Mời nghe Sĩ Phú hát Xuân Tha Hương
https://www.youtube.com/watch? v=tp1TjRt1lm4&list= PLfe9JTtbGcgWZhSBO6iSJEGcHVNbW c7c5
Những ca khúc hay nhất của Sĩ Phú
https://www.youtube.com/watch?v=Ik4CKaZ_eUE&list=RDIk4CKaZ_eUE#t=36
NHẠC SĨ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG PLAYLIST
Xin
quý thân hữu nhớ đọc phần giới thiệu pps Xuân Tha Hương của giáo sư Vũ
Công Hiển và phần nói về nhạc sĩ Phạm Đình Chương
TRẦN NĂNG PHÙNG
Sĩ Phú
... khi
nghe
hung tin Sĩ Phú đột ngột qua đời, tôi bàng hoàng rung động. Cả một dĩ
vãng êm đềm bỗng sống dậy mãnh liệt trong lòng tôi. Cả cuộc đời, nhất là
ở lứa tuổi của chúng tôi, không ai mà không yêu tiếng hát Sĩ Phú. Giọng
ca quý phái ấy, rất truyền cảm trữ tình ấy,
êm đềm như tơ lụa, ngọt ngào như dòng nước mát đã chảy vào tim và làm
rung động biết bao tâm hồn của những người yêu tình ca. Chúng tôi đã
sống, và cùng trưởng thành với giọng ca tuyệt vời của Sĩ Phú. Anh đã là
một phần đời của chúng tôi. Anh là người chắt
chiu gìn giữ những kỷ niệm và trao trả những thân tình ấy lại cho chúng
tôi bằng tiếng hát thật ngọt ngào, đầm ấm, ru lòng người của anh. Đã
bao nhiêu năm trôi qua, nhưng tiếng ca của anh mãi mãi vẫn còn lắng đọng
trong tim tôi. Tuy chưa một lần gặp mặt anh,
chưa từng cùng anh dạo bước rong chơi, nhưng sao lòng tôi mãi vương
vấn…
"Vĩnh biệt Sĩ Phú, vĩnh biệt anh bằng bài hát thay
cho tiếng lòng. Để muôn đời lưu luyến mãi những gì anh hát!"
HQ - San Jose
HQ - San Jose
______________________________ ____
Nhớ Phạm Đình Chương
PHAN LẠC PHÚC
Nhạc
sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương ra đời tại Hà Nội ào năm 1929, trong một
gia đình nghệ sĩ, học Trường
Bưởi, tản cư vào Thanh Hóa sau Toàn Quốc Kháng Chiến chống Pháp 1945.
Sáng tác nhạc trước tuổi 20, ông là tác giả những ca khúc dân tộc như
Tiếng Dân Chài, Ly Rượu Mừng, Hội Trùng Dương, hay những sầu khúc nhạc
phổ thơ như Nửa Hồn Thương Đau, Mắt Biếc, Mộng
Dưới Hoa, Người Đi Qua Đời Tôi ...
Tới Hoa Kỳ được ít
năm, Phạm Đình Chương từ trần tại Quận Cam, California vào ngày 13 tháng
7 năm Tân Mùi, nhằm ngày 22 tháng 8 năm
1991. Bài dưới đây của nhà bỉnh bút Phan Lạc Phúc, hay Ký giả Lô Răng,
một bạn học của nhạc sĩ từ Trường Bưởi, được viết ngay sau khi có tin
buồn.
Chuông
điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú phone từ bên kia Thái Bình
Dương, từ Mỹ báo tin: "Phạm Đình Chương
đã mất rồi, Hoài Bắc không còn nữa". Tôi đặt phone xuống mà thấy đêm
khuya thêm vắng lặng mênh mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh giới
tử sinh thật là mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít
lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ
thê thảm. Mấy năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ Phạm
Đình Chương - Hoài Bắc. Già thì càng cần có bạn, mà bạn già thì càng
ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10 năm, rồi sống nín thở trên 6 năm,
vừa mới lặn ngòi ngoi nước sang được đến đây
thì bạn đã đi vào tịch mịch. Bạn ta Phạm Đình Chương đã đi thật rồi,
một người viết ca khúc tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi sao bản mệnh của
Ban Hợp Ca Thăng Long đã tắt.
Tôi
chơi với Phạm Đình Chương đã lâu, vào khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. "Khi mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng với môi tươi"(1). Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh Trường
Bưởi, trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa Thày, Tây Phương Hoàng Xá (2).
