Thái đã muốn nắn đúc Vị Cứu Tinh theo ý đồ và
tham vọng của họ, muốn đúc khuôn một Vị Cứu Thế theo quan niệm và mơ ước
của họ, nên đã không nhận ra hay không muốn nhận ra Ngài. Cuối cùng,
Chúa Giêsu đã chết cho những ảo tưởng, kiêu căng và tội lỗi của họ, và
thật ra cũng là của nhân loại, của mỗi người chúng ta.
Cho
tới ngày nay họ vẫn còn gục đầu vào bức tường than khóc để chờ đợi một
Đấng Messia như lòng họ mong ước, chứ không như Thiên Chúa ước mong.
Như vậy, sống lại lịch sử của ơn cứu độ trong Mùa Vọng là để chúng ta
xác tín rằng, thái độ mong đợi và chuẩn bị Chúa đến trước tiên phải là
hành vi tẩy não và thanh lọc cuộc sống mình, để không rơi vào tình trạng vong thân và lạc mất ơn cứu độ như dân Do Thái xưa.
Nói đến tẩy não
là vì trong đầu óc ta đầy những tạp niệm, định kiến, thành kiến, thiên
kiến; cũng như những hình dung và quan niệm lệch lạc hoặc thiếu xót về
Thiên Chúa, về chính mình và tha nhân, để từ đó sáng lên một cái nhìn
trung thực, đúng đắn, rõ ràng và thâm sâu về mọi sự theo cái nhìn của
Thiên Chúa.
Nói đến thanh lọc
là vì bản thân ta luôn dễ bị ô nhiễm bởi nhiều ham muốn, đam mê, dục
vọng, khiến ta sa lạc, và nô lệ cho tội lỗi. Tội lỗi làm tâm trí ta trở
nên đen tối không còn khả năng nhận diện và gặp gỡ Chúa. Vì thế, tẩy
não và thanh lọc bản thân điều kiện tối cần. Đó cũng là hành vi tự cứu
độ mình trước khi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
2/ Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô “sẽ đến” lần thứ hai vào ngày tận thế. Ngày đó cũng là ngày “không ngờ”, ngày mà “Con Người sẽ ngự đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả!”
để xét xử phân minh. Tuy nhiên đối với những ai có lòng tin nơi Đấng
Cứu Thế, và sống theo Phúc Âm của Ngài, thì ngày đó, không đáng kinh
khiếp, nhưng lại là “Ngày Giải Thoát” để bước vào miền hạnh phúc viên
mãn của cuộc sống “trường sinh, vinh hiển”, một “Trời Mới Đất Mới” (Is
65, 17; 66, 22 ; Kh 21, 1-4). Hoa quả của lòng tin chính là đức ái
trong mọi tương quan hằng ngày. Tiêu chuẩn chính yếu của ngày chung
thẩm không có gì khác hơn là tình yêu mến, là đức ái (x. Mt 25, 32-55).
Dostoievski
có lần kể câu chuyện về một người phụ nữ ở dưới luyện ngục, tha thiết
xin thánh Phêrô cho lên thiên đàng. Thánh nhân yêu cầu bà nhớ lại xem
đã làm được điều gì tốt để ngài có thể dựa vào lý do đó mà xét cho vào
Thiên đàng. Người phụ nữ nhìn lại thật tỉ mỉ cuộc đời và nhớ chắc chắn
đã có lần cho lão ăn mày khốn khổ một củ hành. Bà vội trình với thánh
Phêrô và ngài phán, vì ngươi đã cho kẻ khó một củ hành nên bây giờ ta sẽ
cột sợi dây vào củ hành thả xuống luyện ngục, rồi ngươi cứ bám vào đó,
ta sẽ kéo lên. Thế là người phụ nữ bám chặt vào củ hành để thánh Phêrô
kéo lên. Khổ nỗi khi thấy bà được kéo lên, những người khác nhao nhao
xin theo và bà ra sức dẫy dụa đạp họ xuống, vừa đạp vừa la “một mình tao
lên thôi!” Nhưng vì dẫy dụa quá nên sợi chỉ đứt luôn và bà vẫn ở lại
chỗ cũ.
Tới
lúc lên thiên đàng mà vẫn còn ích kỷ. Câu chuyện này có thể làm ta
liên tưởng đến hình ảnh các nhân vật tư tế và trợ tế trong dụ ngôn Người
Samari nhân hậu (x. Lc 10) khi họ vội vã lên đền thờ mà bỏ quên tha
nhân trong cảnh đau khổ. Thiếu tình yêu, thiếu bác ái với tha nhân, thì
những cố gắng chu toàn các bổn phận thờ phượng có nghĩa lý gì? “Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.” (Mt 9, 13).
3- Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô "sẽ đến" viếng thăm vào cuối đời mỗi người chúng ta. Không ai biết được ngày giờ nào, vì thế, hãy chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng. Như Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào!” (Mc 13, 33). Thánh Phaolô cũng khuyên: “Chúng ta mong chờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra…” và mong rằng “chúng ta bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Chúa Kitô, Chúa chúng ta ngự đến” (1Tx 5, 23)
Thường
xuyên suy gẫm về sự chết là cách thế hữu hiệu nhất để sống cách tốt
nhất. Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm:
“Nếu tôi biết ngày mai mình sẽ chết, thì hôm nay tôi sẽ sống một ngày đẹp nhất." Chúng
ta chưa sống từng ngày đẹp nhất là vì cứ tưởng mình còn lâu mới chết.