Ngày ấy, chúng tôi say mê hát "Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm" (3), "Này
thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi" (4) và Chương đã là một
tay đàn giọng hát khá nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai
người anh nổi tiếng: anh Phạm Đình Sĩ, một cây "kịch" và anh Phạm Đình
Viêm, một cây "tenor". Chương còn có một người
chị trứ danh, chị Thái Hằng, hoa hậu "bất thành văn" của suốt một miền
Bạch Mai - Phố Huế. Còn người em út của Chương, Thái Thanh thì lúc ấy
Thái Thanh còn nhỏ, đang còn học tiểu học, còn là một nụ hoa. Phải đợi
đến thập niên '50, bông hoa Thái Thanh mới bắt
đầu rực rỡ và tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.
Hà
Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành hoa lệ hay là Hà Nội của ba
mươi sáu phố phường nhưng thực chất nó
là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp hay gián tiếp. Và tỉnh
nhỏ nó còn có tục lệ riêng của nó. Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu
chuẩn "phi cao đẳng bất thành phu phụ". Thời tụi tôi thì cái standard về một đấng trượng phu nó nôm na và thực
tiễn hơn: "Đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu". Phạm Đình Chương
xét ra hội đủ những điều kiện ấy: Học trò Trường Bưởi, người cao ráo
sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đình nổi tiếng. Lại còn đàn ngọt,
hát hay, còn là ca trưởng của học sinh trong những
dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học trò nhà quê ra
tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng thì Phạm Đình Chương tư cách quá.
Thời ấy, Nhật đã vào Đông Dương. Thế Chiến thứ hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các thành phố
phải "phòng thủ thụ động", các trường học phải đi xa hoặc dời về
miền quê. Đang học mà có còi báo động là nghỉ; học trò kéo nhau ra các
khu cây cối um tùm, hoặc bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt cho
một số công tử Hà Nội, trong đó có Chương,
về thăm quê cho biết sự tình. Về quê thì tiện cho tôi quá, tôi có nhiều
trò: lội sông, câu cá, bắn chim. Hoặc là sẵn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi
cắm trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa Thày, chùa Tây Phương,
động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều nằm
trong vùng quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên tôi thuộc nằm lòng.
Đến chùa Tây Phương thăm ông Phật nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn,
ông Phật tai dài đến gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu
thanh, nhũ đán nào kêu đục, bắn một phát súng
cao su lên vòm đá là dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày (Sài Sơn)
thăm chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang Cắc Cớ nơi
có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh còn in. "Hội chùa Thày vui thay Cắc Cớ, Trai
không vợ nhớ hội chùa Thày - Gái không chồng nhớ ngày mà đi". Chương
ơi, Chương còn nhớ ngày hội về quê mình không? Còn nhớ con đê Hạ Hiệp
không? Mới đó mà đã 50 năm rồi, đã nửa thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ
cũng không thể nào về thăm được nữa. Bạn ta
đã thành người thiên cổ mất rồi.
Phạm
Đình Chương rất yêu miền Quốc Oai - Sơn Tây vì không những nó là một
miền thắng tích mà nơi đó còn là quê ngoại
của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt
cánh đồng. Chương tự nhận mình là người Sơn Tây và trong những năm đó
Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội và anh học trò
nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi mùa
Xuân đã cạn ngày, hội hè đã vãn, những cây gạo miền Bương Cấn đã tưng
bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú lảnh lót gọi hè về trong rặng vải
bên sông. "Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc" (5), con sông này
ngoài
mùa ngâu nước lũ, còn quanh năm nước chảy lặng lờ. Học trò tụi tôi lại
đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi đạn lạc ở thành phố, vừa
cắm trại vừa ôn thi.
Nhưng
đến năm 1945, thanh niên như Chương và tôi không còn đầu óc nào mà học
hành thi cử nữa. Bao nhiêu vấn đề trọng
đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn, hàng triệu người chết đói. Nhật đảo
chính Pháp ngày 9 tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế
chiến II kết liễu Đức - Ý - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo sang Chiến
Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8 Quân
đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy bình dân học vụ, đi khất
thực, đi biểu tình. Chúng tôi say mê hát "Lên Đường", lao đầu vào một cuộc chơi mới không kém phần lãng mạn: đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là
Trung đoàn thủ đô. Như lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và tôi khoác ba lô lên đường kháng chiến.
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
(Quang Dũng)
Những
năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có những thị trấn mọc lên vội
vã. Khu 10 Việt Bắc có thị
trấn Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần, Chợ Đại; vào
khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là nơi dân tản cư tứ xứ kéo về
sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính
cậu ngày nào bây giờ sốt rét, xanh rớt như tàu
lá, mắt trợn trừng, tóc rụng nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được
dịp là phải về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ ...
Đầu
mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên Chợ Đại tìm ít thuốc
nivaquine chống sốt rét. Trời
mưa nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở đầu đường,
hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang một cái tên khá là kiểu
cách"Quán Thăng Long". Ở trên vách quán, có treo song song mấy
cây đàn nguyệt và một cây thập lục. Ở dưới, bên
khay trà tỏa khói có hai vị trưởng thượng đang ngồi đối ẩm. Hai vị này
tôi biết: ông thân của Phạm Đình Chương và cụ N. T. Đức, một danh cầm
của toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ vẫn nhàn
nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ
ở đây Thăng Long Đông Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường hoàng, cốt cách.
Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn
mang nguyên chiếc kiềng chạm bằng bạc của một thời khuê các, như Thái
Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm
chỉnh ngồi đan.
Người
vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của Chương. Bà hỏi thăm "quê mình
bây giờ Tây nó đánh đến
đâu rồi". Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa có tin tức gì.
Anh Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi ban kịch Giải Phóng, chuyên
hát bài"con vỏi con voi" và "con mèo trèo cây cau" nhạc hài hước của Nguyễn Xuân Khoát. Còn Phạm Đình
Chương thì công tác ở liên khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa mới được giải thưởng về bài hát "gì mà có con cò bay lả bay la".
À
ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao vào nhạc mới. Chương,
Chương, có phải cánh cò ấy là cánh cò bay qua rặng vải triền sông Đáy?
Còn cánh đồng nào rào rạt lúa thơm
mềm (6) có phải là cánh đồng Bương Cấn khi chúng ta "Lên núi Sài Sơn ngóng lúa vàng" (7).
Tôi nhớ mãi lời bà thân của Chương khi đưa cho tôi gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine: "Giữ
lấy mà dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này đâu". Đúng như
thế, dạng "tạch, tạch, sè" (tiểu tư sản) như Chương và tôi thì dù sốt
rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ được phát thuốc ký ninh pha loãng là
cùng. Nivaquine thuốc mới, công hiệu, đắt tiền
chỉ đủ dùng cho "tổ chức" mà thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một
số anh em đã "áo bào thay chiếu ..." (8) còn đa số dân tạch tạch
sè là kẻ trước người sau "dinh tê" về Hà Nội. Những va chạm với thực tế
làm
cho giấc mơ tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lãng mạn đầu đời đã trở thành
một nỗi đam mê vô ích. Tôi về cuối năm 49 còn Chương và gia đình hồi cư
năm 51.
Gia
đình Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng danh: Phạm Duy. Năm 1949,
chiến tranh lan đến vùng
chợ Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn nhậm của viên
tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm
Duy, Thái Thanh vừa lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình
Chương phục vụ trong phòng văn nghệ của một đại
đoàn. Quán Thăng Long không còn nữa nhưng tiền thân của ban Hợp Ca
Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn nhớ rõ gia đình Phạm
Đình Chương về trước hay sau cái chết của viên tướng đầy huyền thoại
Nguyễn Sơn. Chỉ biết là ban Thăng Long vào thành nhưng
không ở lại Hà Nội mà vô thẳng miền Nam lập nghiệp.
Năm
1952 tôi cũng vào Nam, học nghề lính tại trường Thủ Đức. Những ngày
cuối tuần ra Sài Gòn chơi,
thấy đầu đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích chương, quảng cáo
ban Hợp ca Thăng Long. Báo hàng tuần, hằng ngày đều đăng hình ảnh, lịch
trình diễn của Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy.
Ban Hợp Ca Thăng Long đang rực sáng, những
thành viên của nó đang được mến yêu. Người Sài Gòn vốn bộc trực "yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét" mà
đã yêu thì yêu hết mình; chương trình của Ban Thăng Long trên đài phát
thanh rất được lắng nghe -
trình diễn của Ban Thăng Long lại càng ăn khách. Ngưới ta mua "giấy"
báo xem thật đông, vỗ tay thật nhiều nhưng còn chưa "đã". Buổi trình
diễn xong rồi, người ái mộ còn ở lại để tìm cách đến thật gần, nhìn thật
kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng cái chân
vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của mình. Người miền Nam ái mộ ồn ào như
thế, dễ thương như thế.
Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đã tự hỏi: "Vì sao mà trong một thời gian chưa đầy
hai năm, Ban Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?" Tôi vốn dốt
về nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa ra ý kiến có
tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan dân dã của mình tôi nhận
thấy thực chất của Ban Hợp Ca Thăng Long nằm
trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe tiếng hát chen tiếng ngựa hí(Ngựa Phi Đường Xa), vui lâng lâng khi nhìn cánh cò bay lả bay la trên đồng lúa chín vàng (Được Mùa), vui đầm ấm khi nghe tiếng hò dô vang trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui
thấm thía nghẹn ngào khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa mới trở về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc, cái vui đã được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng người.
Đồng
bào miền Nam xưa nay thừa thãi điệu buồn nên trong cái vô thức tập thể
nó thiếu một niềm vui khỏe
mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được niềm khao khát đó.
Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm tính rất phù hợp với miền Nam: tất
cả thành viên ban hợp ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài
hoa quá. Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất
là sau đó ít lâu, ban hợp ca Thăng Long lại có thêm một thành viên mới:
Khánh Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc - Khánh Ngọc
một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng Long càng thêm sung sức.
Nhưng
phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca Thăng Long mới lên đỉnh cao thành
tựu của mình. Năm ấy
ban Hợp ca cùng với "quái kiệt" Trần Văn Trạch, thành lập ban Gió Nam
ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là thương binh nằm nhà thương Võ
Tánh. Nghe báo chí Hà Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió
Nam mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn
xao hâm mộ quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi ra xem Gió
Nam trình diễn.
Nhưng
mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn chỗ. Tôi lững
thững đứng ngoài nghe tiếng
vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt. May quá gặp
Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở Ngọc?).
Người
Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần
này, người Hà Nội bị
ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó tân nhạc ở Hà Nội
chỉ là một bà con nghèo trước cải lương, tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm
được vai trò phụ diễn trước khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi.
Bây giờ Ban Hợp ca Thăng Long với một chuỗi
ngôi sao nhạc mới đã chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên
tục. Khán giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc mới tân kỳ
sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước trưởng thành của tân
nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những đại nhạc hội
sau này.
Buổi
trình diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra chào khán giả. Đèn rực
sáng. Những bó hoa trao cho
những nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó hoa vẫy
vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết rằng trong số khán giả
vô danh ấy, có một người bạn cũ của Chương đang vỗ tay kịch liệt.
Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đình
Chương sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp ca Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng ... đều xuất hiện trong giai đoạn này.
Không
biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng Phạm Đình Chương trong giai
đoạn này vẫn mang dáng vẻ
một anh học trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương, con người, thiên
nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa thế nào cũng tới, leo núi mệt
nhọc rồi cũng đến nơi, đồng ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy
trăng và đầy cá. Thế vẫn còn chưa hết, Chương
còn rót một ly rượu mừng, mừng khắp nhân gian. Hãy lắng nghe đi, có một
nụ cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như tiếng reo
vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến điệu buồn; giọt lệ rưng rưng
chờ mong bóng con của người mẹ già hay nỗi
khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi đá:
Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi
Mùa đông thiếu áo (9) ...
Nhưng
liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ này rất ít
so với niềm vui ào ạt,
chỉ như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi lên sắc
trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến bằng tấm lòng nhân ái,
tâm hồn Chương là vậy, mở ra, hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương
không phải là người hướng nội, đi tìm thú đau thương
trong những kiểm tra, tự vấn nơi mình. Đó là thực chất nhạc Phạm Đình
Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca Thăng Long ...
Giai
đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đình Chương bắt đầu từ một kỷ niệm buồn:
Ngày Khánh Ngọc rời xa
vào khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng cũng tìm về
hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà Huyện Thanh Quan không người
ở. Hoài Bắc, Thái Thanh và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh
(Frères Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này
tôi thường đến bầu bạn với Phạm Đình Chương cùng với Thanh Nam, Mai
Thảo. Tụi tôi đến "hầu bài" bà thân của Chương để được ăn những bữa cơm
nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu rán ...