Đó cũng là cám dỗ của ma quỉ để ta mê say cuộc sống này mà mất đi sự
cảnh giác.
Ai
cũng dễ ham mê gây dựng cho mình một sự nghiệp trần thế, muốn có uy tín
hơn, sáng giá hơn, chức vụ cao hơn, ảnh hưởng lớn hơn, mọi người nể
phục hơn, làm nên những công trình to tát hơn. Ít có ai muốn sống âm
thầm, hiền lành, khiêm tốn và vui lòng chịu khó, chịu khổ theo ý Chúa
muốn; ít ai muốn chịu khinh khi, chịu xóa mình, chịu quên lãng, để sống
cho Chúa và tha nhân. Nhưng rồi tất cả những gì chúng ta gầy dựng để
mong hưởng thụ cho riêng mình đều là hư vô, vì khi nằm xuống trong lòng
đất rồi thì tất cả đều chấm dứt, chẳng còn lại gì. Chẳng ai còn nhớ đến,
thế hệ tương lai cũng chẳng biết ta là ai, hiện hữu cũng vậy, không
hiện hữu cũng thế, duy chỉ một mình Chúa biết. Quả thật, ý nghĩa và giá
trị cuộc sống của ta chỉ ở nơi Chúa mà thôi. Vì thế, đừng bao giờ tìm
kiếm những gì ngoài Chúa, những gì không phải là Chúa.
4. Thực tế, Mùa Vọng là mùa chúng ta chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để mừng Lễ Giáng Sinh sắp
tới. Thật sự ta chẳng bao giờ xứng đáng được với chính Chúa, Đấng
thánh thiện vô ngần, nhưng chỉ là bớt bất xứng hơn. Điều này đòi hỏi
mỗi người cứ phải hoán cải, sửa đổi và tu chỉnh cuộc sống không ngừng,
để góp phần với Chúa làm cho cuộc sống trở nên chân thật hơn, khiêm tốn
hơn, yêu thương hơn, cao đẹp hơn, an bình hơn, như tiên tri Isaia đã hô
hào, như Gioan Tẩy Giả đã loan báo, như trong thơ 2Phêrô 3-9 đã nhắc lại
“Thiên Chúa kiên nhẫn đối với anh em; vì Ngài không muốn cho ai phải
diệt vong, nhưng muốn mỗi người đi đến chỗ ăn năn hối cải …”.
Nguyễn Trãi có câu: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận. Tái hồi đầu thị bách niên cơ”
(Một bước sa chân là ngàn đời ân hận. Quay đầu trở lại là trăm năm cơ
đồ). Cần làm một cuộc trở lại cách đặc biệt trong Mùa Vọng này: trở lại
với Chúa, trở lại với anh em, và trở lại với chính mình để đón nhận một
sức sống mới.
Chúa Giáng Sinh không chỉ là một biến cố hồng phúc đối với Đức Maria
ngày xưa, nhưng còn là một biến cố ân phúc đối với mỗi người chúng ta
ngày nay. Theo cha Zundel, điều này có nghĩa là Chúa cũng muốn cho
chúng ta nên giống như Đức Mẹ là cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa
lớn lên trong cuộc đời mình. Đây là điều chúng ta đọc thấy trong phụng vụ lễ Giáng sinh: “Một đứa trẻ được sinh ra cho chúng ta”.
Thiên
Chúa muốn sinh ra từ chúng ta cũng như chúng ta được sinh ra từ Ngài.
Điều bí ẩn sâu sắc nhất của Phúc Âm, đó là Thiên Chúa muốn sinh ra từ
lòng mến của chúng ta. Người ta chỉ tin vào Thiên Chúa, tin vào Phúc Âm
khi bộ mặt của Chúa Giêsu lộ rõ trong đời sống của chúng ta, để từ đó
ta mới có thể trao ban Chúa cách đích thực cho người khác. Mỗi lần
khuôn mặt người khác được sáng lên do sự tiếp xúc với lòng bác ái của
chúng ta, thì đó là nét mới của khuôn mặt Thiên Chúa được lộ ra. Nếu
không như thế, thì đời sống thiêng liêng, mọi hoạt động tông đồ và
truyền giáo đâu có nghĩa gì. Đó cũng chính là sự thể hiện tính cách mầu
nhiệm, hiệp thông và sứ vụ của Giáo Hội trong cuộc đời của mỗi người
chúng ta.
Hiểu như thế và xác tín thâm sâu như vậy, chúng ta mới thấy Lễ Giáng
Sinh có một ý nghĩa trọng đại trong từng năm của cuộc đời mình. Nhờ đó,
ta biết chuẩn bị bằng cách cải đổi tâm hồn mình như thế nào để phát
sinh hiệu quả ơn thánh và làm lớn mạnh công trình tình yêu mà Chúa muốn
thực hiện nơi mỗi người chúng ta.
LM Thái NguyênPhạm Anh chuyển