Lúc
này, hình như Chương muốn ra khỏi vùng hào quang sáng chói của một ca
sĩ thời danh để được sống
bình thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu cách,
Chương ăn vận xuề xòa, đi dép không quai lẹt xẹt, chiếc xe hơi dài thòng
Studebaker đã được bán đi. Nụ cười kiểu jeune premier đã tắt và đặc
biệt Chương để một hàm râu mép chàm ràm, rậm rịt.
Lúc này, tụi tôi có một tên mới để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang
phóng túng hình hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một
tiếng giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm Đình Chương.
Ban
Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế tưởng đã rã đám. Nhưng đầu
những năm '60, ban Thăng
Long gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh. Ban Thăng Long
sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng nhưng đó chỉ là cái bóng của
chính mình. Phạm Duy đã mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân
tộc đi xa, còn tiếng reo vui chan hòa và nhân
ái của Phạm Đình Chương cũng không còn xuất hiện. Trong thời kỳ này ban
Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất được hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này không phải của Chương mà của một tài danh khác: Văn Phụng.
Thời
kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rõ như gương, tha nhân và ngoại giới
đều là bè bạn của Chương
đã khép lại rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau thương và
tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là nghề của chàng. Như đã
nói, Chương không phải là người hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ
giải sầu. Nỗi đau thì có sẵn và Chương muốn
giữ một mình nhưng lời oán hận thì không. Cho nên những khúc bi ca sau
này như Nửa Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội, Chương
đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn
... Chương làm công việc phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên
tâm sự của mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được yêu
thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương nó vẫn như một sự "Chẳng đặng đừng". Về bề ngoài, hai
giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ đối nghịch nhau nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tâm hồn nhân ái của tác giả.
Nói cho ngay từ thập niên '60 trở đi, việc ca hát đối với Chương cũng là một sự "chẳng đặng đừng".
Thì cũng phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông coi phòng trà ca nhạc "Đêm Màu Hồng" Chương
cũng làm chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng khoáng
ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây là một phòng trà gợi
nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về một thuở mộng mơ đã tắt, về một
khung cảnh Việt Nam đã xa, về một ban Hợp ca Thăng Long đã tàn. Phạm
Đình Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người mộ điệu hoặc
lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được yêu
cầu. Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười nhếch mép đã tạo nên
không khí Đêm Màu Hồng vì phần lớn khách đến đây đều là thân hữu.
Chúng
tôi, những buổi phùng trường tác hí là vào khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà
tà kéo đến Đêm Màu Hồng. Bạn bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu
vị như thế nào thì chủ quán
biết rồi. Vũ Khắc Khoan thì phải Con Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng
lại còn phi lên sân khấu mà ngâm "Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót về đâu". Thanh Tâm Tuyền thì phải Mộng Dưới Hoa. Thanh Nam thì Cô Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh lại
hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu đây ông? Có bữa Râu Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một mình (ít khi lắm).
Hát tiếng Tây "Un jour si tu m'abandonnes" (Ngày nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương bỏ luôn phòng trà cùng Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo kéo lên "Quang Minh Đỉnh".
Trong những năm "Đêm Màu Hồng" tôi
thường cố giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm một
bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng Thái Thanh. Cô em nhỏ
ngày
nào đi kháng chiến bây giờ trở thành tiếng hát vượt thời gian. Có lần
tôi nhận được cặp bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi cho.
Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ quê hương phủ Quốc
gửi vào.
Những
lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai
Thảo ngồi từ từ uống rượu,uống cho say, uống cho quên uống không không
mệt mỏi. Tôi chợt nhớ một câu của Mai Thảo "Chúng
tôi thân với nhau trong một tình thân thiết rất buồn rầu".
Buổi
cuối cùng tôi gặp Phạm Đình Chương đâu vào khoảng tháng 5 năm 1975 khi
"đứt phim" được chừng hơn 1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên
Gia Định có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang
thêm một chai rượu vang còn sót lại. Các bạn có ý tiễn đưa tôi và Thanh
Tâm Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương.
Rồi
Chương và tôi đạp xe ra về trươc. Đạp toát mồ hôi đến quãng Trần Quốc
Toản thì mỗi đứa mỗi đường. Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo.
Chương nắm lấy tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: "đi
nhé". Tụi tôi xưa nay ít có cái trò nắm tay, nắm chân như vậy, nhìn
nhau một cái là đủ rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi
trước việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về. Nhưng bây
giờ, 16 năm sau, tôi đã đi cải tạo về rồi, Chương
lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi nhé! Ngàn năm vĩnh biệt
Phạm Đình Chương.